NHÓM 4 – LỚP 13 CVHH
Môn : Văn hóa học
Định vị văn hóa:
LÒNG YÊU NƯỚC CỦA
NGƯỜI ĐÀ NẴNG
Môn : Văn hóa học
ĐỊNH VỊ VĂN HÓA “LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI ĐÀ NẴNG”:
Sơ đồ định vị văn hóa :
Chủ thế : Người Đà
Nẵng
LÒNG YÊU NƯỚC
CỦA NGƯỜI
ĐÀ
NẴNG
Không gian : Thành
phố Đà Nẵng
-
Người Sa Huỳnh
Người Chăm Pa
Người Việt
-
Sa Huỳnh & Chăm Pa
Phong Kiến
Trung – Pháp – Nhật – Mỹ
Xây dựng đất nước
-
Thời gian : 700 năm
( Từ năm 1306 )
Nhóm 4-13CVHH
Page 2
-
Người Sa Huỳnh - Chăm
Pa : Cách đây ~2000 năm.
Người Việt : Năm 1306
Tách Đà Nẵng ra khỏi
Quảng Nam : 6/11/1996
Môn : Văn hóa học
I.
MỞ ĐẦU :
Từ xa xưa lòng yêu nước đã được sinh ra và nuôi lớn bởi mỗi con
người, hơn ai hết mỗi người điều hiểu rõ “lòng yêu nước” đối với cuộc
sống của chính bản thân mình.
Cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đang ngày đêm sinh sống trên
mảnh đất hình chữ S , mỗi người dân thành phố Đà Nẵng cũng đã và
đang giữ cho ngọn lửa yêu nước sục sôi mãi mãi.
II.
1.
NỘI DUNG :
Giải thích khái niệm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước ... “ Vậy lòng yêu nước là gì ?
Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng, vĩ đại của mỗi con người bắt
nguồn từ tình yêu xóm làng, yêu thiên nhiên, rộng ra là yêu con người,
yêu dân tộc mình. Lòng yêu nước được kết tinh trong tư tưởng và thể
hiện ở tinh thần sẵn sàng hành động, hi sinh vì nhưng gì thuộc về đất
nước. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam nói chung và người Đà Nẵng
nói riêng có từ xa xưa đã trở thành truyền thống quý báu không thể tách
rời.
2.
Lý giải nguồn gốc:
Xuất phát từ những thứ tình cảm rất tự nhiên như: tình yêu gia đình, làng
xóm, quê hương,... Đất nước trong mỗi người có thể chỉ là mái nhà đơn
sơ,là bữa cơm canh rau đạm bạc, là con đường đến trường, là cánh đồng
lúa chín thơm ngát. Từ lúc mới lọt lòng mẹ, mỗi người đã để lại một phần
máu thịt mình trên mảnh đất quê hương, vì thế mới gọi quê hương là nơi
“chôn nhau cắt rốn”.
Nhóm 4-13CVHH
Page 3
Môn : Văn hóa học
Lớn lên một chút, được cắp sách đến trường quên hương trong chúng ta
là cả một chuỗi ngày thơ bé, đầy ắp kỉ niệm, là thầy cô, là bạn bè,..
Khi rời xa xóm làng, gia đình đi khắp mọi miền đất nước. Quê hương đất
nước trong chúng ta là những nẻo đường mà mình đã đi qua, là những
con người mà mình đã gặp gỡ.
Đối với nhiều người, họ yêu tổ quốc chỉ bởi vì tổ quốc là nơi dòng họ đã
hình thành và phát triển, là nơi bao đời tổ tiên con cháu đã sống và xây
dựng, là nơi mà con cháu họ ngày mai đây sẽ tiếp tục sinh sống. Vì thế
mỗi tất đất mà mỗi con người đi qua đều mang dấu vết và công lao khai
phá của tổ tiên, quê hương Đà Nẵng và tổ quốc Việt Nam, hồn thiên của
tổ tiên, của sông núi đang chảy trong huyết quản.
