ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
-------- --------
ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN CỬ NHÂN TÀI NĂNG
NĂM HỌC 2014-2015
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT CỦA THƠ NỮ
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Chủ nhiệm đề tài
: Lê Thị Ngọc An
MSSV
: 1156010003
Hệ CNTN khóa
: 2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS Võ Văn Nhơn
TP. Hồ Chí Minh, năm 2015
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc của đề tài
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Bối cảnh chung của thơ Việt Nam sau năm 1986
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau năm 1986
1.1.2. Thơ Việt Nam sau năm 1986 – cái nhìn khái quát
1.2. Những xu hướng cách tân
1.2.1. Xu hướng trở về cái tôi cá nhân
1.2.2. Xu hướng đi sâu vào nội tâm con người với những cái tôi bản ngã
1.2.3. Xu hướng từ Hiện đại đến Hậu hiện đại
1.3. Thơ nữ Việt Nam đương đại – khái quát về tác giả và tác phẩm
1.3.1. Những thay đổi về quan niệm thế giới và con người trong thơ nữ Việt Nam
đương đại
1.3.2. Một số gương mặt thơ nữ Việt Nam đương đại tiêu biểu
1.3.2.1. Các nhà thơ nữ đương đại trong nước
1.3.2.2. Các nhà thơ nữ hải ngoại
Chương 2: Những cách tân của thơ nữ Việt Nam đương đại trên bình diện nội
dung trữ tình và phương thức trữ tình
2.1. Tình yêu và tình dục trong thơ nữ Việt Nam đương đại
2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ nữ Việt Nam đương đại – tiếng nói “nữ quyền”
2.3. Tinh thần Hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đương đại
2.4. Tư tưởng thẩm mỹ trong thơ nữ Việt Nam đương đại
Chương 3: Những cách tân của thơ nữ Việt Nam đương đại trên bình diện nghệ
thuật
3.1. Thể thơ
3.1.1. Thơ tự do
3.1.2. Thơ văn xuôi
3.1.3. Thơ Tân Hình thức
3.2. Ngôn ngữ thơ
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng
3.2.3. Ngôn ngữ “thân thể”
3.3. Cấu trúc thơ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1986 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp chính trị của nước
ta, đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Trước bối cảnh lịch sử và văn hóa mới,
buộc đời sống văn học và nghệ thuật cũng thay đổi theo, từ cách nhìn nhận về xã hội
cho đến cách nhìn nhận về con người. Đời sống sau đổi mới có nhiều khác biệt so với
đời sống thời chiến và những tàn dư thời hậu chiến, điều này đã tạo ra một yêu cầu đối
với người nghệ sĩ phải thay đổi sao cho phù hợp với đời sống hiện tại cũng như khẳng
định chỗ đứng của mình trong hoàn cảnh lịch sử mới. Thơ ca Việt Nam thời chiến là
những tác phẩm với những giọng điệu sử thi và cảm hứng lãng mạn, ca ngợi đất nước
Việt Nam, ca ngợi con người Việt Nam anh hùng bước ra từ cuộc chiến. Nhưng sau
năm 1975, khi đất nước đã hòa bình, đời sống con người cá nhân được chú ý hơn với
những cái “tôi” nội tâm sâu sắc, nhưng nhang nhảng đâu đó cảm hứng sử thi vẫn tiếp
tục như một quán tính, tuy rằng đã có những chuyển biến mới. Chỉ sau năm 1986, cách
nhìn nhận về con người thay đổi mạnh mẽ, làm cho tư duy văn học cũng dần thay đổi,
hình thức nghệ thuật và phương thức thể hiện cũng đổi mới, nhưng tìm tòi mới mẻ và
táo bạo đã tạo nên hiệu ứng hai chiều từ phía độc giả dành cho các tác phẩm văn học
nói chung và thơ ca đương đại nói riêng.
Nhưng quan niệm mới về nghệ thuật đã làm cho các nhà thơ tự giác ý thức hơn
về nhiệm vụ của mình trên diễn đàn. Những khát vọng cách tân và đổi mới thơ ca
không ngừng của các nhà thơ trẻ sau năm 1986 đã làm cho diễn đàn thơ ca sôi nổi hơn
bao giờ hết. Những nỗ lực khám phá cũng như ý thức tự “cởi trói” trong thơ ca đương
đại vận động không ngừng tạo nên sự phong phú về hình thức thể loại cũng như
khuynh bướng nghệ thuật. Xã hội đổi mới, suy nghĩ con người cũng thay đổi, điều tạo
nên bản sắc cho văn học giai đoạn này chính là văn học nữ nổi trội hơn cả. Những suy
nghĩ táo bạo, những lối viết mới đã làm cho văn học nữ nói chung và thơ ca nữ nói
riêng dẫn chiếm lĩnh văn đàn và lấy lòng bạn đọc. Mở đầu cho việc cách tân nghệ
thuật trong thơ ca phải kể đến tập thơ Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi, sau
đó, Lý Phương Liên và Dư Thị Hoàn cũng đã cất tiếng nói cùng với sự thức tỉnh của Ý
Nhi đưa con người trở về đời sống cá nhân thường nhật. Rồi sau đó là thế hệ của Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Dạ Thảo Phương,
Bình Nguyên Trang, Đường Hải Yến, Trương Quế Chi, Phạm Vân Anh,… Họ đều là
những cây bút trẻ, trưởng thành trong thời kì đất nước đổi mới, mở của hội nhập với
thế giới nên việc tiếp thu những luồng văn hóa mới là điều không tránh khỏi. Cũng
chính vì vậy, thơ họ luôn mang những nét mới về tư tưởng và những cách tân nghệ
thuật tạo nên những bước đột phá mới trong thơ ca đương đại.
Thơ nữ trẻ với những tác phẩm nói về cái “tôi” bản lĩnh, táo bạo cùng với trào
lưu phê bình nữ quyền ngày càng mạnh mẽ thêm vào đó là sự ảnh hưởng bởi trào lưu
Tân hình thức và Hậu hiện đại đã tạo nên bước nhảy vọt về vị thế, tạo nên luồng gió
mới cho thơ ca Việt Nam. Đã có không ít các nhà phê bình viết bài về thơ nữ đương
đại nhưng dường như chê bai thì ít, khen về sự mới mẻ, sâu sắc thì nhiều, đó cũng
chính là một quá trình nỗ lực không ngừng để thay đổi và hoàn thiện ngòi bút của các
nhà thơ nữ trong đó có sự đóng góp của một số nhà thơ nữ Việt hải ngoại. Việc nghiên
cứu thơ của các nhà văn nữ hải ngoại nhằm cho thấy sự đa dạng và phong phú của thơ
ca đương đại, đồng thời cũng cho thấy được, con người Việt Nam, dù có bị ngăn cách
bởi không gian địa lý thì vẫn luôn nhớ về đất nước mẹ đẻ của mình.
Trong bài viết Thơ nữ đương đại khẳng định cái… tôi, Trần Hoàng Thiên Kim
nói rằng: “Họ khẳng định bản thể bằng cách đối thoại sòng phẳng với độc giả, với
bạn văn khác giới, nỗ lực để lớp đàn anh, đàn chị công nhận cái mới của mình, hòa
vào dòng chảy văn học đang ồ ạt những thử nghiệm, cách tân thơ. Họ luôn sẵn sàng
làm người thể nghiệm dẫn đầu trong những xu thế văn học mới và gai góc.”[III, 14]
Cũng chính vì điều này mà thơ nữ luôn phải gánh chịu những búa rìu dư luận gay gắt
hơn cả. Thơ là cảm xúc, cũng chính vì vậy, để viết ra một tác phẩm hoàn chỉnh, tác giả
như một người ghi lại nhật ký về cuộc hành trình đắm chìm trong mớ cảm xúc thăng
hoa của tâm hồn mình. Các nhà thơ nữ thường bộc lộ cái tôi bản thể mạnh mẽ, điều
này, hoàn toàn không phải là sự lật đổ những định kiến để vùng dậy, mà chỉ là sự xóa
nhòa ranh giới giữa nam quyền và nữ quyền, giúp lấy lại cân bằng vị trí của thơ nữ
trên thi đàn. Điều này hoàn toàn phù hợp trong hoàn cảnh lịch sử đương đại.
