Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm nghệ thuật và nghệ sĩ trong bộ phim Song Lang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.1 KB, 11 trang )

QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT VÀ NGHỆ
SĨ TRONG BỘ PHIM SONG LANG
(LEON LÊ)


1. Quan điểm nghệ thuật
1.1 Quan điểm về nghệ thuật sân khấu – điện ảnh
Sân khấu là một loại hình nghệ thuật tổng hợp với những cách thức thể hiện
riêng. Nếu như văn học dùng ngôn từ làm phương tiện để độc giả có thể hiểu và
cảm nhận, hội họa dùng màu sắc và đường nét là chất liệu tạo nên cảm hứng và ý
nghĩa thì với nghệ thuật sân khấu diễn xuất, hành động và diễn viên lại là cái cốt để
người nghệ sĩ thể hiện tư tưởng và truyền tải những thông điệp, những giá trị nghệ
thuật.
Điện ảnh được coi là loại hình “nghệ thuật thứ 7”, xuất hiện vào cuối thế kỷ
XIX. Điện ảnh cũng có diễn xuất, hành động, diễn viên nhưng nó khác với sân
khấu. Bởi không gian của điện ảnh nó đa dạng, linh hoạt, không bị hạn chế. Bên
cạnh đó, nghệ thuật quay phim, dựng phim rồi màu sắc, ánh sáng, kỹ thuật cũng
góp phần rất lớn trong việc thể hiện ý đồ của đạo diễn.
Trong bộ phim Song Lang, đạo diễn Leon Lê đã dùng những cách thức riêng
để thể hiện những quan điểm về hai loại hình nghệ thuật này.
Trước tiên là nghệ thuật sân khấu. Bộ phim đã cho người xem thấy một quan
điểm hết sức mới mẻ về sân khấu biểu diễn. Đó là: sân khấu của người nghệ sĩ đâu
chỉ là không gian rạp hát, mà bất cứ nơi đâu cũng có thể coi là sân khấu nếu ở đó
có diễn viễn, có âm nhạc và đặc biệt là có khán giả. Nó được thể hiện rõ nét qua
cảnh hai người hát trên đường phố khi Dũng và Linh Phụng cùng nhau đi ăn. Từng
câu hát của người “nghệ sĩ” đã chạm đến Linh Phụng và khiến anh cứ day dứt mãi.
Như vậy có thể thấy, bất cứ nơi đâu có sự biểu diễn, có sự cảm nhận của khán giả,
thì nơi đó chính là sân khấu của người nghệ sĩ. Ngoài ra, thông qua bộ phim ta
cũng thấy được rằng để thu hút được người xem thì nghệ thuật sân khấu (cụ thể là
nghệ thuât cải lương) cũng cần phải có sự chuyển hóa, đổi mới. Bà Chín khi thấy