Bởi thế, khi Đà Nẵng là nơi xâm chiếm đầu tiên của chế độ thực dân thì
những con người ấy với lòng yêu nước từ những thứ mộc mạc đơn giản
đó đã trỗi dậy, đoàn kết cùng nhau kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Từ đó ta thấy được rằng lòng yêu nước được kết tinh từ những thứ nhỏ
nhất, giản dị nhất rồi kết thành một lòng yêu nước to lớn giúp đất nước
độc lập tự do nói chung và sự phát triển của thành phố Đà Nẵng nói riêng.
3.
Biểu hiện:
- Lòng yêu nước của người Đà Nẵng trong công cuộc dựng nước :
Nước Việt Nam ta đã trãi qua hàng ngàn năm lịch sử trong đó dựng
nước là một công cuộc hết sức lớn lao.
Từ năm 1306 trờ đi Việt Nam bắt đầu phục hưng. Nông nghiệp, thủy
lợi đều đi lên. Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đồng nguyên.
Sau khi Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Việt Nam, quan hệ tư bản
chủ nghĩa được du nhập, Việt Nam chuyển dần từ một nền kinh tế
nông nghiệp tự cung tự cấp lạc hâu sang nền kinh tế thuộc địa hoàn
toàn bị chi phối bởi Pháp.
Nhưng với lòng yêu nước sâu nặng thì nhân dân Việt Nam nói chung
và nhân dân Đà Nẵng nói riêng đã ra sức xây dựng lại đất nước để đất
nước phát triển như ngày hôm nay.
Theo dòng lịch sử dựng nước ấy, Đà Nẵng cũng đã khoác lên mình
một quá trình gian khổ, xây dựng quê hương, làng mạc, góp phần
không nhỏ vào quá trình hình thành và phát triển Đất nước. Đà Nẵng
là nơi các tàu bè phương Tây thương lui tới với nhiều ý đồ khác nhau.
Từ 1306 – 1975 Đà Nẵng có rất nhiều chuyển biến. Sau khi tách ra
khỏi Quảng Nam ( 6/11/1996 ) , Đà Nẵng đã có những bước đi đầu
tiên.
Nhóm 4-13CVHH
Page 4
Môn : Văn hóa học
Đầu TK XX Đà Nẵng được xây dựng theo kiểu đô thị phương Tây, cơ
sở hạ tầng, kĩ thuật sản xuất được đầu tư, các ngành nghề và kinh
doanh được hình thành và phát triển như : chế biến hàng xuất khẩu,
sửa chửa tàu thuyền, .... Đà Nẵng không ngừng xây dựng thế mạnh về
chính trị , quân sự , văn hóa , các công trình công cộng, giao thông, cơ
sở hạ tầng,... Năm 1975, hòa bình lập lại ở Đà Nẵng, thành phố bắt
đầu khôi phục khó khăn, xây dựng thành phố ngày càng phát triển
toàn diện.
( bến sông Hàn xưa )
( Đà Nẵng_ thành phố đáng sống )
Lòng yêu nước của con người Đà Nẵng trong quá trình giữ nước :
Giữ nước được thể hiện rõ rệt nhất trong quá trình đấu tranh chống xâm
lược của con người Đà Nẵng.
• Thời Đại Việt :
-
Nhóm 4-13CVHH
Page 5
Môn : Văn hóa học
+ Vào năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman
III với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho
nhà Trần thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành.
+ Vào năm 1470, Vua Lê Thánh Tông lãnh đạo nhân dân đánh bại
quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến Mũi
nay (giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) thì vùng đất này mới
được bình ổn và bắt đầu có những cuộc khai phá mở mang.
+ Đà Nẵng trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn trở
thành vùng tranh chấp dữ dội và đã chứng kiến những trận đánh quyết
liệt của quan quân nhà Nguyễn trong cuộc tấn công vào cửa Đà Nẵng
và Đại Chiêm. Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh
Đà Nẵng.Nhân dân Đà Nẵng ra sức bảo vệ từng tất đất.
•
Thời Nguyễn :
+ Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng
tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt để phòng
chống kẻ thù và bảo vệ cuộc sống nhân dân.
•
Thời Pháp thuộc :
+ Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng
cuộc tấn công vào Đà Nẵng.
( Liên quân tấn công Đà Nẵng 1858)
Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế
hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam
Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.
Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha gồm 16 tàu chiến được
trang bị vũ khí thuộc loại hiện đại nhất, các khẩu đại bác đều là loại có
sức công phá lớn và khả năng sát thương cao, mở đầu cuộc tấn công vào
Đà Nẵng.