Trong Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại, Đoàn Ánh
Dương có nói rằng: “Gần 40 năm sau chiến tranh, gần 30 năm sau Đổi mới, văn học
nữ đã phát triển với những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua
diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. Trong dòng
chảy ấy, những sáng tác xuất phát từ ý hệ dân sự có được thành công hơn cả, bởi nó
dung hợp được cả nguồn cội văn hóa, ý chí xã hội và sức mạnh giới. Nhưng nó là một
ốc đảo, không trao truyền năng lượng cho giai đoạn kế tiếp, để chỉ trở thành một điểm
nhấn kỳ lạ, như chính sự phát triển kỳ lạ của văn học Việt Nam đương đại”[III, 2]. Vì
thơ nữ ở giai đoạn này không trao truyền năng lượng cho bất cứ giai đoạn nào tiếp
theo nên việc tìm hiểu về những đặc điểm cũng như sự đổi mới về nghệ thuật của nó
này đã được chú ý hơn cả. Có khá nhiều bài nghiên cứu về đề tài thơ nữ đương đại,
chúng tôi thực hiện đề tài “Những cách tân nghệ thuật của thơ nữ Việt Nam đương
đại” dựa trên sự tiếp thu cái hay, cái đúng của những nghiên cứu đi trước, đồng thời, sẽ
tìm tòi và phát hiện ra những mới mẻ để có thể hiểu được vì sao thơ nữ đương đại lại
có thể tạo nên đưuọc luồng sóng dư luận mạnh mẽ như vậy.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Nguyễn Thị Mai Anh, Thơ trẻ Việt Nam đương đại qua ba tác phẩm: Vi Thùy Linh,
Phan Huyền Thư và Ly Hoàng Ly, Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận Văn học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, năm 2010.
2. Khương Thị Thu Cúc (2005), Sự vận động thơ tự do từ phong trào Thơ mới đến
nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Lê Thị Hồng Hạnh (2004), Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ văn xuôi, Luận văn
Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
4. Nguyễn Thanh Huyền, Những biểu hiện của chủ nghĩa Hậu hiện đại trong thơ Việt
Nam đương đại, Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận Văn học, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, năm 2012.
5. Nguyễn Phong Nam (2008), Sự tương tác giữa các thể loại văn học và thể thơ văn
xuôi trong thơ mới 1932-1945, Báo cáo khoa học, trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học
Đà Nẵng.
6. Nguyễn Thị Phương Thuỳ (2008), Nghiên cứu sự tự do hoá ngôn ngữ thơ tiếng Việt
hiện đại thế kỉ XX (trên tư liệu các tập thơ của một số tác giả), Luận án Tiến sĩ Ngôn
ngữ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG) Hà Nội.
7. Phạm Nữ Nguyên Trà, Vần và Nhịp trong thơ Việt Nam đương đại, Khóa luận
CNTN khóa 2009 – 2013 khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, 2013.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu
Khái quát về thơ Việt Nam đương đại và những xu hướng cách tân.
Tìm hiểu về những cách tân trên bình diện nội dung và nghệ thuật của thơ nữ
Việt Nam đương đại.
3.2. Nhiệm vụ
Giới thiệu một số gương mặt thơ nữ Việt Nam đương đại tiêu biểu.
Làm rõ những cách tân trên bình diện cấu trúc thơ và ngôn ngữ thơ của thơ nữ
Việt Nam đương đại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Các nhà thơ nữ Việt Nam sống và làm việc ở Việt Nam sau năm 1986 đến nay
và một số nhà thơ nữ hải ngoại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích, đánh giá
Đọc tác phẩm thơ và phân tích, đồng thời tìm hiểu những nghiên cứu có liên
quan để đánh giá những thông tin thu thập được.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
So sánh, đối chiếu những tác giả thơ nữ đương đại cũng những tác phẩm để tìm
ra những đổi mới trong nghệ thuật thơ ca.
5.3. Phương pháp phân loại, tổng hợp.
Tìm những đặc điểm chung về nghệ thuật để phân loại và tổng hợp để hoàn
chỉnh nghiên cứu.
5.4. Phương pháp phê bình xã hội học
Nhìn dưới góc độ phê bình xã hội học để chỉ ra sự ảnh hưởng của thơ nữ đương
đại trên văn đàn Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung: ở chương này chúng tôi sẽ khái quát về Bối cảnh
chung của thơ Việt Nam từ năm 1986 đến nay, những xu hướng cách tân của thơ
đương đại và giới thiệu sơ lược về thơ nữ Việt Nam đương đại, những tác giả - tác
phẩm tiêu biểu nhằm làm cơ sở lý thuyết cho chương 2 và chương 3.
Chương 2: Những cách tân của thơ nữ Việt Nam đương đại trên bình diện nội
dung trữ tình và phương thức trữ tình: chương này là sự phân tích và tổng hợp về
đề tài thơ ca nữ Việt Nam đương đại cùng những tư tưởng thẩm mỹ để thấy rằng thơ
nữ đương đại đã có sự cách tân trên bình diện nội dung và phương thức trữ tình.
Chương 3: Những cách tân của thơ nữ Việt Nam đương đại trên bình diện nghệ
thuật: chương 3 là sự phân tích về sự cách tân nghệ thuật trên những bình diện: thể
thơ, ngôn ngữ thơ và cấu trúc thơ nữ Việt Nam đương đại.
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Bối cảnh chung của thơ Việt Nam sau năm 1986
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau năm 1986
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có những bước biến
chuyển tích cực. Toàn cầu hóa đã làm thay đổi mọi mặt đời sống chính trị - xã hội
cũng như văn hóa, nghệ thuật của các quốc gia tham gia. Việc hội nhập nền kinh tế
quốc tế kèm theo đó là sự tiếp thu nhiều luồng văn hóa trên thế giới là điều tất yếu.
Bên cạnh đó, việc phát triển những tiến bộ khoa học – kỹ thuật đã giúp cho đời sống
con người được nâng cao.
Ở Việt Nam vừa trải qua hai cuộc kháng chiến trường kì để bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc nhưng những hệ lụy của nó vẫn còn tồn
đọng kèm theo đó là hệ thống chính trị quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế Việt
Nam trì trệ. Cho đến năm 1986, Đại hội lần VI (12/1986) của Đảng đã chủ trương đổi
mới đất nước toàn diện. Nhập theo xu thế Toàn câu hóa, Việt nam cũng chịu ảnh
hưởng ít nhiều từ những luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó, văn học – nghệ thuật là
lĩnh vực chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất.
1.1.2. Thơ Việt Nam sau năm 1986
Sau năm 1986, Việt Nam bước vào thời kì đổi mới, mở của hội nhập với các
nước trên thế giới. Đời sống xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi của đời sống văn học.