đoàn tất bật chuẩn bị cho buổi biểu diễn đã hỏi rằng: “Sao không cho Mị Châu
mặc đồ Âu Lạc, hoa văn chim cò trống đồng cho nó giống Việt Nam?” Và câu trả
lời mà bà nhận được đó chính là: “Thời buổi này đồ hát phải băng qua băng lại
mới được nhiều tuồng chứ Chín. Nè nội dung cái tuồng này mới không nè…”.
Cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa hai người đã cho thấy một sự thách thức đối với cải
lương sao cho vừa phải giữ được những nét truyền thống lại vừa cần phải “cải
lương”, đổi mới sao cho phù hợp với thời đại và thị hiếu của người xem.
Còn về điện ảnh, thông qua bộ phim đạo diễn Leon Lê đã truyền tải thông
điệp về sự cách tân, đổi mới cả về nội dung lẫn kỹ thuật. Trước hết là về nội dung
của bộ phim. Song Lang xuất hiện với một đề tài rất mới, với những chất liệu của
nghệ thuật cải lương. Giống như cuộc sống luôn biến thiên, nghệ thuật cũng cần có
sự đổi mới để tạo ra những tác phẩm mới mẻ, độc đáo. Và người nghệ sĩ chính là
người thực hiện sứ mệnh sáng tạo ra cái mới để truyền tải tới mọi người. Tiếp theo
là về kỹ thuật. Một điểm đáng chú ý của Song Lang đó là việc sử dụng khung hình
3:2. Đó là một sự cách tân mới mẻ, góp phần truyền đạt đi những thông điệp của
đạo diễn, đồng thời vì tỉ lệ khung hình thay đổi mà cảm giác các nhân vật dường
như được kéo lại gần nhau hơn.
Đồng thời qua bộ phim, ta cũng thấy được sự gắn kết giữa âm nhạc với nghệ
thuật sân khấu – điện ảnh là không thể tách rời. Âm nhạc khiến cho nghệ thuật sân
khâu, điện ảnh thêm sinh động hơn, rõ nét hơn. Từng lời hát của các bản cải lương
như Sương chiều, Lý bông dừa, Giang Tô điểu ngữ, Trường tương tư, Hoài tình…
vang lên rất nhiều lần qua những chiếc radio cũ, qua lời ca của những người nghệ
sĩ trên sân khấu. Những thanh âm ấy chính là chất xúc tác để các nhân vật trong
phim bộc lộ bản thân mình, đồng thời cũng giúp đẩy xảm xúc của khán giả lên cao.
1.2 Quan điểm nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống.


Điện ảnh nói riêng, và nghệ thuật nói chung, nếu không bám rễ vào cuộc đời,
thì nó sẽ là một thứ cây non mềm yếu, khó mà có thể vươn cao mạnh mẽ. Bởi vậy,

những mảng màu, chất liệu của cuộc sống luôn là mạch nguồn cảm hứng sáng tạo
của các tâm hồn nghệ sĩ. Với bộ phim Song Lang cũng vậy.
Bộ phim là câu chuyện đời của một gã giang hồ đòi nợ thuê và một kép hát
cải lương. Dũng “thiên lôi” vốn sinh ra trong một gia đình có truyền thống cải
lương, nhưng sau những biến cố của gia đình, anh đã sa chân vào giang hồ, trở
thành một tên đòi nợ thuê mà ai ai cũng phải kiêng dè. Và như ở đầu phim, chính
bản thân anh đã nhận định, cuộc đời của mình như một bản cải lương không có
nhịp song lang. Tuy nhiên, trái ngược với vẻ bề ngoài hung dữ, máu lạnh là một
trái tim ấm áp, vẫn ngời sáng “phần người”. Điều ấy được thể hiện rất rõ qua
những phân cảnh đòi nợ, qua cách nói chuyện của Dũng với ông chủ Kim điện tử,
cách anh bỏ hạt ổi cho hai đứa con gái của gia đình con nợ, cách mà anh trả lại
chiếc đồng hồ và sợi dây chuyền thế chấp ở rạp hát, đặc biệt qua phân cảnh anh
khóc một mình trên sân thượng… Và cũng từ công việc của Dũng thiên lôi, bộ
phim đã lột tả một cách chân thực cái hiện thực nghèo khổ của đời sống lúc bấy
giờ. Biết bao mảnh đời cơ cực vì đói nghèo mà mượn nợ rồi bị siết nợ, rồi vì không
có tiền mà tự tử, đổ vỡ gia đình. Còn Linh Phụng, là một kép chính của rạp hát
Thiên Lý. Từ nhỏ câu đã yêu thích cải lương. Tuy nhiên nghiệt ngã thay, ngày mà
cậu được hát chính trên sân khấu cũng là ngày mà bố mẹ cậu qua đời vì tai nạn trên
đường đến xem con trai biểu diễn. Cái chết của bố mẹ đã trở thành một sự ám ảnh,
day dứt, và tự trách đối với Linh Phụng. Cũng bởi vậy mà trong những câu hát của
cậu dường như thiếu đi phần “hồn”. Và một cách tình cờ, định mệnh đã để hai con
người ấy đã gặp được nhau. Chính cuộc gặp gỡ ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
đời của mỗi người sau này. Như vậy có thể thấy, những góc khuất, câu chuyện, vấn
đề của cuộc sống là một trong những chất liệu để tạo nên bộ phim.