Nhóm 4-13CVHH
Page 6
Môn : Văn hóa học
Nhân dân Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo của Triều đình ra sức chống đối
quyết liệt, không những thể bằng lòng yêu nước và tình yêu với mảnh đất
quê hương người dân Đà Nẵng một lòng chống lại quân đich. Cho đến hết
năm 1858, quân địch vẫn không sao mở rộng được địa bàn chiếm đóng,
phá vỡ thế phòng thủ của ta, để thực hiện chiến lược đánh nhanh, thắng
nhanh.
Kết cục, sau 18 tháng đánh chiếm Đà Nẵng (từ 1-9-1858 đến 23-3-1860),
Page - thiếu tướng Tổng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha - được
lệnh của Chính phủ Pháp rút hết quân ra khỏi Đà Nẵng để đưa sang hỗ trợ
cho chiến trường Trung Quốc. Trước khi rút quân, Page ra lệnh đốt hết
các đồn trại ở Sơn Trà, An Hải, Điện Hải, Trà Úc và đành phải để lại một
nghĩa địa và hàng trăm nấm mồ quân xâm lược nằm rải rác trên bán đảo
Sơn Trà. Đây là nghĩa địa quân xâm lược duy nhất còn tồn tại đến ngày
nay ở nước ta.
+ Phong trào Nghĩa hội Quảng Nam ( 1885-1887 )
Ngày 23 tháng 5 Ất Dậu (5-7-1885) tiếng súng chống Pháp do Tôn Thất
Thuyết khởi xướng nổ ra tại kinh đô Huế và đã bị quân Pháp phản công
áp đảo. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng rời Huế
chạy ra Tân Sở. Tại đây, ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần
vương.
Hưởng ứng chiếu Cần vương, nhân dân ta ở khắp mọi nơi, dưới sự lãnh
đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước đã sôi nổi đứng lên chống Pháp.
Tháng 7 năm Ất Dậu (8-1885), tiến sĩ Trần Văn Dư thay mặt Nghĩa hội
Quảng Nam ra Bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên đáp
nghĩa Cần vương chống Pháp.
+ Phòng trào Duy Tân ( 1905 – 1908 )
Từ cuối thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đổ xô sang Viễn Đông
tìm kiếm thị trường. Đối tượng chính của chúng là Trung Quốc, một nước
đông dân nhất, có nhiều tài nguyên. Nhật Bản, một quốc gia phong kiến
bắt đầu duy tân theo tư bản chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XIX.
Phong trào cải cách, Duy tân ở Quảng Nam khởi đầu vào năm 1905 đã
khẳng định sức hút mạnh mẽ của nó và vai trò lãnh đạo của những sĩ phu
yêu nước, tiến bộ. Phong trào có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, trình độ
giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi nhà cầm quyền phải
thay đổi chính sách cai trị.
+ Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp
( 24 – 01 – 1949 )
Nhóm 4-13CVHH
Page 7
Môn : Văn hóa học
Chiến thắng Hải Vân lần thứ ba (24-1-1949) là một trận phục kích vừa
đánh giao thông trên đường bộ và cả đường sắt, vừa đánh diệt viện trên
một đường đèo hiểm trở và đã đạt được hiệu quả lớn.
+ Vụ thảm sát ở đập Vĩnh Trinh ( Huyện Duy Xuyên ) vào đêm 20 – 01 –
1955
Trong những vụ tàn sát những người cách mạng và yêu nước
điển hình nhất là vụ thảm sát ở đập Vĩnh Trinh (huyện Duy Xuyên)
vào đêm 28 tháng chạp cận Tết Ất Mùi (20-1-1955). Tính chất điển hình
ở đây không phải ở số lượng vì số người bị giết chết có 38, mà ở thủ đoạn
và hành vi tàn bạo dã man, tráo trở của kẻ địch bị lôi ra ánh sáng qua
hàng trăm lá đơn của người dân tố cáo với Ủy ban Quốc tế giám sát đình
chiến sau Hiệp định Genève ở Việt Nam. Tội ác giết người man rợ này đã
gây một niềm xúc động trong đồng bào cả nước và bị phơi bày trước dư
luận thế giới.