Sự hội nhập và xu hướng hiện đại hóa đã tạo cơ hội cho nhiều nhà thơ Việt Nam tìm
tòi và tiếp thu những tinh hoa của thơ ca các nền văn học. Thơ ca Việt Nam sau đổi
mới là những xu hướng cách tân mạnh mẽ kèm theo đó là những tìm tòi, đổi mới, khắc
phục những lối mòn, những hạn chế về mặt ngôn ngữ. Con người cá nhân bùng phát
trong thơ ca như một quy luật tất yếu. Thơ ca trung đại là sản phẩm tinh thần của
những nhà Nho bất lực trước thời cuộc, trốn tránh thực tại, chối bỏ cuộc sống nhàm
chán chốn quan trường để về ở ẩn, hòa nhập với thiên nhiên. Thơ ca thời kì 1930 –
1945 là thơ trữ tình làng mạn với cái tôi cá nhân khép kín. Nhưng không được bao lâu
ngự trị trên thi đàn, thơ Mới đã đi vào bế tắc. Tiếp đến là thời kì 1945 – 1975, thơ ca
thời kì này là sản phẩm của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Thơ ca trữ tình cách
mạng thời kì này đề cao cái ta cộng đồng với những hình tượng anh hùng cao cả, đề
cao những chiến thắng lịch sử vang dội, những chiến công to lớn. Sau năm 1975, đề
tài chiến tranh vẫn được tiếp tục với cảm hứng sử thi bi tráng. Đặc biệt, sau năm 1986,
thơ ca chuyển hướng mạnh mẽ vào những chủ đề xã hội mang tính chất thế sự, đời tư.
Cuộc sống con người được chú trọng nhiều hơn với những nỗi buồn, sự cô đơn, lạc
lõng, những góc khuất của tâm hồn và nội tâm sâu sắc đã được các thi gia khai thác
đến tột cùng. Tư duy nghệ thuật thay đổi đa dạng làm cho thơ ca cũng mang tính chất
đa dạng cả về thể loại lẫn cái nhìn. Mỗi nhà thơ sống trong một thời đại cụ thể, họ hòa
nhập với thời đại của mình và sải những bước chân đi trong thời đại đó. Họ đổi mới và
cách tân sao cho thơ ca một mặt thể hiện được những cảm xúc của mình, vừa thể hiện
được hơi thở của thời đại mình đang sống, vừa thể hiện những cách tân và đổi mới.
Mỗi nhà thơ sẽ có một tiếng nói riêng, một phong cách riêng, và đặt dấu ấn lên tác
phẩm của mình theo một cách riêng, nhưng nếu cứ đi theo một lối mòn ngôn ngữ thì
xem như đã đưa đời thơ của mình vào ngõ cụt. Người nghệ sĩ khiến độc giả của mình
nhàm chám với những sáng tạo tinh thần của mình thì đó là một thất bại lớn. Vì vậy,
cách tân và đổi mới cũng là một áp lực đối với các nhà thơ Việt Nam đương đại. Họ
vừa phải tiếp thu cái hay của thơ ca thời đại trước, vừa phải tìm tòi, tiếp thu cái hay
của thơ ca thế giới, vừa phải sáng tạo sao cho đứa con tinh thần của mình không làm
độc giả nhàm chán.
Các nhà thơ sau năm 1986 chú ý nhiều hơn đến việc cách tân hình thức tổ chức
của ngôn ngữ trong thơ cũng như tính đa nghĩa, đa hình tượng của từ ngữ trong thơ.
Đưa những từ ngữ đời thường vào thơ ca và xây dựng chúng thành những ký hiệu đặc
biệt mang dấu ấn cá nhân không phải là điều dễ dàng. Thế nhưng, các nhà thơ Việt
Nam đương đại đã làm được điều đó. Những Tân hình thức, Hậu hiện đại bắt đầu nhập
cuộc, song hành với thơ ca truyền thống. Điều này đã gây không ít những cuộc tranh
cãi, một bên là phe bảo thủ với những tư duy nghệ thuật truyền thống, một bên là
những cách tân nghệ thuật theo công cuộc hội nhập của thơ ca thế giới, sự đổi mới,
cách tân hết sức táo bạo này đã phản lại tư duy truyền thống, làm cho một số thi sĩ
không thể chấp nhận được và đã lên tiếng phản đối. Điều này, đã tạo nên một cuộc
chiến trên thi đàn, kéo dài đến nay vẫn chưa dứt.
Thơ ca vốn là tiếng nói của đời sống nội tâm con người. Người nghệ sĩ hiểu rõ
vị trí của mình và chịu trách nhiệm trước những đứa con tinh thần của mình. Chất liệu
của thi ca là ngôn từ và lớp ngôn từ đó được sinh ra từ cảm xúc, thứ cảm xúc ấy bắt
nguồn từ suy nghĩ, từ trái tim con người, vì vậy, thơ ca luôn là tiếng nói nhạy cảm
nhất. Những nhà thơ đương đại đã bắt kịp với thời cuộc, họ thản nhiên nhập vào cuộc
chơi và cho ra những tác phẩm nói được những tiếng nói của thời đại. Thơ ca Việt
Nam chuyển động không ngừng theo dòng chảy của thời cuộc. Tập thơ Người đàn bà
ngồi đan của Ý Nhi mở đầu cho những cách tân, đổi mới của thi ca đương đại. Tiếp đó
là tập thơ Lá (1988) của Văn Cao đã tạo nên sự đã nghĩa cho ngôn ngữ thơ ca, ngắn
gọn mà đa nghĩa. Rồi đến Nguyễn Lương Ngọc với hai tập thơ Từ trước (1990) và
Ngày sinh lại (1991); Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa (1992); Đặng
Đình Hưng với Ô mai (1993); Hoàng Hưng với Người đi tìm mặt (1994); Lê Đạt với
Bóng chữ (1994), tất cả đã tạo nên một luồng sóng dâng trào cho xu hướng cách tân
ngôn ngữ thơ ca đương đại. Để rồi sau đó, một loạt các nhà thơ trẻ cũng với sự nhiệt
huyết và khát vọng đổi mới đã sáng tác những tác phẩm gây được tiếng vang lớn trên
thi đàn: Nguyễn Hữu Hồng Minh với Ghi chép rời, Sóc trăng, Lỗ thủng lịch sử, Giữa
chúng ta, Mẫu tự, Bãi cát; Nguyễn Vĩnh Tiến với Ông tôi, Ba hôm nữa, Héo mòn một
xâu, Phát điên, Quên bẩm sinh, Giữa mùa vang, Bàn tay múa, Những ý nghĩ trên đại
lộ tư duy; Văn Cầm Hải với Hoe chân lời, Vĩnh biệt Mặt trời, Sinh tồn, Tình yêu, Tình
yêu cuả Đất, Ngôi nhà xưa Khôn cũ, Người đi chăn sóng biển, Đời chị; Nguyễn Thúy
Hằng với Tôi – Vị thần ngủ quên, Gào thét nưã đi, Beckett’s, tôi và Khuyên; Trần Ngọc
Tuấn với Giác quan biển (1994), Giữa cỏ (1996), Chân chim hóa thạch, Gửi dòng
sông Đồng Nai (2004), Tập suối reo (2006); Vi Thùy Linh với Âu Cơ, Tình tự ca, Trên
ngực anh, Bản đồ tình yêu, Đường ong, Thiếu phụ và Con đường; Lê Vĩnh Tài với Bù
Lỗ, Nằm vạ, Những câu thơ như gió rã rời, hãy nhìn gần hơn nữa hời nhà thơ, Thế thì
chịu thua, Đố Vui, Những ngày Mưa Mưa mãi không thôi,…; Phan Huyền Thư với
Rỗng Ngực, Cáo phó, Tạ Ơn, Van Nài, Liều, Khắc Thạch, Độ lượng, Viết, Nghĩ Lại; Ly
Hoàng Ly với Phòng Trắng, Người đàn bà và căn nhà cổ, Thuật ướp xác, Perfomance
Ham bơ gơ, Hành xác và Thử nghiệm, Khúc đêm; Nguyễn Vĩnh Nguyên với Thất Bát
yêu, Phác thảo 3, Ảo, Xóa, Mặt xác,… Tất cả đều thuộc một thế hệ mới, thế hệ có
trình độ học vấn và họ sáng tạo dựa trên những gì tiếp thu trong quá trình tìm tòi, giao
lưu, học hỏi quốc tế. Họ khác với thế hệ cha anh đi trước ở chỗ họ lớn lên và sống
trong thời đất nước hòa bình và hội nhập, có điều kiện học hỏi và có thể sáng tạo nghệ
thuật theo cách của riêng họ mà không bị ràng buộc bởi bất kì truyền thống nào. Còn
thế hệ cha anh đi trước là những người sống và trưởng thành trong cuộc chiến tranh
của dân tộc, họ thảng hoặc chỉ là những người đầy tớ trung thành của thời đại, ghi
chép lại sự kiện lịch sử hoặc sáng tác những tác phẩm dựa trên cảm tính của riêng
mình.