Không chỉ dừng lại ở đó, để thể hiện quan điểm nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc
sống, đạo diễn đã lựa chọn vở Mị Châu – Trọng Thủy để thể hiện song song với
câu chuyện của Linh Phụng và Dũng. Như chúng ta đã biết Mị Châu, vốn là con
gái của An Dương Vương, vì tình yêu với Trọng Thủy mà vô tình mang tội với đất

nước rồi cô nhận về một cái chết đau đớn từ chính người cha của mình. Một cách
tình cờ, nó có những nét tương đồng với Dũng. Lựa chọn quay lưng lại với quá
khứ, “phản bội” những gì đã gắn bó với mình trước đây, để được sống đúng với
bản chất của mình (nó giống như cách Mị Châu đã “phản bội” lại đất nước, “phản
bội” lại vua cha để lựa chọn tình yêu) đã khiến cho Dũng nhận lại một kết cục đau
lòng. Trước cửa rạp hát, anh đã bị đâm dưới tay của một con nợ - kẻ phải chịu nỗi
đau mất đi vợ con mà người gián tiếp gây nên nỗi đau đó chính là Dũng. Khi Dũng
ngã xuống cũng là lúc hai nhịp song lang vang lên. Hai nhịp song lang ấy là sự báo
hiệu cho sự kết thúc của vở cải lương, đồng thời cũng là báo hiệu cho sự kết thúc
của một đời người. Và dường như rạp hát với cái tên Thiên Lý cũng hàm chứa
những ẩn ý. “Thiên lý” nghĩa là nghìn dặm, nó ám chỉ khoảng cách dài và cách trở.
Cũng giống như khoảng cách của Dũng với sân khấu nơi Linh Phụng biểu diễn, tuy
chỉ cách vài bước chân nhưng lại như nghìn dặm xa xôi. Đồng thời, “thiên lý” cũng
có nghĩa là lẽ trời, lẽ mà con người phải tuân theo. Cũng từ đó chúng ta chiêm
nghiệm được rằng đã gieo nhân thì ắt sẽ gặt quả. Mỗi người rồi cũng sẻ phải gánh
chịu những ân oán, vay trả do chính mình gây ra vì những điều nghịch thiên. Tới
đây, ta nhận thấy dường như sân khấu (nghệ thuật) và cuộc đời con người đã hòa
quyện làm một.
Ngoài ra, đạo diễn còn cài cắm nhiều chi tiết khác trong bộ phim để thể hiện
quan điểm nghệ thuật này. Điển hình đó là những câu từ, lời ca trong mỗi bài cải
lương. Ví như trong bài Trường tương tư: “Ngày cuối thu âm u cơn gió bấc/ Nhận
được tin người mà tấc dạ tái tê/ Nghĩa trăm năm tôi luôn son sắt một lời thề/ Sao


nỡ để tôi phải ê chề trong ngao ngán”; “Chờ đợi buổi tương quan nối lại đá vàng
hàn gắn tơ loan/ Ngỡ đâu ai đã quay bước phũ phàng/ Để bẽ bàng cung bậc dở
dang”. Lời bài hát là tiếng lòng của cha Dũng dành cho người vợ đã rời bỏ mình
và con trai. Đó là nỗi nhớ, nỗi đau, và cả sự trách móc, ai oán. Nói cách khác chính
những trải nghiệm cuộc sống đã trờ thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác nên bài
Trường tương tư. Hay những câu hát của hai người hát trên đường: “Nghiệp cầm