+ “Ngọn lửa Trà Nô” – Cuộc nổi dậy của nhân dân làng ông Tía (13 -03 –
1960 )
Cuộc khởi nghĩa làng Trà Nô là cuộc nổi dậy đầu tiên của quần chúng kết
hợp với đấu tranh vũ trang ở miền núi Quảng Nam đã giành thắng lợi và
có ảnh hưởng to lớn đến các địa phương khác trong tỉnh. Sau cuộc khởi
nghĩa Trà Nô, có nhiều làng khác ở các xã trong tỉnh nổi dậy, đi vào đấu
tranh vũ trang, thành lập làng chiến đấu. Có thể nói, cuộc khởi nghĩa làng
Trà Nô đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ như một biểu tượng
cao đẹp của tinh thần và ý chí quật cường, là niềm tự hào về truyền thống
yêu nước của nhân dân miền núi nói riêng và nhân dân tỉnh Quảng Nam
nói chung.
•
Thời Mỹ xâm lược
+ Đơn vị thủy quân lục chiến đầu tiên của Mỹ đổ bộ vào vào Đà Nẵng
( 08 – 03 – 1965 )
Nhóm 4-13CVHH
Page 8
Môn : Văn hóa học
( đế quốc Mỹ đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà )
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa
quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy
bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng,
ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9
của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến
chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ
căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng.
Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào
miền Nam, trực tiếp tham chiến.
+ Chiến thắng Núi Thành ( 26 – 05 – 1965 ) – Trận đầu diệt Mỹ ở chiến
trường miền Nam
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đến đầu năm 1965 coi như phá
sản. Trước nguy cơ sụp đổ của chế độ tay sai Sài Gòn, Mỹ gấp rút đưa
quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường miền Nam.
Chỉ trong 25 phút giao tranh, quân ta đã chiếm lĩnh cả hai ngọn đồi 49 và
50, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng quân Mỹ
xâm lược” được cắm lên trên đỉnh Núi Thành.
Tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam và Quân ủy Miền đã nhất trí tuyên dương 3
tỉnh đạt thành tích xuất sắc nhất trong sự nghiệp chống Mỹ (1954 - 1967),
các danh hiệu sau đây:
1- Bến Tre “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy”.
2- Long An “Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc”.
Nhóm 4-13CVHH
Page 9
Môn : Văn hóa học
3- Quảng Nam - Đà Nẵng “Trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.
Ngày nay, tại ngọn đồi nằm ở phía đông Núi Thành cao 43m, gần cạnh
quốc lộ 1A, một tượng đài uy nghi mang dòng chữ “Chiến thắng Núi
Thành” đã được xây dựng ghi dấu một chiến công bất khuất của quân và
dân Quảng Nam - Đà Nẵng thời kháng chiến chống Mỹ.
+ Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5 –
1966, đỉnh cao của phong trài đô thị miền Nam thời chống Mỹ.
Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài
Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn
Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư
lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào
lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe
cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà
Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn
Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để
làm áp lực với chính quyền trung ương.
Lợi dụng cơ hội này, học sinh, công nhân, tiểu thương, tăng ni, phật tử…
đã tổ chức xuống đường, bãi khóa, đình công, bãi thị. Cơ sở bí mật của ta
ở nội thành đã đưa người tham gia vào tổ chức ly khai của địch, nhằm lái
phong trào tập trung đấu tranh chống Mỹ-Thiệu.
Đây là cuộc đấu tranh có quy mô lớn nhất, có nhiều thành phần tham gia
đông đảo nhất và kéo dài nhiều ngày nhất trong phong trào đô thị
miền Nam thời “chiến tranh cục bộ”.
Đánh giá về cuộc nổi dậy này, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: “Cuộc nổi
dậy của đồng bào Đà Nẵng chống Thiệu-Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5-1966
tuy không đem lại thắng lợi, nhưng đã cho ta một bài học bổ ích về lợi
dụng mâu thuẫn nội bộ địch. Lúc đầu cuộc nổi dậy đó không phải do ta
chủ động, mà nhân cơ hội nội bộ địch chống đối lẫn nhau, ta đã biết tập
hợp, phát động quần chúng đứng lên làm chủ thành phố… Bài học về
cuộc nổi dậy của đồng
bào Đà Nẵng rất phong phú”(1).