Những tiềm năng về ngôn ngữ trong thi ca thời kì đổi mới được khai thác hết
sức tối đa, cái tôi cá nhân được bộc phát tự do. Sự khai thác ấy không phải là phát hiện
ra những từ ngữ mới mẻ, mà là sự kết hợp độc đáo giữa những từ ngữ đã cũ mèm với
nhau, đặt cạnh nhau để tạo nên những hiệu ứng mới, tạo nên lớp ngữ nghĩa mới.
Không phải những nhà thơ trẻ hôm nay làm mới ngôn ngữ mà họ dựa trên những chất
liệu đã có sẵn để sáng tạo, điều này, khiến cho người đọc cảm thấy mới mẻ, kích động
bởi những khoái cảm thẩm mỹ mới. Đối với thơ đương đại, không phân biệt thứ ngôn
từ hoa mĩ, hàn lâm hay thô tục, khẩu ngữ mà tất cả đều có chức năng như nhau, đưa
những ngôn từ hết sức bình thường vào thơ càng làm cho người đọc cảm thấy thích
thú. Lắp ghép những từ ngữ không liên quan lại với nhau một cách rời rạc để tạo thành
một hệ thống hết sức logic là một thành công rất lớn của các nhà thơ trẻ đương đại.
Nguyễn Huy Thiệp đã từng nhận xét thế này: “Nhìn vào danh sách hơn 1000
hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số chỉ là những người già
nua, không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh.
Trong số này có hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để
viết ra những lời lẽ du dương, phù phiếm, vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có
dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này chỉ đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi đươc dấu
ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi”[III, 29]. Lời nhận xét
trên chưa chính xác, thơ Việt đương đại Việt Nam vẫn đang trên con đường chuyển
động không ngừng, những nhà thơ trẻ vẫn đóng góp một phần không nhỏ vào việc đổi
mới diện mạo của thơ ca, điều này không ai có thể phủ nhận được.
Thơ ca đương đại hiện ra như một sự tra vấn không ngừng về cuộc sống. Tìm
tòi, thể nghiệm những hình thức mới, đi sâu vào khám phá cái tôi cá nhân ẩn giấu sau
những cái ta cộng đồng, núp mình đã lâu, cái tôi lần đầu hiện ra một cách lộ liễu như
thể trước kia tôi núp mình bao nhiêu thì giờ là cơ hội để tôi phô bày bấy nhiêu. Không
phải tất cả tư duy nghệ thuật của mọi người nghệ sĩ đều được xã hội công nhận nhưng
điều quan trọng nhất là người nghệ sĩ phải có quan niệm riêng của bản thân mình về
đời sống, dù nhìn nhận dưới bất kì góc nhìn nào, toàn diện hay phiến diện, thì chính
điều đó mới tạo nên một phong cách riêng. Ngôn ngữ chính là chất liệu để tạo ra hình
tượng và chính hình tượng nghệ thuật đã làm cho thơ ca có sức sống bền bỉ. Người
nghệ sĩ thật sự là người biết kết hợp những lớp ngôn từ khô khan để tạo nên hình
tượng riêng cuả mình. Nền tảng của mọi sự cách tân chính là tinh thần nhân bản, hay
nói khác hơn con người muốn thay đổi tư duy nghệ thuật thì trước hết phải đổi mới
quan niệm về con người. Con người luôn là tâm điểm của nghệ thuật và đời sống, cho
nên, dù có đổi mới đến đâu thì tác phẩm nghệ thuật vẫn không được tách rời khỏi
những quan niệm và tư duy về con người.
Khi Tân hình thức và Hậu hiện đại ảnh hưởng đến thơ ca Việt Nam, không chỉ
người đọc khó có thể chấp nhận nó mà các nhà thơ cũng nhìn nó dưới ánh mắt của một
kẻ dị hợm, không tiếp nhận nó ngay từ giây phút đầu, thậm chí còn có tư tưởng tẩy
chay nó. Chí có những nhà thơ trẻ của chúng ta là học hỏi và chấp nhận nó như ánh
mắt của “những con nai tơ tìm thấy món mồi mới”. Bởi họ không ngại tiếp thu cái
mới, họ luôn tìm hiểu cái mới và giao lưu với nó thông qua con đường sáng tạo. Trong
Góp nhặt sỏi đá: Thử nhặt các nhầm lẫn lặp đi lặp lại trong nhìn nhận về thơ hôm nay,
Inrasara có nhận xét rằng: “Còn hôm nay thì sao? Chúng ta đón tiếp và đãi cơm các
sáng tác Tân hình thức với Hậu hiện đại chủ nghĩa như thế nào? Đó là chưa nói kẻ
phiêu lưu làm mới có nhiều nhặn gì đâu. Số lượng thua xa thời Thơ Mới, trong khi
dân số Việt Nam tăng lên gấp 4 lần, số người đi học lại gấp 40 lần. Mà ít người làm
mới, thì nói gì tới/làm sao đủ số lượng để sàng lọc. Nhưng, sao cứ đòi thơ Tân hình
thức hay ngay từ buổi đầu nó chập chững ngơ ngác? Đáng lưu ý không kém: làm dở,
làm thất bại, làm không tới đâu… là quyền cơ bản, quyền cuối cùng của người sáng
tạo…. Với văn học, nghệ thuật cũng thế: chúng rất cẩn thái độ khích lệ tương tự từ
phía xã hội”[III, 13]. Thật ra, chẳng có cái mới nào được nhìn nhận ngay từ đầu nếu
không muốn nói là bị tẩy chay. Thơ Mới trên buổi đầu hình thành cũng khác gì, và đâu
phải cái mới nào cũng hay. Phải trải qua một khoảng thời gian cả hơn một thập niên,
Thơ Mới mới khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam. Còn Tân hình
thức và Hậu hiện đại chỉ mới chập chững bước vào thi đàn, bảo phải nhận được sự
đồng tình ủng hộ là việc không thể. Không nhận đươc cái nhìn tích cực, nhưng chẳng
phải những nhà thơ trẻ đương đại của chúng ta đã cho những bậc đàn anh, đàn chị thay
đổi cách nhìn về họ, thay đổi cả cách nhìn về Tân hình thức và Hậu hiện đại. Tác
phẩm của họ hoàn toàn không thuộc chủ nghĩa Tân hình thức hay Hậu hiện đại, mà chỉ
là sự ảnh hưởng, sự ảnh hưởng đó là nhờ vào nỗ lực học hỏi không ngừng của những
nhà thơ hôm nay.