ca, và đời nghệ sĩ kiếp tài hoa/Mãi dấn thân trên bước phong trần/ Vất vả muôn
phần, lê chân đó đây nhiều nơi/ Hồn vương, trong tiếng hát nhạc du dương...”
Từng câu từng chữ cất lên như đang nói về chính cuộc đời đa đoan, cực khổ của
họ. Và cũng chính những khó khăn ấy, đã khiến cho lời ca của họ càng ám ảnh và
day dứt hơn, giống như Dũng nói: “Nhiều khi không tật nguyền, không nghèo khổ
người ta lại không thể ca hay như vậy”.
Như vậy, có thể thấy nghệ thuật luôn hiển hiện trong cuộc sống và đi vào
phim để đến với lòng người một cách rất tự nhiên. Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống
khi được đưa vào nghệ thuật, nó không phải là cuộc sống hoàn toàn giống như thật
mà nó được phản ánh qua lăng kính, qua cảm quan của người nghệ sĩ.
1.3 Nghệ thuật tựa như một con đường để người nghệ sĩ truyền tải những giá trị
văn hóa.
Với những hình ảnh sống động, phim ảnh là một cách để quảng bá, giới thiệu
các nét đẹp, các giá trị của một đất nước, một dân tộc. Đến với Song Lang, ta cũng
nhận thấy rõ điều ấy.
Trước hết là về bối cảnh. Bộ phim đã tái hiện lại chân thực thành phố Sài Gòn
thập niên 80. Trong phim, Linh Phụng có một câu nói rằng: “Người ta có thể vượt
thời gian qua 3 cách: con người, đồ vật và nơi chốn”. Và quả thật với Song Lang,
người xem như được du hành vượt thời gian thông qua từng con người, từng đồ vật


và từng không gian trong bộ phim. Đó là không gian của những khu tập thể cũ kĩ
với chằng chịt dây điện, rạp hát cải lương với những tấm áp phích vẽ bằng tay, …
hay những đồ vật đượm màu xưa cũ như những chiếc radio, casste, quyển sách đến
chiếc xe máy đời cũ. Đồng thời, bộ phim cũng phản ánh cả những nét đặc trưng
của Sài Gòn thời ấy thông qua hình ảnh những chiếc loa phường, những trò chơi
như ném lon, chơi xèng, và đặc biệt là Contra cho đến cả những nhãn hiệu nổi
tiếng lúc bấy giờ như Bát Đạt, Sinco hay đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người
dân như Phật giáo, Thiên chúa giáo…Từng thước phim hiện lên như đưa người
xem ngược trở về quá khứ, hoài niệm về một miền xưa xũ. Từ đó, giúp người xem

hiểu biết nhiều hơn về một thời kì đã qua của đất nước, những nét đặc trưng mà
bây giờ hiếm thấy được.
Và một điều đặc biệt nữa của bộ phim, đó chính là việc khai thác và thể hiện
sân khấu cải lương. Đạo diễn Leon Lê đã chia sẻ thông qua bối cảnh và câu chuyện
của các nhân vật trong phim, anh muốn dành lời tri ân tới nghệ thuật cải lương và
quả thật Song Lang đã làm được điều ấy. Bộ phim đã thành công truyền tải đến
người xem giá trị của một nét văn hóa ở Việt Nam.
Từ những bộ trang phục, đạo cụ cho đến sân khấu biểu diễn hay lời nhắc
trước khi bắt đầu đều hiện lên một cách chân thật trong bộ phim. Rồi quá trình của
một buổi biểu diễn cũng được thực hiện tuần tự như một vở diễn ngoài đời thực.
Trước khi lên sân khấu, mỗi người nghệ sĩ thường sẽ thắp nén nhang trước bàn thở
tổ nghiệp. Và nét đặc trưng đó cũng được tái hiện rõ nét trong phân cảnh trước khi
Linh Phụng diễn vở Mỵ Châu – Trọng Thủy. Rồi từng âm thanh phía sau sân khấu
như tiếng trò chuyện, vui đùa, tiếng cổ vũ, động viên hay lời khen đều được thể
hiện một cách rất tự nhiên, giản dị và sống động. Bộ phim cũng có sự góp mặt
tham gia của rất nhiều nghệ sĩ cải lương như NSƯT Hữu Quốc, Kim Phương,


