Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Đặc điểm và thành tựu của hội họa Trung Quốc cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.38 KB, 8 trang )

A. MỞ BÀI
Trong thế giới cổ đại phương Đông xuất hiện bốn nền văn hóa lớn gồm Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Hoa. Không trầm mặc, cổ kính như Ấn Độ, huyền bí như Ai
Cập mà văn hóa của Trung Quốc thời cổ - Trung Đại này mang những sắc thái riêng và
đậm màu sắc Trung Quốc. Một nền văn hóa phát triển rực rỡ và những thành tựu và
Trung Quốc đem lại không những có giá trị to lớn ở thời kì cổ trung đại mà còn có giá trị
ở cả thời kỳ sau này và ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt, hội
họa Trung Quốc cổ là một trong những nghệ thuật truyền thống lâu đời nhất trên thế giới..
Em xin chọn đề tài: “Đặc điểm và thành tựu của hội họa Trung Quốc cổ trung đại” làm
bài tập cá nhân, để nhận thức phần nào được thành tựu hội họa của nền văn minh Trung
Quốc. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót
và hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô để em có cái nhìn đúng đắn và
sâu sắc hơn vấn đề, đồng thời có thêm kinh nghiệm cho những bài tập lần sau.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về nền văn minh và nguồn gốc của hội họa Trung Quốc cổ trung đại
1. Vài nét về văn hóa, xã hội, lịch sử
Trung Quốc là một nước lớn ở phía Đông của Châu Á. Cách chúng ta khoảng
500.000 năm ở vùng Chu Khẩu Điếm đã có con người sinh sống. Đó là người vượn Bắc
Kinh. Theo truyền thuyết, vào khoảng ba, bốn ngàn năm trước đây có một tộc người sinh
sống ở dưới chân núi Hoa và ven sông Hạ. Cộng đồng này được gọi là người Hoa, mặc
người Hạ ngày nay. Thời kỳ phát triển của người Hoa Hạ là thời kỳ Tam Hoàng ngũ đế.
Ngay từ thời kỳ xa xưa họ đã có nhiều thành tựu về thiên văn học, lịch pháp, y học, triết
học và các khoa học tự nhiên, văn học, mỹ thuật. Tất cả mọi yếu tố: điều kiện địa lý, dân
cư, lịch sử, sự xuất hiện chữ viết, những thành tựu về khoa học kỹ thuật, những trào lưu
tư tưởng lớn… đã là cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa cổ trung đại.
Lịch sử Trung Quốc được chia ra làm nhiều thời kỳ: Thời Tam hoàng ngũ đế;
Nhà Hạ (21 – 16T CN; Nhà Thương (16TNC - 11TCN); Nhà Chu (1066 – 221 TCN); Nhà
Tần (221 – 206 TCN); Nhà Hán (206 TCN – 220 SCN); Thời Tam Quốc (220 – 280);
Nhà Tấn (265 – 420); Thời Nam Bắc Triều (420 – 589); Nhà Tuỳ (581 – 618). Sang
nhà Tuỳ đến nhà Đường (618 – 907). Thời Ngũ đại ở miền Bắc và Thập quốc ở miền
Nam (907 – 960). Tống (960 – 1279). Nguyên (1271 – 1368). Minh (1368 – 1644) và


nhà Thanh do người Mãn Châu thành lập từ 1644 – 1911 kết thúc.