Thơ không phải là hôm qua, không phải hôm nay và càng không phải mai sau,
thơ ca từ thuở khai thiên nó đã là một tiến trình. Nhìn theo góc độ nhân sinh thì thơ ca
ra đời chính để xoa dịu con người. Nhưng càng về sau, khi tiến bộ khoa học – kĩ thuật
dần len lỏi vào cuộc sống của con người và trở thành một phần không thể thiếu thì thơ
ca như bị đẩy lùi ra xa. Thơ ca không còn là nơi để tìm quên của con người trong cảm
xúc, phải chăng nó đã bị đẩy lùi ra xa, thảng hoặc nó bị con người bỏ quên ở một xó
xỉnh nào đấy trong tiềm thức. Trong bài Tiểu luận – Phê bình “Thơ như là một tiến
trình” của Inrasara, ông có nói rằng: “Như một tiến trình, thơ song hành cũng với thân
phận dân tộc. Song hành với ngôn ngữ và cách nghĩ của dân tộc. Thế nhưng, vài thập
niên qua, một bộ phận lớn của cộng đồng dân tộc đang quay lưng lại với thơ, vì quan
niệm về… thơ” [tr. 32]. Thơ và khoa học kĩ thuật thuộc hai lưỡng cực khác nhau trong
cũng một thế giới, vì vậy, việc rối loạn giữa hai lưỡng cực này trong cũng một thời đại,
cùng một xã hội là chuyện không thể không xảy ra. Suy cho cùng, việc lưỡng cực này
nổi lên thì lưỡng cực kia bị chìm xuống là chuyện bình thường. Thế nhưng, thơ vận
động không ngừng trên cùng một mặt phẳng không gian với tiến bộ khoa học – kỹ
thuật, nên việc lưỡng cực nào bị đẩy xuống còn cần phải nghiên cứu và xem xét lại.
Trong thơ ca, ngược lại với sự vận động không ngừng nghỉ không phải là việc dừng
lại, mà chính là sự sao nhãng, lãng quên. Lãng quên một cách máy móc. Nếu không
lãng quên thì thị hiếu người đọc cũng khó lòng chấp nhận cái mới. Từ những thập niên
30, khi phong trào Thơ Mới mới ra đời, người đọc đâu dễ gì chấp nhận nó, vẫn những
lời bàn tán một cách tiêu cực, thâm chí là tẩy chay Thơ Mới. Thế nhưng, chuyện
khẳng định một trào lưu có tiến bộ hay không cần phải trải qua một thời gian dài, đằng
đẵng 15 năm, đồng hành cung với những biến động của lịch sử dân tộc, Thơ Mới dần
khẳng định được vị thế của mình và được xem như một cuộc Cách mạng lớn nhất
trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Tiếp đến là thơ ca cách mạng, lịch sử dân tộc biến động,
các nhà thơ mới cũng cuộn theo dòng chảy đó, xem thơ ca là một mặt trận để truyền
tải những nội dung tư tưởng mà toàn thể dân tộc hướng tới, rồi những chiến công lẫy
lừng hòa quyện vào cái ta cộng đồng, bỏ quên cái tôi cá thể ở thời kì Thơ Mới. Thơ ca
thời kì sau 1975 vẫn còn mang hới hướng sử thi với những khúc khải hoàn khi nhìn về
quá khứ với những chiến thắng lẫy lừng, với một quá trình đấu tranh lâu dài bền bỉ của
nhân dân ta. Mặc dù vậy, thơ ca sau 1975 vận động không ngừng theo hướng dân chủ
hóa, hiện đại hóa, hướng con người đến những chuyện nhỏ nhặt bình thường đã bị
lãng quên khi họ mải miết đi theo và quyện mình vào cái ta của dân tộc, cái tôi cá
nhân được chú trọng cũng với những ẩn khuất trong tâm hồn con người. Nếu chỉ thay
đổi về nội dung thơ ca thì sẽ gây nhàm chán cho độc giả. Các nhà thơ thời kì sau 1975
luôn tìm tòi, học hỏi và giao lưu không ngừng để có thể thay đổi tư duy nghệ thuật,
xây dựng một nền thơ ca hoàn toàn mới. Năm 1986 là mốc thời gian đánh dấu sự thay
đổi về mọi mặt trong xã hội Việt Nam. Hệ thống chính trị thay đổi, trật tự xã hội cũng
thay đổi, cuốn vào dòng chảy của lịch sử, thơ ca cũng thay đổi một diện mạo hoàn
toàn mới, trong đó, có sự ảnh hướng ít nhiều từ các nguồn văn hóa ngoại lai.
Thơ ca Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa dân gian, đó là ca dao, dân ca hay những
lời hát ru của ông, bà, cha, mẹ. Mà văn hóa dân gian luôn mang một tính chất rất đặc
trưng đó là tính truyền miệng. Cũng chính vì thế mà thơ ca Việt Nam luôn chú trọng
vào vần, nhịp để có thể dễ thuộc, dễ nhớ. Thơ ca Trung đại tiếp thu thơ Đường luật của
Trung Hoa nên việc tuân thủ theo những quy tắc nghiêm ngặt trong sáng tác là điều
không thể tránh khỏi. Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ sáng tác
thơ Nôm Đường luật đáng nể phục nhất:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
(Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan)
Rồi tiếp đên là Thơ Mới xuất hiện như một sự cách tân về tư tưởng trong thơ ca,
nhưng việc từ bỏ vần điệu là điều không thể. Rồi đến Nguyễn Đình Thi với những nỗ
lực cách tân, từ bỏ vần điệu nhưng bị phản đối kịch liệt. Tất nhiên, một cá thể không
thể chiến thắng nổi một tập thể mạnh cho nên, dù cách tân đó là đúng đắn thì những tư
tưởng bảo thủ đã nhấn chìm nó đi. Rồi đến Thanh Tâm Tuyền với những sáng tác cách
tân, nhưng vẫn không thành công. Việc từ bỏ vần điệu trong giai đoạn này như là một
việc làm dị hợm, không ai có thể chấp nhận được. Nguyễn Quang Thiều cũng vậy,
không hơn không kém các nhà thơ đi trước. Inrasara đã nói rằng, thơ Nguyễn Quang
Thiều cũng không thể rời bỏ vần mà “vần ẩn tàng qua nhịp bằng trắc lên xuống trong
câu” Thế hệ cũ đánh tiếng cách tân, nhưng vì sự phản đối thậm chí vùi dập, nên dù có
nỗ lực thế nào, họ cũng không bao giờ đủ dũng cảm để theo đuổi chính kiến của riêng
mình. Để rồi sau đó, hàng loạt các nhà thơ trẻ cũng với những cách tân cả quan niệm
và tư duy nghệ thuật, mang đến một luồng sóng mới cho thơ ca Việt. Tâm lý bảo thủ
cùng với những truyền thống đã làm cho người đọc khó lòng chấp nhận cái mới ngay
từ buổi đầu xuất hiện. “Tô Thùy Yên: “Thơ tự do, cũng như Thơ Mới trước kia, ra đời
vì sự thay đổi của hồn thơ, chớ không phải đơn thuần là sự thay đổi của luật thơ”. Phê
bình thơ trẻ hôm nay, Nguyễn Thanh Sơn có cũng nhân định: “Cái chính là, một tinh
thần mới cho thơ, các nhà thơ trẻ lại chưa có”. [tr. 39] Inrasara đã nghiên cứu khá kĩ
về thơ hiện đại Việt Nam cũng như những ảnh hưởng của Tân hình thức và Hậu hiện
đại ảnh hướng đến thơ ca đương đại Việt Nam, từ đó ông có thể nhận ra rằng “tất cả
cái mới đã bị các nhà hiện đại khai thác cạn kiệt” nhưng thật ra, trong thơ ca, làm gì
có sự cạn kiệt tột cùng, thảng hoặc, chỉ là các nhà thơ không chịu thay đổi cách nhìn,
thay đổi quan điểm nghệ thuật. Thật ra, làm gì có sự đổi mới ngôn từ nào cho thơ ca
hiện đại hay Hậu hiện đại, mà chỉ là sự lắp ghép những từ ngữ đã cũ để tạo thành
những cái mới.
1.1.