(1)
Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, H., 1985, tr. 18.
+ Giải phóng Quảng Nam – Đà Nẵng ( 29 – 03 -1975 )
Nhóm 4-13CVHH
Page 10
Môn : Văn hóa học
( quân giải phóng đánh đổ kho xăng của địch 29-03-1975)
Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà
Nẵng đã góp phần to lớn, và tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch Hồ
Chí Minh giải phóng Sài Gòn và cả miền Nam thân yêu kết thúc vào ngày
30-4-1975.
( cờ cách mạng trên nóc tòa thị chính Đà Nẵng )
Nhóm 4-13CVHH
Page 11
Môn : Văn hóa học
-
Lòng yêu nước của người Đà Nẵng trong xây dựng và phát triển thành
phố Đà Nẵng :
( Đà Nẵng ngày nay )
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Giới thiệu cho bạn bè quốc tế biết về con người, đất nước, phong
tục tập quán, di sản văn hóa của Đà Nẵng.
Cá nhân thay mặt cho thành phố tham gia các phòng trào thể thao
trong và ngoài nước để đem về những thành tích danh giá.
Quần đảo Hoàng Sa – Nơi bờ cõi đất nước đã được thành phố Đà
Nẵng hết sức quan tâm chú trọng ngày đem canh giữ và bảo vệ.
Xây dựng nhiều khu du lịch, khách sạn, nhà hàng đẹp và sang
trọng.
Xây dựng trung tâm thương mại.
Xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu của người dân Đà
Nẵng.
Xây dựng gần nghìn căn nhà tình nghĩa ( 900 căn nhà ) cho gia
đình chính sách, chú trọng đến quỹ “đền ơn đáp nghĩa” tại thành
phố ( 18 tỷ đồng )
Chú trọng phát triển kinh tể
Nắm giữ một lực lượng quân sự lớn để đảm bảo bảo vệ và giữ gìn
đất nước.
Áp dụng những biện pháp mềm dẻo => Mục tiêu : phát triển kinh
tế , giải quyết việc làm, xoa dịu lòng dân.
Thắt chặc hệ thống an toàn giao thông đảm bảo cho người dân Đà
Nẵng.
Mở rộng giao lưu , phát triển ngoại thương.
Xây dựng các trường đại học đạt chuẩn để đào tạo giáo dục thế hệ
trẻ tương lại trụ cột đất nước.
Xây dựng thành phố Đà Nẵng _ Thành phố đáng sống.
Nhóm 4-13CVHH
Page 12
Môn : Văn hóa học
( Chợ Cồn , Đà Nẵng 1949)
=
( Chợ Cồn ngày nay )
Nhóm 4-13CVHH
Page 13
Môn : Văn hóa học
100 năm trước Jules Ferry và nay là đường Trần Phú, con đường sầm uất của
Đà Nẵng ngày nay. (Tòa nhà lớn là bệnh viện quân đội Pháp)
LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI DÂN ĐÀ NẴNG GẮN VỚI VIỆC
GIỮ GÌN VÀ BẢO VỆ BÁN ĐẢO SƠN TRÀ VÀ QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA :
-
Bán đảo Sơn Trà :
( thuyền Pháp đánh chiếm bán đảo Sơn Trà )
Đà Nẵng là nơi căn cứ quân sự số 1 của Việt Nam bởi Đà Nẵng có hải
cảng sâu rộng thuận tiện cho tàu thuyền qua lại cũng như lưu thông
buôn bán và giao lưu nội – ngoại giao, gần với kinh đô Huế nơi ngự trị
của triều Nguyễn. Hơn nữa giặc đánh chiếm Đà Nẵng , bán đảo Sơn
Trà là nơi trọng điểm để xâm chiếm ba nước Đông Dương. Do đó khi
tấn công vào Việt Nam liên minh Pháp – Tây Ban Nha đã chọn bán
đảo Sơn Trà là điểm nổ súng đầu tiên bắt đầu cho cuộc xâm lược.