2. Nguồn gốc của hội họa Trung Quốc cổ trung đại
Nghệ thuật tranh Trung Quốc có lịch sử đã lâu đời. Hơn 2000 năm trước vào thời
kỳ Chiến Quốc đã xuất hiện những bức tranh vẽ trên lụa là gấm vóc, còn ở thời kỳ
nguyên thủy trước đó nữa đã có những tranh vẽ trên nham thạch và gốm màu. Những
tác phẩm hội họa cổ xưa này đã đặt định cơ sở cho phương pháp tạo hình chủ yếu của
nền hội họa Trung Quốc về sau. Thời kỳ Lưỡng Hán và Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã
hội từ chỗ ổn định thống nhất nhanh chóng biến thành chia rẽ loạn lạc. Văn hóa bên
ngoài Trung Quốc được đưa vào vùng đất này, xảy ra quá trình cọ xát và dung hợp,
khiến lúc ấy hội họa có nguồn gốc tôn giáo chiếm vị trí chủ lưu. Các tranh vẽ miêu tả
quê hương, các nhân vật lịch sử, lấy đề tài tác phẩm văn học cũng chiếm một tỉ lệ nhất
định. Tranh sơn thủy, tranh hoa điểu cũng bắt đầu xuất hiện ở thời kỳ này.
Thời kỳ Tùy – Đường, kinh tế, văn hóa xã hội hết sức thịnh vượng, hội họa cũng
theo đó mà có được cục diện phồn vinh về mọi mặt. Tranh sơn thủy, tranh hoa điểu
cũng phát triển hoàn thiện, các tranh về chủ đề tôn giáo đã đạt đến tột đỉnh, tranh vẽ
nhân vật phần lớn là mô tả cuộc sống của giới quý tộc, còn xuất hiện những khuôn mẫu
tạo hình nhân vật đặc thù của thời đại ấy. Đời sau các tranh vẽ văn nhân xuất hiện và
phát triển, có phương pháp biểu hiện và ý tưởng sáng tác vô cùng phong phú.
II. Đặc điểm của hội họa Trung Quốc cổ trung đại
Hội họa Trung Hoa cổ trung đại là một trong những nghệ thuật truyền thống lâu
đời nhất trên thế giới. Hội họa thời kỳ cổ trung đại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hội họa Trung Quốc cổ trung đại bắt nguồn từ nghệ thuật thư pháp.
Trong hệ thống giáo dục Lục Nghệ của Nho giáo, các nho sĩ cũng thường phải giỏi về
thư pháp. Do đó văn nhân hoạ đã phản ánh kỹ pháp của thư pháp. Người thưởng ngoạn
sành điệu có thể nhận ra kỹ pháp của thư gia trong cách vận bút của hoạ gia.
Thứ hai, hội họa Trung Quốc cổ trung đại lấy bút viết làm bút vẽ. Bút làm bằng
lông các thú như dê, thỏ, chồn, sói và ngậm được nhiều mực. Các họa gia sử dụng
những kỹ thuật dùng bút tương tự như nghệ thuật viết chữ và vẽ bằng bút lông được

nhúng vào mực.
Thứ ba, hội họa Trung Quốc cổ trung đại thường sử dụng mực đen vẽ trên lụa
trắng hoặc giấy trắng. Mực đen làm bằng bồ hóng và keo, đã được sử dụng trong hội
họa từ hơn 2.000 năm trước. Đó là một khối mực rắn được mài vào đĩa mài mực bằng
đá cùng với nước sạch; độ đậm nhạt của mực có thể khác nhau tùy thuộc vào lượng
nước được sử dụng. Mực đậm màu thấm sâu và bóng khi được vẽ trên giấy hoặc lụa.
Mực nhạt màu lên màu nhẹ và mờ. Từ đời Tống trở về trước, tranh Trung Quốc chủ yếu
dùng lụa. Từ đời Tống về sau, do kỹ thuật làm giấy tinh xảo hơn, bắt đầu xuất hiện giấy