Những xu hướng cách tân
Để có được một nền thơ ca phong phú, các nhà thơ phải không ngừng trau dồi,
vận động để tạo nên cái mới. Điều này khiến cho các nhà thơ phải luôn thử sức trên
nhiều đề tài và lĩnh vực khác nhau để các sáng tác của mình luôn mang điều mới mẻ
đến người đọc. Cũng chính vì thế đã tạo nên nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác
nhau trên thi đàn. Từ sau năm 1986, khuynh hướng sử thi thời hậu chiến mờ nhạt dần,
cái ta cộng đồng dần nhường chỗ cho cái tôi cá nhân với những việc nhỏ nhặt đời
thường, với chiều sâu tâm linh và tinh thần dân chủ, hiện đại hóa.
1.1.1. Xu hướng trở về cái tôi cá nhân
Đây là xu hướng nổi bật nhất, tạo nên luồng sóng cách tân lớn nhất cho thơ ca
sau năm 1975 nói chung và thơ ca sau năm 1986 nói riêng. Thơ ca trước 1975 là thơ
ca của dân tộc, thơ ca của niềm hân hoan, ca ngợi thì thơ ca sau 1975 là thơ ca của
hoài niệm lại những gì đã qua, thơ ca của cái tôi cá nhân. Sau năm 1986, niềm hoài
niệm ấy dường như không còn, các nhà thơ chỉ chăm vào sáng tác những tác phẩm với
cái tôi thức tỉnh, cái tôi cô đơn, lạc lõng giữa thế giới rộng lớn. Nói về những nỗi buồn
nhân sinh, chỉ có những nỗi buồn thoáng qua, nhưng cũng có những nỗi buồn là niềm
thương đau cả đời. Xoáy sâu vào nội tâm con người với nhiều cung bậc khác nhau,
nhiệm vụ của các nhà thơ đương đại không phải là cho độc giả thấy được nỗi buồn đó
sâu sắc đến nhường nào, cũng không phải làm cho người khác đồng cảm với nỗi buồn
đó mà quan trong nhất là cảm xúc của tác giả phải thật và nỗi buồn mà nhà thơ thể
hiện phải giúp độc giả cảm nhận được cuộc sống hiện thực để thay đổi cách sống, thay
đổi cách nhìn về cuộc sống để có mục đích sống cao đẹp hơn. Trong “Thơ Việt Nam
sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh”, Nguyễn Đăng Điệp đã nói rằng: “…cũng xuất hiện
không ít nỗi đau giả, những tiếng khóc vờ cảm xúc hời hợt và thói triết lý vặt trong
thơ. Thậm chí khiến cho không ít tác phẩm rơi vào tình trạng phản cảm…”[III, 5]. Đó
là giọng điệu bắt chước nửa vời.
Cái tôi trong thơ đương đại luôn là một cái tôi bi kịch. Bằng việc sử dụng rất
nhiều hình ảnh ẩn dụ khác nhau, các nhà thơ đương đại đã khắc họa nên những hình
tượng tưởng chừng như là vô tri, vô giác nhưng lại có nhũng nỗi niềm sâu xa giấu kín.
Những vật vô tri vô giá ấy bộc bạch về cuộc đời mình. Sự bộc bạch ấy làm cho mỗi
độc giả có cái nhìn sâu xa hơn về xã hội hiện tại cũng như tư tưởng mà tác giả muốn
gửi gắm thông qua những ký hiệu ấy.
1.1.2. Xu hướng đi sâu vào nội tâm con người với những cái tôi bản ngã
Cùng nói về cái tôi nhưng khuynh hướng này là sự khám phá bằng chiều sâu
của khuynh hướng thứ nhất. Nếu khuynh hướng đầu tiên nói về cái tôi với những mối
quan hệ trong đời sống thường nhật, cái tôi tương tác với xã hội thì khuynh hướng thứ
hai lại nói về cái tôi trong sự đấu tranh với chính nó. Đời sống phức tạp khiến suy nghĩ
con người cũng trở nên phức tạp hơn. Những tác động nhiều chiều của đời sống khiến
cho tâm lý con người trở nên đa dạng, không nhất quán.
Các nhà thơ trẻ đã cất công tìm tòi và thể nghiệm những cái mới, trong đó, việc
khai thác đời sống nội tâm của con người kết hợp với việc thay đổi tư duy nghệ thuật
càng làm cho thơ ca đương đại nhận được nhiều phản hồi tích cực. Có người không
đồng tình với những cái mới, nhưng việc này còn quá sớm để đưa ra kết luận, hãy để
thời gian chứng mình cho độc giả thấy rằng, sự cách tân thơ đương đại là cả một quá
trình đấu tranh không ngừng nghỉ của cả một thế hệ người trẻ. Những hình khối, màu
sắc, đường nét và tất cả những gì còn sót lại trong tâm hồn con người đã được các nhà
thơ vơ vét và tạo thành những bức tranh sống động. Gam màu trắng đen trong thơ ca
rất mong manh, mong manh như chính tâm hồn con người vậy. Sự thức tỉnh hay cái tôi
hiện sinh cũng có một ranh giới mong manh, đến nỗi, tâm hồn người cứ nửa tỉnh nửa
mê, đuổi theo chính mình, xa lánh chính mình, thậm chí, tự hủy diệt chính mình. Đó
chính là bản ngã.
1.1.3. Xu hướng từ hiện đại đến Hậu hiện đại
Như đã nói ở trên, khi đời sống xã hội thay đổi thì buộc đời sống văn nghệ cũng
phải thay đổi để thích nghi với thời đại. Một tác phẩm văn chương ra đời và được công
nhận chỉ khi tác phẩm đó mang hơi thở của thời đại. Khi đất nước Đổi mới, tư tưởng
trong thơ ca thay đổi, các nhà thơ trẻ phải mò mẫm cho mình một con đường đi đúng
đắn nhất. Họ phải tìm cách kết nối giữa truyền thống và hiện đại, nhưng giữa đó là
một dấu gạch nối quá lớn khiến họ cảm thấy khó khăn. Bước vào cuộc sống hiện đại
với những tư tưởng tự do, dân chủ, họ được cởi trói bởi những ràng buộc của hệ hình
xã hội bao cấp, tiếng nói của họ không còn bị tù hãm, trói buộc bởi những lễ nghi
truyền thống. Các nhà thơ trẻ ở giai đoạn này rời bỏ cả đề tài cuộc chiến tranh vừa
qua, họ tìm cách để bứt phá, để thay đổi. Trong Thơ Việt, từ hiện đại đến Hậu hiện đại,
Inrasara đã nói rằng: “Tất cả như đang dọ dẫm, tìm cách bứt phá, cả trong lối viết lẫn
cách xuất hiện. Họ lách luật, tìm mọi cách để lách luật. Khi lách đến không thể lách
được nữa, họ bất cần”[III, 13]
Sự ra đời của internet là một bước đệm giúp thơ ca hiện đại tiếp xúc với tinh
thần hậu hiện đại để rồi từ đó, một loạt sự cách tân đã ra đời. Không thể phủ nhận vai
trò của các nhà thơ Việt kiều trong quá trình truyền tải tinh thần Hậu hiện đại vào Việt
Nam. Nhưng vai trò của các nhà thơ trẻ trong nước còn quan trọng hơn. Bởi vì, sự vận
động nội lực thơ ca Việt Nam rất lớn, họ đang thật sự muốn thay đổi, bắt gặp tinh thần
mới, họ như “cá gặp nước” và đi theo con đường mình cho là hợp lí nhất. Thơ ca Hậu
hiện đại bóc mẽ sự thật đến tàn bạo, thậm chí, còn phản biện lại xã hội đương đại và
xóa bỏ mọi ranh giới. Chính vì những điều này nên nó được cho là dị hợm, làm cho
độc giả khó chấp nhận được.
1.2.