Nhóm 4-13CVHH
Page 14
Môn : Văn hóa học
Dưới tinh thần chiến đấu của người dân Việt Nam, nhân dân Đà Nẵng
đã đứng lên đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Sự
chỉ đạo tài tình của tổng đôc Nguyễn Tri Phương với chiến lược vườn
không nhà trống làm cho tinh thần địch hoang mang và giam chân
địch tại nơi này 5 tháng. Do đó đến tháng 2 – 1959 tướng Pháp đã
chuyển quân vào Nam và chỉ để lại một lượng quân rất nhỏ.
Sau quảng thời gian dài chiến đấu chống ngoại xâm, bằng lòng yêu
nước của mình nhân dân Đà Nẵng đã ra sức giữ gìn và bảo vệ bán đảo
Sơn Trà.
Giờ đây bán đảo Sơn Trà là vùng đất phát triển du lich và dịch vụ
hàng đầu của Việt Nam. Cũng như là một trong những căn cứ quân sự
lớn nhất cả nước.
( một phần bán đảo Sơn Trà ngày nay )
Nhóm 4-13CVHH
Page 15
Môn : Văn hóa học
( Mắt thần Đông Dương trên bán đảo Sơn Trà )
Trạm radar này đang được đoàn H90, sư đoàn 375 quản lý. Nhiệm vụ của trạm là
tuần tra canh gác bầu trời toàn vùng biển Đông, phát hiện và ứng báo kịp thời với
những hành động xâm phạm không phận, vi phạm chủ quyền lãnh thổ.
-
Quần đảo Hoàng Sa :
Lòng yêu nước của dân tộc xuất phát từ lòng yêu nước của mỗi người
dân. Từ những gì nhỏ bé nhất kết tinh thành một lòng yêu nước nồng
nàn mạnh mẽ. Và lòng yêu nước của người dân Đà Nẵng cũng được
thể hiện một cách rõ ràng qua việc đoàn kết cùng nhau xây dựng đất
nước và đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và đặc biệt hơn là
cùng nhau chiến đấu bảo vệ từng mảnh đất để bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ của quần đảo Hoàng Sa. Thông qua việc bảo vệ quần đảo là lòng
yêu nước của người Việt Nam nói chung và nhân dân Đà Nẵng nói
riêng được thể hiện khá sâu sắc.
Nhóm 4-13CVHH
Page 16
Môn : Văn hóa học
Nhắc đến Đà Nẵng không thể không nhắc đến quần đảo Hoàng Sa _
một trong hai quần đảo lớn nhất Việt Nam là cột mốc quan trọng để
khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Bởi thế, vào đầu TK XIX nhà Nguyễn
chính thức xác lập chủ quyển trên quần đảo. Điều này đã cho thấy
quần đảo Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền của nước ta , là một phần địa
phận Đà Nẵng và là một phần máu thịt của mỗi người dân Đà Nẵng.
Tới đầu TK XX Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp tiếp tục chủ
quyền đối với quần đảo từ nhà Nguyễn, nhưng bắt đầu có sự tranh
chấp đối với Trung Quốc.
Để chống lại sự tranh chấp này thì quân dân Đà Nẵng đã ra sức bảo vệ
chủ quyền của mình bằng cách tăng cường đội ngũ quốc phòng. Cho
đến 1974 Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối chủ quyền và kiểm soát một số
đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Với sự kiện của trận Hải chiến Hoàng
Sa ( 1974 – nay ) Trung Quốc đồng thời tuyên bố đó là lãnh thổ của
họ. Chính sự tuyên bố này nhà nước ta càng ra sức tìm tại liệu khẳng
định chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa với Việt Nam nói chung và là
địa phận của Đà Nẵng nói riêng.
Từ thời phong kiến nhân dân Đà Nẵng và đất nước ta đã ra sức bảo vệ
chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa bằng cách cho đội quân ra canh
giữ. Đến bây giờ, để giữ vững chủ quyền lãnh thổ thì nhà nước ta tăng
cường chính sách quốc phòng an ninh đặc biệt là chủ quyền với Đà
Nhóm 4-13CVHH
Page 17
Môn : Văn hóa học
Nẵng và Việt Nam đã bảo vệ Hoàng Sa bằng cách tăng thêm lực lượng
ngày đêm canh giữ dù nắng, mưa , gió và khí hậu khắc nghiệt. Bảo vệ
tổ quốc còn là bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, mà bảo vệ chủ quyền
biển đảo là một trong những biểu hiện rõ rệt của lòng yêu nước của
nhân dân Việt Nam mà đặt biệt là nhân dân Đà Nẵng.