Tuyên (xuyến chỉ) – đây là loại giấy vẽ cực mỏng. Nhưng dù lụa hay giấy, cả hai đều là
chất liệu lý tưởng vì hút mực dễ dàng. Loại tranh được vẽ trên giấy hoặc lụa có gắn trục
ở hai đầu, có thể treo và cuốn gọi là Tranh cuốn trục.
Thứ tư, hội họa Trung Quốc cổ trung đại gắn liền với thi ca. Trong quá trình phát
triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có
tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ cũng có tác dụng biểu hiện như thơ
ca. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu và khuyết điểm khác nhau, thơ mạnh về
biểu hiện thế giới nội tâm, hoạ mạnh về tính hình ảnh. Người Trung Quốc đã biết kết
hợp giữa thơ và hoạ, sáng tạo ra loại thơ đề tranh (đề hoạ thi) để tăng cường ưu điểm và
hạn chế những khuyết điểm của hai loại hình nghệ thuật này.
III. Thành tựu của hội họa Trung Quốc cổ trung đại
Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000-6000 năm với các loại hình: bạch họa, bản
họa, bích họa. Thời kỳ cổ trung đại hội họa Trung Quốc đã rất đa dạng về thể loại, bao
gồm nhiều dòng tranh với các thể loại khác nhau. Xét theo chất liệu tạo nên bức tranh
thì có hai loại chính:
Thứ nhất, tranh thủy mặc (hay thủy mạc), các chủ đề chính trong tranh thường là
cây cối, hoa, phong cảnh, chim thú, người… và thường kèm theo thơ chữ Hán. Đề tài
xoay quanh nhân vật cung đình đặc biệt là đi sâu vào thể loại tranh sơn thủy, hoa điểu.
Các họa gia vẽ tranh thủy mặc nổi tiếng: Vương Duy, Tô Đông Pha, Tề Bạch Thạch,…
Tranh hoa điểu rất phong phú và đa dạng. Bốn đề tài lớn trong dòng tranh này

gồm hoa – điểu – ngư – trùng. Nội dung của thể loại này là chim chóc, hoa cỏ hay các
loài vật.
Hoa hủy: là nói chung về các loài hoa cỏ, cây cối làm nội dung chính trong bức
tranh. Các văn nhân Trung Quốc thường gán cho từng loại hoa một đức tính, một ý
nghĩa tượng trưng văn học nào đó, và các họa sĩ đã tiếp thu toàn bộ những quan niệm
này. Chẳng hạn, Chu Đôn Di đời Tống từng nói: Cúc là kẻ ẩn dật, mẫu đơn là kẻ phú
quý và sen là bậc quân tử vậy. Cổ nhân gọi tùng, trúc, mai là ba người bạn mùa lạnh
(tuế hàn tam hữu). Tính chịu lạnh của tùng, trúc, mai tượng trưng cho đứa tính nhẫn nại
của người quân tử, tự cường mãi không thôi, luôn trau dồi tài đức trước ngược cảnh
cuộc đời. Hay mai, lan, cúc, trúc được xem là biểu tượng của bậc quân tử, nên cũng
được gọi là “tứ quân tử”. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều
diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tháo tiết. Cúc
trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên.


Không chỉ hoa, mà quả cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Chẳng hạn đào tượng
trưng cho sự trường thọ. Quả lựu tượng trưng cho sự đông con cái. Quả phật thủ tượng
trưng cho phúc, quả quít tượng trưng cho sự tốt lành.
Trùng ngư: Các loài ong, bướm, cá tôm ... gọi chung là Trùng Ngư cũng là những
nguồn cảm hứng để các họa gia sáng tác. Con bướm điệp tượng trưng cho sự trùng
điệp. Con mèo tượng trưng sống lâu, con cá chép tượng trưng thi đỗ…
Điểu thú: Tranh vẽ các loài Gia cầm, Gia súc và các Động vật hoang. Như Con
công tượng trưng cho sự bình an thịnh vượng. Ngựa cũng là chủ đề quen thuộc, dân
gian cho rằng ngựa có đức tính trinh tiết, ý thức rõ quen hệ truyền chủng, không vi
phạm cái luân lý loài người gọi là loạn luân. Ngựa còn có đứa tính trung thành một đức
tính mà Nho gia rất coi trọng trong các mối quan hệ xã hội. Ngựa thời kỳ này có giá trị
rất cao, trong chiến tranh cổ đại ngựa giữ vai trò rất quan rộng có thể gọi là nền tảng
của sức mạnh quân sự. Nó là biểu tượng của sự nhanh chóng và thành đạt. Ví dụ:
Tranh mã đáo thành công. Thời xưa khi xuất binh phải phất cờ hiệu, cờ mất rồi thì phải
chiến thắng, tướng soái khi lấy đầu tướng giặc, chiến mã quay về tất báo tin thành công.