Minh Phượng, Tú Quyên…Cũng bởi vậy mà cái hồn của cải lương lại càng được
truyền đi mạnh mẽ.
Với Song Lang, người xem như được đắm mình vào từng lời ca, được khơi
nguồn hiểu biết về đặc trưng của một nét văn hóa dân tộc. Cũng từ đó, nó truyền đi
tình yêu, sự tự hào về những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời,
nó cũng là một con đường để quảng bá văn hóa, hình ảnh của Việt Nam đến với thế
giới. Như vậy, bằng ngôn ngữ, cách thức của riêng mình, điện ảnh nói riêng và
nghệ thuật nói chung đã, đang và sẽ là cầu nối để kết nối, lan tỏa những giá trị văn
hóa theo nhiều cách.
1.4 Nghệ thuật là sợi dây kết nối con người với con người.
Nghệ thuật luôn mang trên mình một sứ mệnh cao cả đó là kết nối con người
với con người. Quan điểm này cũng đã được thể hiện rất rõ trong Song Lang.

Trong Song Lang, nghệ thuật chính là một sợi dây để kết nối hai con người xa
lạ, tưởng chừng như hai đường thẳng song song là Dũng và Linh Phụng. Một gã
giang hồ thứ thiệt và một kép hát gắn kết với nhau chính bởi cải lương. Nghệ thuật
đã tạo ra sự đồng điệu giữa hai tâm hồn cô độc, tưởng chừng như trái ngược nhưng
thực chất lại sự bổ sung cho nhau. Sự xuất hiện của Linh Phụng, đã đánh thức tâm
hồn Dũng, đánh thức niềm đam mê với cải lương sâu bên trong Dũng, để rồi một
lần nữa anh lại cầm lên cây đàn, du dương theo lời ca và gõ xuống những nhịp
song lang. Tiếng đàn của một người đam mê cải lương, vì những biến cố trong quá
khứ mà bị chôn giấu đi, khi nó lại được cất nên một lần nữa, thực sự khiến cho
người ta rung động. Và với Linh Phung, cũng chính sự gặp gỡ, quen biết Dũng là
một chất xúc tác giúp cho những câu hát của anh trở nên có hồn hơn. Khi Dũng bị
đâm, dường như sự kết nối giữa hai người đã khiến Linh Phụng cảm nhận được
một điều gì đó. Bởi vậy, trong từng câu hát của anh vẹn đầy cảm xúc.


Không chỉ là sự kết nối giữa các nhân vật trong bộ phim, mà nghệ thuật còn là
sự kết nối đạo diễn, những người làm phim với khán giả. Thật sự bộ phim đã chạm
đến trái tim của khán giả, nó đã truyền đi thông điệp của người làm phim đến với
người xem để rồi những tâm hồn đồng điệu cùng nhau qua những giá trị của nghệ
thuật.
2. Quan niệm về nghệ sĩ
2.1 Nghệ sĩ phải biết tạo ra cái mới

2.2 Nghệ sĩ phải biết cảm nhận và thả hồn vào nghệ thuật
Qua bộ phim ta thấy được rằng Linh Phụng là một người có kỹ thuật hát điêu
luyện, nhưng lại thiếu đi phần “hồn”. Những câu hát của anh thiếu đi sự cảm nhận
từ trái tim, thiếu đi những cảm xúc chân thật. Bởi vậy mà khi cất lên trên sân khấu,
nó khó có thể chạm tới trái tim của những người xem. Và chỉ sau khi gặp Dũng,
phần hồn ấy dường như mới được đánh thức. Từng câu hát ở đoạn cuối phim đều
đong đầy cảm xúc. Đó không chỉ là tiếng lòng của Trọng Thủy đối với Mị Châu,

