TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM-ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
-----------------------------------------------
Tên bài tập:
KHẤT THỰC TRONG VĂN HÓA PHẬT GIÁO
(ALMS IN BUDDHIST CULTURE)
(Học phần: Văn hóa Phật giáo Việt Nam)
Sinh viên thực hiện: Mai Thị Phương Mai
Lớp: 13CVHH
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh
Đà Nẵng, tháng 11/2016
MỞ ĐẦU:
TÓM TẮT:..................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU:......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu:..........................................................................................1
3. Lịch sử vấn đề:....................................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.......................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:..........................................................2
6. Bố cục bài làm:....................................................................................................3
NỘI DUNG:..................................................................................................................4
I. Vài nét về khất thực trong Phật Giáo:..................................................................4
1.1. “Khất thực” là gì?.........................................................................................4
1.2. Nguồn gốc của khất thực:..............................................................................4
II. Khất thực trong văn hóa Phật Giáo:.....................................................................7
2.1. Ý nghĩa của khất thực trong đời sống văn hóa Phật Giáo:.............................7
2.2. Quan niệm của Phật Giáo về khất thực:......................................................13
III.
Hiện trạng và cách duy trì khất thực trong Phật Giáo Việt Nam:....................17
3.1. Hiện trạng khất thực và “Giả danh khất thực” ở Việt Nam:........................17
3.2. Cách duy trì khất thực như một truyền thống văn hóa của Phật giáo:.........18
KẾT LUẬN:................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO:..........................................................................................21
TÓM TẮT:
Nếu ai đã một lần đến các nước theo truyền thống Phật giáo, hẳn sẽ nhìn thấy hình
ảnh các vị sư với chiếc y màu vàng đang đi khất thực vào buổi sáng sớm. Sẽ có bạn tự
hỏi tại sao họ lại đi khất thực và khất thực là gì?
Người ta hay gọi khất thực là cách các nhà sư đi “xin ăn” hay nhận bố thí từ người
khác.Là cách “cho và nhận” nôm na theo cách hiểu đơn giản của những người không
theo đạo Phật.Có nhiều các hiểu khác nhau về khất thực, và mỗi quốc gia lại có những
hình thức khất thực khác nhau, các khất sĩ vì thế cũng có những đặc trưng riêng.Thế
thì, điều gì làm nên sự khác biệt ấy, khất thực trong quan niệm của Phật Giáo như thế
nào và ý nghĩa của khất thực là gì?
Từ khóa : Khất thực, Khất sĩ, Đạo Phật, Phật Giáo, Văn hóa Phật Giáo, Tu hành,
…
Abstract:
If anyone has one to the traditionally Buddhist country, will surely see the monks
with the yellow jersey go begging morning. You will ask why they are begging for food
and alms is what?
People called alms is how the monks go "begging" or receive alms from others. As
a "give and take" as understood by those who simply do not follow Buddhism. There
are many different understandings of alms, and each country has its different forms of
begging, the mendicant therefore also have its own characteristics. So, what made the
difference was, begging in the conception of how Buddhism and the meaning of alms
is what?
Key words: Alms, seeking alms, Buddhism, Buddhist culture , Buddhist, ….
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Ở thành phố lớn sầm uất hay nông thôn vắng vẻ đôi khi chúng ta có thể bắt gặp
những vị tu hành, mặc áo vàng cầm bát đi. Nhiều người biết nôm na họ được gọi là
những nhà tu hành hoặc chỉ biết họ đang đi “xin ăn”. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều
lần, nhưng không thể hiểu được lí do gì các vị tu hành đó lại đi xin ăn và càng không
thể biết được tầm quan trong của nó trong Phật Giáo, và ý nghĩa to lớn của nó trong
cuộc sống. Chính vì điều đó tôi đã chọn đề tài “Khất thực trong văn hóa Phật Giáo”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Bài nghiên cứu sẽ giúp cho người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về “Khất thực” trong
đạo Phật. Hiểu được “Khất thực” là gì? Có từ bao giờ.Và Phật giáo có những quan
1
niệm như thế nào đối với “Khất thực” và người đi khất thực (Khất sĩ). Ý nghĩa to lớn
của Khất thực trong văn hóa Phật giáo.Việc nghiên cứu còn giúp cho những người
không theo Phật giáo nhìn nhận một cách đúng đắn về “Khất thực” từ đó có thêm kiến
thức về văn hóa Phật giáo.