Linh vật: Tứ linh gồm Rồng là biểu tượng của Vương Quyền; Kỳ lân tượng trưng
cho nhân ái và thái bình; Con rùa tượng trưng cho sự trường thọ; chim loan và chim
phượng tượng trưng duyên nợ vợ chồng.
Ngoài ra, thời kỳ này các họa gia đã kết hợp nhiều thứ khác nhau cùng ngụ ý
tổng hợp: hoa kết hợp với điểu, thảo trùng, các, đá và các khí vật khác làm tăng thi ý
cho tranh, thường đó là lời chúc nguyện cát tường. Mẫu đơn phối hợp với cá lội là biểu
tượng lời chúc nguyện tốt đẹp đầu năm. Mẫu đơn kết hợp khổng tướng là tranh chúc
mừng khai trương cửa tiệm, Hoa xuân điểm thêm vài cánh bướm tạo sinh động cho
tranh. Bướm ngụ ý là trùng điệp, tranh mẫu đơn điểm thêm cánh bướm ngụ ý phú quý
trùng điệp….
Tranh sơn thủy hay tranh phong cảnh là những bức tranh vẽ lên cảnh quan sông,
núi khi thì hùng vĩ, khi thì tĩnh lặng. Tranh sơn thuỷ có hai loại: thuỷ mặc sơn thuỷ và
thanh lục sơn thuỷ. Sự vật trong tranh sơn thuỷ không được diễn tả theo xa gần. Họ
dùng thiên nhiên làm tỷ lệ (Ví dụ: người nhỏ hơn nhà, nhà nhỏ hơn núi…) và sử dụng
viễn cận theo lối điểm nhìn di động. Thường được gọi là viễn cận phi điểu hay tẩu mã.
Nhiều bút pháp vẽ tranh sơn thuỷ cùng với nhiều phái hoạ ra đời như “Ngô phái”, “Hải
phái”,…
Thứ hai: Bích Họa. Bích họa là nghệ thuật vẽ tranh trên tường, trên vách, xuất
hiện từ rất sớm trong đời sống thời thượng cổ của người Trung Quốc. Thể loại tranh
này có thể chia làm ba nhóm lớn:


Mộ thất bích hoạ: nhiều bức bích họa có trên các lăng tẳm, ngôi mộ cổ từ thời
đại Tần - Hán. Nội dung bức tranh thường thể hiện các hình ảnh về tâm linh hoặc về
các sự kiện, nhân vật….
Đôn Hoàng bích họa: Ở hang Mạc Cao Đôn Hoàng có chiều dài toàn bộ khoảng
1600m, trong đó có hơn 50.000 bản văn thư. Đặc biệt có bích hoạ của 10 triều đại Tiền
Tần, Bắc Nguỵ, Bắc Chu, Tuỳ, Đường, Ngũ Đại, Tống, Liêu, Tây Hạ, Nguyên chiếm
45.000m2. Bích hoạ Đôn hoàng chủ yếu có nội dung phật giáo, có một phần ảnh hưởng
của bích hoạ ấn Độ. Phong cách rất phong phú, nội dung đa dạng về lịch sử, phong tục,