Thơ nữ Việt Nam đương đại – khái quát về tác giả và tác phẩm
1.2.1. Những thay đổi về quan niệm thế giới và con người trong thơ nữ Việt Nam
đương đại
“Ý Nhi với tập thơ Người đàn bà ngồi đan (1985), đã tạo một bước ngoặc để
đưa thơ từ cộng đồng trong đời sống chiến tranh trở về với cá nhân trong đời sống
dân sự” [III, 3]. Tập thơ Người đàn bà ngồi đan như bản lề mở ra cánh cửa cách tân tư
duy nghệ thuật cho văn học nữ đương đại. Cùng với đó là những khát khao đổi mới và
khai thác chiều sâu những chuyện nhỏ nhặt đời thường, những đề tài đó vẫn được các
nhà thơ như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn Thị
Hồng Ngát, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Tuyết Nga, Phi Tuyết Ba tiếp tục khai thác.
Lớp nhà thơ này là thế hệ đàn chị, đâu đó trong tác phẩm của họ vẫn còn những đề tài
cũ như nói về tình yêu, về thân phận, về tình mẹ con. Nhìn chung tất cả những gương
mặt thơ ca thuộc thế hệ đàn chị này đều đã góp một phần không nhỏ vào công cuộc lên
tiếng để bảo vệ quyền của người phụ nữ. Bước vào thời kì đổi mới với những sự va
chạm mới và sự thay đổi mới trong hệ hình tư tưởng. Không khí hiện đại hóa, dân chủ
hóa đã đập tan quan niệm “trọng nam khinh nữ” vẫn con sót lại của hệ hình phong
kiến. Một thế hệ nhà thơ nữ trẻ lại xuất hiện và trưởng thành. Đó là thế hệ của Vi Thùy
Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Bình Nguyên Trang, Dạ Thảo Phương, Ngô
Thanh Vân, Đường Hải Yến, Nguyễn Thúy Hằng, Trương Quế Chi, Phạm Vân Anh,
Ngô Thị Hạnh, Tú Trinh, Phương Lan, Nguyệt Phạm, Trương Gia Hòa, Khương Hà,
Lê Mỹ Ý,… Họ là những cây bút trẻ, trưởng thành trong không khí đổi mới của dân
tộc. Họ có nhiều điều kiện để tiếp thu nhiều nền văn học trên thế giới. Họ chọn cách
viết để định hình cho hướng đi và phong cách của chính mình. Nhiều nhà thơ đã
không ngại thử nghiệm cái mới. Với tất cả sự hiểu biết của mình, họ đã tự mình dấn
thân và tự mình chịu trách nhiệm trước những sự phản đối của độc giả và giới phê
bình.
Hơn ai hết, họ ý thức về cái tôi cá nhân của họ. Chính bản thân các nhà thơ nữ
là người đã đồng hành cùng với cuộc sống xã hội đương đại. Họ hiểu vai trò của mình
đang dần thay đổi. Nếu như thời phong kiến, thân phận người phụ nữ phải chịu những
định kiến xã hội, họ không làm chủ được tình cảm, cảm xúc của mình thì bây giờ, thời
đại đã thay đổi, nam nữ đều có quyền bình đẳng như nhau, các nhà thơ nữ không
những khẳng định vị trí của mình mà họ còn tạo nên diện mạo mới cho thơ ca đương
đại Việt Nam. Làm thơ là ghi lại cảm xúc của mình nhưng không phải ghi lại một cách
hời hợt và rẻ tiền mà phải làm cho những cảm xúc ấy trở nên thăng hoa và đẹp đẽ.
Nhưng khi mải miết theo dòng suy nghĩ của mình, liệu có mấy ai phân biệt được giữa
con tim và lý trí. Điều này khiến cho không ít các nhà thơ nữ đi vào lối mòn trong văn
chương. Thông thường, việc giãi bày những xúc cảm mãnh liệt, những khát khao hạnh
phúc và những mong ước vụn vặt đời thường thường đi vào trong tác phẩm của các
nhà thơ nữ. Việc cách tân văn chương chỉ thật sự được thể hiện khi thơ nữ đương đại
bắt đầu tự ý thức vai trò của mình trên thi đàn. Việc thể hiện sự phá cách, bỏ qua mọi
rào cản để xóa bỏ lối mòn đã khiến cho không ít các nhà thơ nữ luôn không ngừng đấu
tranh. Trước là họ đấu tranh với chính mình. Việc chấp nhận cái mới, có thể nói là đối
lập lại với truyền thống khiến họ trở nên lạ lẫm. Sau là sự đấu tranh để đứng vững trên
thi đàn trước ánh mắt dè bỉu và sự xua đuổi của tất cả độc giả và giới phê bình. Họ
từng bước hoàn thiện tác phẩm của mình bằng vốn tri thức mới đầy cao ngạo và tự tin.
Thời đại mở cửa, thơ ca cũng mở cửa. Từ nhiều góc nhìn và hướng tiếp cận
khác nhau, những trào lưu thơ ca trên thế giới cũng đều ảnh hưởng đến thơ ca trong
nước nói chung và thơ ca nữ đương đại nói riêng. Tất nhiên, việc chạy theo những lối
mòn cũ là cách an toàn nhất đối với các nhà thơ trẻ những muốn làm cho độc gỉa nhớ
đến mình thì thơ ca mình phải có những nét mới. Những người trẻ là những người
năng động nên việc chạy trước thời đại và luôn muốn mình là người mở đầu cho con
đường mới trong thơ ca nên việc không ngừng trau dồi những luồng tri thức mới đã
khiến họ có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc định hình hướng đi cho chính mình. Việc
nhìn cuộc đời bằng lăng kính của riêng mình đã khiến cho người trẻ không cảm thấy
chán ngán mà ngược lại, họ thích thú với điều đó và họ thực hiện sở thích của mình
cho bằng được. Nói về thơ nữ, trong mấy năm gần đây, yếu tố sex luôn được đưa vào
tác phẩm của họ. Trong một bài phỏng vấn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã nói
rằng: “…Những lựa chọn về thơ sex trong những năm gần đây cũng có cái lý của nó.
Trước kia bị o ép, bức bối, thì khi đổi mới, tinh thần mở ra, ngay cả những nhà thơ
tuổi không còn trẻ. Nhưng lớp trẻ mạnh bạo hơn mà có người cho rằng thiếu tế nhị,
quá trớn, thậm chí có người cho rằng trơ trẽn…” [III, 20]. Yếu tố sex xuất hiện trong
thơ ca đương đại như một điều tất yếu. Bởi trước kia, phái nữ phải chịu nhiều điều
tiếng bởi những định kiến, họ không thể thoát ra khỏi hai chữ “thân phận” nên bây giờ,
tự do ngôn luận đối với họ như là một sự cởi trói. Họ thoát khỏi vòng vây luân lý, họ
đi tìm chính mình và trỗi dậy bản ngã. Tất nhiên, việc bị phản bác những luận điệu
mỡi mẻ là điều khó tránh khỏi, nhưng thời gian đã chứng mình được rằng các nhà thơ
nữ Việt Nam đương đại thật sự có tài năng. Họ không hề làm thơ theo lối bắt chước
nửa vời mà đó là sự đam mê thật sự, họ theo đuổi đam mê và thực hiện nó một cách
thích thú, tài năng của họ đã được tất cả mọi người công nhận qua thời gian.
Bắt nguồn từ tư duy, sự cách tân thơ ca chỉ thực hiện được khi các nhà thơ thay
đổi được quan niệm của chính mình trong tư duy nghệ thuật. Muốn thay đổi được tư
duy nghệ thuật thì trước hết, nhà thơ phải là những người nắm vững được lớp ngôn từ
của dân tộc. Không quá khó trong việc xây dựng một hình tượng thơ mới, nhưng điều
đó lại không hề dễ đối với những người sáng tác chỉ biết đi theo lối mòn. Thật sự mà
nói, trong thơ nữ đương đại, khi đọc vào, người đọc chỉ toàn cảm thấy những hình ảnh
dị hợm, điều đó tạo nên những ấn tượng không tốt trong bước đầu khi tiếp xúc với thơ
cách tân. Chính điều này, khiến cho độc giả ghi nhớ những hình ảnh đó, để rồi sau đó
tự ngẫm nghĩ mới thấy được cái hay, cái riêng biệt của tác giả. Mỗi tác giả sẽ có những
cách làm cho thơ mình khác đi. Nhưng thơ nữ đương đại, tự thân nó đã khác. Bởi vì,
chẳng có lớp thế hệ trẻ nào mạnh bạo hơn thế hệ nữ trẻ đương đại, họ dám sáng tác thơ
ca theo cách của riêng họ, họ biết tự chịu trách nhiệm về nội dung thơ ca của mình, họ
đưa đứa con tinh thần của mình lên các diễn đàn và dũng cảm hứng chịu búa rìu dư
luận.