3. Lịch sử vấn đề:
Hầu như chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề “khất thực trong văn hóa
Phật Giáo” hay vấn đề “khất sĩ” và “khất thực”. Chỉ có một số bài viết, bài báo của các
nhà tu hành, hay các Phật tử nói về vấn đề này như:
-
Bài viết “Vấn đề khất thực trong đạo Phật” và “Truyền thống Khất thực” của
nhóm các nhà tu hành trong ban Biên tập Thư viện Hoa Sen.
-
Bài viết “Ý Nghĩa Hạnh Trì-Bình Khất-Thực của Nhà Phật” của Nhóm Thiện
Tín Thị-Nghè, Sài-Gòn.
-
Bài viết “Khất thực trong đời sống văn hoá Phật giáo Đông Nam Á” của Phạm
Hoài Phong.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-
Đối tượng nghiên cứu:
Các nhà tu hành, khất sĩ và cả phật tử.
-
Phạm vi nghiên cứu:
Phật giáo toàn thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:
-
Phương pháp phân tích và tổng hợp:
Dựa trên những bài viết, nghiên cứu của người đi trước, từ đó tổng hợp và chắc
lọc thông tin cần thiết cho bài làm.
-
Phương pháp lịch sử:
Nghiên cứu dựa vào nguồn gốc, lịch sử hình thành của “khất thực”
-
Phương pháp quan sát:
Dựa vào những quan sát từ thực tiễn cuộc sống. Việc bắt gặp các nhà sư đi khất
thực. Từ đó hình dung vấn đề và đưa vào bài làm.
-
Phương pháp logic:
Tổng kết quan điểm, và đưa ra những luận điểm khoa học, logic.
2
6. Bố cục bài làm:
Bài làm có các phần:
Tóm tắt
Đặt vấn đề ( Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu )
Giải quyết vấn đề ( Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu)
Kết quá nghiên cứu:
Là Nội dung chính gồm các phần:
Chương I: Vài nét về khất thực trong Phật Giáo:
1.1 “Khất thực” là gì?
1.2 Nguồn gốc của “Khất thực”
Chương II: Khất thực trong văn hóa Phật Giáo:
2.2 Ý nghĩa của khất thực trong đời sống văn hóa Phật Giáo
2.3 Quan niệm của Phật Giáo về khất thực
Chương III: Hiện trạng và cách duy trì khất thực trong Phật Giáo Việt Nam:
3.1.Hiện trạng khất thực và “Giả danh khất thực” ở Việt Nam
3.2.Cách duy trì khất thực như một truyền thống văn hóa của Phật giáo
Kết luận:
Tài liệu tham khảo:
3
NỘI DUNG:
I. Vài nét về khất thực trong Phật Giáo:
I.1. “Khất thực” là gì?
Khất thực nghĩa gốc gọi là xin ăn.
Trong Phật giáo, khất thực là cách nuôi
thân chân chánh của người xuất gia.
Trì bình khất thực (ôm bát đi xin ăn) là
một trong rất nhiều hình thái tu tập của
người tu theo đạo Phật do Đức Giáo chủ
Thích Ca Mâu Ni khai sáng. Hai ngàn năm
trăm năm qua, truyền thống tu tập này vẫn
được duy trì và đã trở thành một bộ phận
góp phần thể hiện sắc thái đặc thù của Phật
giáo trên khắp năm châu.
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ
tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để
học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ
nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc Y và một cái bình
Bát.
Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật
thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm. Từ ban đầu,
họ không phải là những nhà tu khổ hạnh tự hành xác để sám hối, và không xem lối
sống đơn giản tự nó là cứu cánh mà chỉ là phương tiện để giải thoát những phiền toái
hàng ngày, hầu có thể tập trung toàn lực vào công việc quan trọng duy nhất là đạt giác
ngộ cho mình và giúp ích cho người.