tình cảm, thần thoại….
Vĩnh lạc cung bích hoạ: chuyên vẽ về cảnh hưng thịnh của Đạo giáo thần tiên.
Cung điện Vĩnh lạc có 873m2 bích hoạ,phong cách kỹ xảo tinh tế, kế thừa và phát triển
tranh nhân vật đời Tống, Đường.
IV. Ảnh hưởng của hội họa Trung Quốc cổ trung đại đến hội họa Việt Nam
Nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á, trong
đó có Việt Nam. Việt Nam đã học hỏi và tiếp thu nghệ thuật hội họa cổ Trung Quốc để
phát triển thành dòng tranh Đông Hồ, Hàng Trống.
Tranh Đông Hồ ra đời khoảng thế kỷ 17 tại làng Đông Hồ, tỉnh Bắc Ninh. Tranh
Đông Hồ bị ảnh hưởng bởi những dòng tranh Trung Hoa trên những chủ đề quen thuộc
mang tính khát khao sự no đủ, giàu có. Tuy nhiên qua những đường nét có tính ước lệ
cao cũng như ý hướng muốn vượt thoát khỏi tầm ảnh hưởng của nước láng giềng được
thấy rất rõ trên cách xử dụng màu sắc và bố cục chặt chẽ, tranh Đông Hồ đã vượt qua
lằn ranh thủ công mỹ nghệ để tiến gần hơn với nghệ thuật dân gian.
Tranh Hàng Trống ra đời khoảng thế kỷ 16, chịu ảnh hưởng đậm nét của các
luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo. Dòng tranh Tết của Hàng Trống chịu sự ảnh hưởng
của dòng tranh Niên họa, Chúc phúc du nhập từ Trung Quốc. Chính từ ảnh hưởng này,
đã lan tỏa tiếp đến làng Đông Hồ khiến cho rất nhiều tác phẩm có mặt trong dòng tranh
thị thành lại cũng có mặt trong dòng tranh thôn dã, tạo ra các giá trị riêng biệt.
Sau khi vẽ nét xong, một số bộ tranh khổ to và dài, các nghệ nhân bồi thêm phần
bo, trên dưới lồng suốt trục để tiện. Lối thức này cũng là kiểu chơi tranh ảnh hưởng từ
Trung Quốc. Các tranh trục cuốn này dường như ăn nhập với không gian sập gụ tủ chè
trên những vách nhà cao rộng chốn thị thành.
C. KẾT LUẬN
Nhìn lại toàn bộ quá trình lịch sử của nền văn minh Trung Quốc cổ trung đại và
những thành tựu hội họa đã đạt được ta thấy hội họa Trung Quốc Hội họa Trung Hoa cổ
trung đại là một trong những nghệ thuật truyền thống lâu đời nhất trên thế giới. Bắt đầu
xuất hiện với những tác phẩm nghệ thuật dùng để làm đẹp và trang trí, kỹ thuật hội hoạ



của Trung Quốc đã phát triển thành một loại hình nghệ thuật cổ điển, điển hình cho trí
tuệ và văn hoá truyền thống của quốc gia này, đồng thời đó cũng là sự khích lệ, cổ vũ
cho nền hội họa của các quốc gia khác trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy sự ảnh
hưởng của hội họa Trung Quốc cổ đến nước ta không nhiều nhưng phần nào đó góp
phần vào việc hoàn thiện cho các dòng tranh dân gian Việt Nam.


MỤC LỤC
A. MỞ BÀI..................................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG................................................................................................................1
I. Khái quát về nền văn minh và nguồn gốc của hội họa Trung Quốc cổ trung đại.........1
1. Vài nét về văn hóa, xã hội, lịch sử...........................................................................1
2. Nguồn gốc của hội họa Trung Quốc cổ trung đại.....................................................2
II. Đặc điểm của hội họa Trung Quốc cổ trung đại..........................................................2
III. Thành tựu của hội họa Trung Quốc cổ trung đại.......................................................3
IV. Ảnh hưởng của hội họa Trung Quốc cổ trung đại đến hội họa Việt Nam..................5
C. KẾT LUẬN................................................................................................................5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử văn minh thế giới, 2010 - Nhà xuất bản Giáo dục;
2. Lịch sử văn minh Trung Hoa, 2006 - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin;
3. Giáo trình Nghệ thuật học, Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh;
4. Tinh hoa, 2018, Tổng quan về nền hội họa truyền thống Trung Hoa;
5. Cổ Hán Văn, 2013, Hội họa;
6. DESIGNS.VN, 2018, Tổng quan về nền hội họa truyền thống Trung Hoa;
7. Nguyễn Công, 2018, Tranh thủy mặc Trung Quốc cổ – nghệ thuật độc đáo của người
Tàu.




×