Thơ ca nữ đương đại đã tạo nên một dấu ấn lạ lẫm, đánh dấu sự bứt phá trong
quá trình cách tân thơ ca mà thời kì này là thời kì kiến tạo. Họ đã tự phác thảo chân
dung của mình, lên tiếng bình quyền cho mình và làm cho mọi người trố mắt ngước
nhìn. Họ hiên ngang sáng tác và tạo hình tượng, họ tạo nên một sự bứt phá và chứng
minh được sự cách tân của mình đã tạo nên một diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam
đương đại.
1.2.2 Một số gương mặt thơ nữ Việt Nam đương đại tiêu biểu
1.2.2.1 Các nhà thơ nữ Việt Nam đương đại trong nước
Vi Thùy Linh
Vi Thùy Linh sinh ngày 4/4/1980 tại Hà Nội, bút danh ViLi, tốt nghiệp Phân
viện Báo chí – Tuyên truyền, hiện cô đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Lớn lên
và trưởng thành trng thời kì đất nước đang trở mình, Vi Thùy Linh cũng như những
đồng nghiệp của cô có điều kiện để tiếp xúc với những luồng văn hóa mới nên việc
ảnh hưởng những cái mới trong thơ ca là điều khó tránh khỏi. Cô đã từng tâm sự: “12
năm làm thơ, sống cho thơ, tôi càng thấm thía thơ là định mệnh của tôi… Có hai lĩnh
vực trường tồn qua mọi thời đại, bởi sức mạnh thiêng liêng vượt qua mọi ranh giới,
khác biệt, màu da, ngôn ngữ: đó là Tình yêu và Nghệ thuật. Sống cho thơ và vì thơ mà
sống đẹp, tôi vẫn tiếp tục hành trình thơ, hành trình tình yêu của mình (Sống thơ,
tháng 6.2007)”. Vi Thùy Linh khai thác triệt để tình yêu, tình dục và cả những niềm
hoan lạc. “Nếu so sánh thơ tình với Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyên Sa, thơ tình Vi
Thùy Linh đã mới hơn nhiều. Người đọc nhận thấy trong thơ VTL chất đắm say cuả
Xuân Diệu, chất suy tư tỉnh táo và đằm thắm thuỷ chung cuả Xuân Quỳnh, những tinh
tế ngôn ngữ cuả Nguyên Sa, nhưng ở VTL, đúng như nhà thơ tự nhận định, thơ VTL
được viết bằng ngôn ngữ tinh ròng, phong phú, bằng giọng tâm sự chân thành gần
gũi giàu nữ tính”. Thơ tình Vi Thùy Linh được ca ngợi nhiều như vậy cũng bởi tư duy
tự giác cách tân, thay đổi quan niệm nghệ thuật và dám lên tiếng vì sự thay đổi đó của
một người nữ trẻ đa tài.
Ly Hoàng Ly
Ly Hoàng Ly sinh năm 1975 vừa là nhà thơ vừa là nhà họa sĩ, cũng chính vì
điều này mà Ly Hoàng Ly đã sử dụng rất nhiều ngôn từ trong hội họa để đưa vào thơ.
Ly Hoàng Ly sử dụng chất liệu hội họa cùng những qui tắc để xây dựng nên tác phẩm
của mình, tiêu biểu là nghệ thuật trình diễn và sắp đặt. Cũng như hội họa, Ly Hoàng
Ly sử dụng ngôn ngữ như một ký hiệu để nói lên tư tưởng của mình.
Tập thơ nổi tiếng: Cỏ trắng (1999); Lô lô (2005).
Phan Huyền Thư
Phan Huyền Thư tên thật là Phan Thị Huyền Thư, sinh năm 1972 tại Hà Nội.
Phan Huyền Thư tâm sự rằng: “Tôi không có vai “trong thơ” – phản diện với vai
“ngoài đời” – chính diện. Nhưng tôi có hai con người: con người luôn tìm cách phá
hoại chính mình, còn con người kia lại đi “khắc phục hậu quả”. Có lúc điên rồ, có lúc
yếu mềm; có lúc ngoan, lúc hư; lúc bướng bình ngang ngạnh “xịn”, lúc thùy mị nết na
“đểu”… những chưa bào giờ độc ác cả” [Phan Huyền Thư – người nối dài sự sống cho
chữ ]
Thơ Phan Huyền Thư là thơ của lý trí nên nó không hề dễ đọc. Phan Huyền Thư
luôn tìm mọi cách để tạo ra các giá trị mới cho chữ, đối với cô, việc viết ra những
trang giấy với những ngôn từ cũ kĩ không khác gì việc tạo ra một “nghĩa địa chữ”.
Tác phẩm tiêu biểu: Rỗng Ngực, Nằm Nghiêng, Gió, Khắc Thạch, Sương, Tạ
Ơn, Van Nài, Liều, Độ Lượng…
Nguyễn Thúy Hằng
Nguyễn Thúy Hằng là nhà thơ có cá tính mạnh, tác phẩm của cô viết theo tinh
thần Hậu Hiện đại. Mọi người gọi chị là nghệ sĩ Hậu Hiện đại. Nguyễn Thúy Hằng
tâm sự rằng: “tôi từ chối một cách sống và một lối viết ngăn nắp, có trình tự và tử
tế. Nó đả phá những qui tắc và tiêu chuẩn mà cuộc sống đề ra: sự hợp lí, tính thực tế,
sự dễ hiểu, khuôn khổ, đạo đức, số đông, bình tĩnh, sạch sẽ. Sự mất phương hướng, té,
không cân bằng, mặc cảm, stress, xấu xí, thiếu thốn, đói, không hoà nhập, nói năng
lảm nhảm… luôn có chỗ đứng và có lí do của nó.” “..Tôi không có chủ đích về nội
dung mà làm tác phẩm dựa trên cảm hứng. Khi hình dung về một tác phẩm, tôi luôn
cảm thấy thích hình dáng hơn là ý nghĩa của chúng. Nó khác với những người khác ở
chỗ khi sáng tác họ thường bắt đầu từ ý niệm, hay chủ đích còn tôi thì bắt đầu từ sở
thích một hình dáng, chất liệu nào đó .Người xem có toàn quyền mở rộng trí tưởng
tượng phong phú khi đứng trước tác phẩm nghệ thuật”. Tác phẩm của Nguyễn Thúy
Hằng mở ra cho người đọc nhiều hướng suy nghĩ và liên tưởng, cô cho người đọc
phán xét tác phẩm của mình chứ không giải thích chi li như những tác giả khác. Thơ
văn xuôi của Nguyễn Thúy Hằng nhận nhiều sự tranh cãi từ giới phê bình.
Tác phẩm tiêu biểu: Gào thét nữa đi, Người chết trôi đẹp nhất trần gian,
Beckett’s, tôi và Khuyên…
Tuyết Nga
Nhà thơ Tuyết Nga tên thật là Nguyễn Thị Tuyết Nga, sinh năm 1960 tại Nghệ
An.
Tác phẩm tiêu biểu: Viết trước tuổi mình, Đường số phận, Ảo giác (2003)
Nhóm thơ Ngựa Trời