Khất thực là một thuật ngữ Phật học mà nếu ta dịch nghĩa sẽ dễ bị hiểu lầm như là
‘xin ăn’ bình thường. Khất thực là một sinh hoạt thường nhật của tăng đoàn thời đức
Phật. Đó là một cách hành trì, một hạnh nguyện của các vị xuất gia theo Phật giáo nam
truyền (nguyên thủy). Khất thực là phương cách có thể đem lại nhiều lợi lạc thiết thực
cho vị khất sĩ cũng như Phật tử cúng dường; là cách truyền bá và duy trì Phật pháp
hiệu quả thông qua hình ảnh tăng đoàn hành khất. Tuy nhiên, những giá trị lợi lạc ấy
chỉ có thể đạt được khi pháp này được hành trì đúng mục đích.
I.2. Nguồn gốc của khất thực:
Lịch sử của Ấn Độ cổ đại thường ghi lại sự kiện bốn giai cấp tức là giai cấp tăng lữ
Bà la môn, giai cấp vua chúa, giai cấp thương gia địa chủ, và giai cấp hạ tiện Chiên đà
4
la, nhưng hiếm khi nói đến những Sa môn. Đó là những người tu hạnh không nhà, rày
đây mai đó, để thỏa mãn những khao khát về tâm linh, tìm kiếm câu trả lời tối hậu.
Điều này hàm ý rằng về mặt lịch sử thì trước khi có mặt những vị Sa môn đệ tử của
Sa môn Gotama (cũng là một Sa môn) thì những Sa môn ngoại giáo hay ngoại đạo
khác đã hiện diện và du hành, điểm xuyết cho bộ mặt sinh hoạt tín ngưỡng thời tiền
Phật giáo. Họ đến rồi đi, đi rồi đến những làng mạc thôn dã như Pàva, Kushinagara,
hay là những phố thị náo nhiệt xa hoa như Vương Xá, Kiều Tất La. Họ có mặt ở dọc
theo rặng Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ và vùng bình nguyên châu thổ sông Hằng. Trên con
đường của những kẻ sĩ không nhà cửa, không vợ con, tiền bạc đó thì pháp môn mà họ
sử dụng để nuôi thân tứ đại dĩ nhiên là “khất thực”.
(Đức Phật và đệ tử đi khất thực)
Chính Thái tử Sĩ Đạt Ta khi chưa thành tựu quả vị vô thượng đã gia nhập vào hàng
ngũ những kẻ sĩ không nhà này và dĩ nhiên là Ngài cũng đã sử dụng pháp môn khất
thực để giải quyết vấn đề cơm áo trong giai đoạn tìm phương pháp giải quyết chuyện
tử sinh. Chẳng những trong giai đoạn tìm kiếm chơn lý mà ngay cả sau khi sáng tỏ đạo
mầu thì Ngài cũng cho rằng khất thực là một pháp môn phương tiện chính để sinh
sống, và khẳng định nó là pháp môn truyền thống của chư Phật ba đời. Sau thời kinh
Chuyển Pháp Luân mà nội dung chủ yếu là giáo lý Tứ đế và Trung đạo thì tuyên ngôn
của Ngài dành cho bản thân và dành cho những Sa môn đệ tử đầu tiên là chủ trương
‘hoằng hóa chúng sinh’, nói nôm na là ‘mở đạo’: “Hãy ra đi, các Tỳ-khưu, đem lại sự
tốt đẹp cho nhiều người, đem hạnh phúc lại cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem
lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư thiên và nhơn loại. Mỗi người hãy đi một
ngả…”. Mà mở đạo theo kiểu cổ điển là phải du hành, không nhà cửa, không sự
nghiệp vợ con; mà du hành thì lại gắn liền với pháp môn khất thực. ‘Khất thực’, cũng
công việc này mà những người nghèo hèn đói khổ thì gọi là đi ăn xin hay đi ăn mày,
còn những vị Sa môn đệ tử của Sa môn Gotama thì gọi một cách kính trọng là ‘đi hóa
duyên’.