4.
Biến đổi:
Lòng yêu nước của người dân Đà Nẵng luôn biến đổi theo thời gian. Từ
thời kỳ sơ khai Sa Huỳnh và Chăm Pa lòng yêu nước đã được thể hiện từ
việc xây dựng đất nước, yêu thương con người, làng quê, hàng xóm.
Càng về sau biểu hiện của lòng yêu nước được biểu hiện bằng nhiều cách
khác nhau, đậm đà tính dân tộc cũng như sâu sắc hơn.
Đến thời thực dân xâm lược, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, phát xít
Nhật, đế quốc Mỹ cùng bọn xâm lược khác lòng yêu nước được thể hiện
đậm nét ở tinh thần đoàn kết quyết tâm một lòng bảo vệ đất nước.
Thời kì độc lập, lòng yêu nước lại bước qua bước phát triển mới, người
dân Đà Nẵng một lòng bảo vệ và xây dựng thành phố ngày một phát
triển, không chỉ trong tinh thần chống giặc ngoài xâm mà còn hăng hái
xây dựng cuộc sống mới ngày càng phát triển.
5.
Giá trị:
Suốt chiều dài lịch sử những giá trị truyền thống từ lòng yêu nước của
dân tộc ta cũng như nhân dân Đà Nẵng đã có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tôt quốc, đánh thắng giặc ngoại xâm và cả
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người dân Đà Nẵng đã cùng
với nhân dân cả nước chống lại sự đồng hóa của người phương Bắc , giữ
được bản sắc của dân tộc Việt như : các làng nghề truyền thống, các lễ hội
đặc sắc , và các tín ngưỡng truyền thống. Đặc biệt tài nguyên thiên nhiên
như : tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản,... Cơ sở hạ
tầng ngày càng được củng cố và nâng cao. Giao thông được đảm bảo,
kiến trúc, thắng cảnh ngày càng phát triền, đa dạng, phong phú.
6.
Nhận xét :
Trãi qua hàng trăm năm lòng yêu nước của người dân Đà Nẵng đã đức
kết thành một làng sóng vô cùng mạnh mẽ hòa với lòng yêu nước chung
của nhân dân cả nước. Nhân dân Đà Nẵng bằng những cách thể hiện lòng
yêu nước khác nhau, không chỉ trong đấu tranh chống ngoại xâm mà còn
trong xây dựng và bảo vệ tôt quốc. Góp phần vào xây dựng Đà Nẵng
thành một vùng đất phồng thịnh. Ngày nay người dân Đà Nẵng vẫn đang
Nhóm 4-13CVHH
Page 18
Môn : Văn hóa học
III.
tiếp tục phát huy lòng yêu nước và tiếp tục xây dựng Đà Nẵng thành một
vùng quan trọng, trọng điệm của quốc qia và hình thành một nền văn hóa
với bản sắc riêng của vùng đất này.
KẾT LUẬN :
Lòng yêu nước được kết tinh từ những cái nhỏ nhất để rồi trở thành
một làng sóng mạnh mẽ giúp nhân dân ta có khả năng chiến đấu kiên
cường, vượt qua mọi thử thách chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc
và còn được thể hiện qua việc xây dựng Đà Nẵng ngày càng trở nên
phát triển và khẳng định được vị trí của mình.
Tất cả nhân dân sống trên lãnh thổ Việt Nam đều có lòng yêu nước sâu
nặng và nhân dân Đà Nẵng cũng không ngoại lệ.
Tài liệu tham khảo :
1. Cuốn sách “Lịch sử Việt Nam” của tác giả : Đào Duy Anh .NXB : khoa học
– xã hội.
2. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng : />3. Bách khoa toàn thư mở : />4. Website của “hội kiến trúc sư Đà Nẵng” : />5. Báo Đà Nẵng : />6. Sách ảnh “Đà Nẵng xưa” : Nhóm biên soạn Huỳnh Yên Trầm My, Trương
Vũ Quỳnh, Lưu Anh Rô. NXB Đà Nẵng
Nhóm 4-13CVHH
Page 19