mà dường như còn là câu hát xuất phát từ trái tim của một chàng trai khi cảm nhận
được một điều gì đó xảy đến với người tri kỉ của mình. Và khi người nghệ sĩ đã thả
hồn mình vào nghệ thuật, nó khiến người xem thật sự cảm động và thăng hoa về
mặt cảm xúc. Qủa thật không ngoa khi nói rằng chỉ có những điều xuất phát từ trái
tim mới thật sự chạm đến trái tim con người. Từ đó, đạo diễn đã truyền tải quan
điểm về người nghệ sĩ. Đó là phải biết cảm nhận và thả hồn vào trong nghệ thuật.
Như vậy nghệ thuật mới thật sự có giá trị và sức trường tồn bền lâu.
2.2 Quan điểm về thái độ của người nghệ sĩ với loại hình nghệ thuật mà mình
theo đuổi


Trước hết, nó được thể hiện qua thái độ của những người nghệ sĩ đối với cải
lương. Đằng sau ánh hào quang nơi sân khấu, là những nỗi lo của cơm áo gạo tiền,
của mưu sinh, toan tính. Thế nhưng những người nghệ sĩ vẫn hết lòng mình với cải
lương. Dù cuộc sống có bao nhiêu khó khăn, thì khi được đứng trên sân khấu, được
biểu diễn thì họ vẫn hết mình với nghề, hết mình truyền tải đi những giá trị văn
hóa. Điều ấy được thể hiện qua vai bà bầu Bích Liên của đoàn cải lương. Dù thiếu
nợ nhưng vẫn đầu tư tiền của vào trong những vở tuồng, những bản cải lương vì
niềm đam mê với nghệ thuật. Hay như ba của Dũng cũng là một nghệ sĩ luôn hết
mình với nghệ thuật mà ông yêu thích. Cuộc sống khốn khó khiến vợ chồng ông
tranh cãi nhưng mặc những lời nói của vợ, ông quyết tâm không bỏ nghiệp hát, dù
cho có phải hát chui, hát lán ông cũng chịu được miễn là không phải bỏ nghề. Và
khi đã mang trong mình trọng trách của một người nghệ sĩ, khi đã bước chân lên
sân khấu, thì họ cũng phải có trách nhiệm với nó. Khi tấm màn nhung trên sân
khấu chưa được hạ xuống thì người nghệ sĩ chưa thể nào rời khỏi. Điều ấy có thể
thấy khá rõ qua nhân vật Linh Phụng. Khi đứng trên sân khấu, sợi dây vô hình gắn
kết giữa hai người đã khiến Linh Phụng có linh cảm một điều gì đó không tốt đang
xảy ra với Dũng nhưng anh vẫn phải hết mình hóa thân vào nhân vật trên sân khấu.
Đó cũng chính là một sự tôn trọng của người nghệ sĩ đối với nghệ thuật.
Bên cạnh đó, quan điểm còn được thể hiện qua thái độ của đạo diễn đối với

cải lương và đối với điện ảnh. Đạo diễn Leon Lê cho biết anh có một niềm đam mê
rất lớn với cải lương, nó chính là nguồn cảm hứng để anh sáng tạo nên bộ phim
này. Với thái độ yêu mến và tôn trọng loại hình nghệ thuật truyền thống của dân
tộc, Leon Lê đã tái hiện lại chân thực những nét đặc trưng của cải lương. Từ trang
phục, đạo cụ đến đồ dùng hóa trang như kim sa, phụng, mão…đều được anh kiểm
duyệt khắt khe, nghiêm túc sao cho đúng và phù hợp nhất. Cũng chính bởi vậy mà
nghệ thuật cải lương thông qua bộ phim được truyền đi rất gần gũi và giản dị. Và


cũng bởi sự yêu nghề, tận tâm với đối với loại hình nghệ thuật mà mình theo đuổi,
Leon Lê đã rất chỉn chu trong việc tạo nên bộ phim Song Lang, từ những chi tiết
nhỏ nhất cho đến bối cảnh, màu sắc, ánh sáng đến cách quay phim, dựng phim đều
được anh nỗ lực, trau chuốt kĩ lưỡng.



×