Thưở Ðức Phật trở về cố quốc, xứ Ca-bi-la-vệ, một buổi sáng nọ, Ðức Thế Tôn
cùng 1.250 vị Tỳ Khưu vào thành, tuần tự đi trì bình khất thực.
5
Ðức Tịnh Phạn Vương còn đương trong phòng rửa mặt, chải tóc, bà Da-Du-Ðà-La
vào tâu rằng: "Muôn tâu Phụ Vương, Thái Tử Sĩ Ðạt Ða đã trở về, nhưng còn mang
bát đi xin ăn dài theo đường". Ðức vua nghe qua rất bất bình, vội vàng quấn tóc, xốc
áo xuống lầu đến đón ngay trước mặt Ðức Thế Tôn. Ðang đi, Ðức Phật dừng lại, với
tướng hào quang minh, oai nghiêm, từ mẫn khác thường. Vua Tịnh Phạn trong lòng
bối rối, nửa mừng nửa ngại. Nhưng vì lòng tự tôn của hoàng tộc, Ðức Vua cung kính
bạch rằng: "Bạch hóa Ðức Thế Tôn, người trong hoàng gia luôn luôn sống trên trăm
họ, ngọc ngà, châu báu, vàng bạc thiếu chi, Trẫm lấy làm xấu hổ mà thấy Ðức Thế Tôn
đi hành khất mong nhận vật thí của dân gian để sống như vầy. Bạch hóa Ðức Thế Tôn
từ nay Trẫm xin Ðức Thế Tôn cùng Chư Tăng ngự an một chỗ trong hoàng cung, cho
Trẫm lo việc ăn uống hằng ngày, để Trẫm khỏi đau buồn tủi hổ".
Ðức Phật ôn tồn trả lời: "Kính thưa Phụ Vương, quả thật từ xưa, hàng vương tước
vẫn sống trong cung vàng điện ngọc, khô lân chả phụng thiếu chi. Nhưng đây là đời
sống của Phật, Như Lai hôm nay vẫn giữ hạnh tri bình khất thực theo Chư Phật trong
quá khứ. Phụ vương chớ nên e ngại, hạnh trì bình khất thực này có nhiều phúc báu lớn
lao cho tất cả bá tánh".
(Đức Phật Khất thực)
Sự tích tóm tắt hạnh trì bình khất thực của Ðức Phật mà Chư Tăng Phật Giáo Nam
Tông trên thế giới phải noi theo là thi hành đúng theo Pháp giáo của Ðức Phật Tổ
Thích Ca.
Hơn nữa, hạnh trì bình khất thực còn có nhiều ý nghĩa, lợi ích lẫn kẻ thí và người
thọ, nên Chư Tăng trong Phật Giáo không được phép bỏ qua.
Quan điểm của Đức Phật Thích Ca, theo sử sách ghi chép, là nếu con người muốn
tu tập đạt đến cứu cánh như mong muốn, trước hết cần phải dẹp bỏ lòng sân si ngã
mạn (sự nóng giận, ngu muội, tự tôn và khinh thường kẻ khác), mà cách thức tốt nhất
để diệt trừ lòng tự tôn không gì hơn là chấp nhận làm kẻ đi ăn xin của mọi người. Tuy
vậy, giáo lý đạo Phật cũng cho rằng, bằng cách này, người tu sĩ Phật giáo cũng gián
tiếp tạo ruộng phước công đức cho người cúng dường vật phẩm được sống an lạc đời
này và hưởng nhiều sự vui sướng ở đời vị lai.
6
Quay về quá khứ cách nay hơn 25 thế kỷ, nơi xứ Ấn độ linh thiêng và đầy màu sắc
tôn giáo, người ta nhận thấy có một tăng đoàn hành khất đo đức Phật Thích Ca Mâu Ni
lãnh đạo. Hình ảnh đoàn hành khất thật trang nghiêm và thanh tịnh đã gây xúc động
không biết bao nhiêu con tim và tạo nên tình cảm kính quý vô vàn trong lòng xã hội từ
vua chúa cho đến thứ dân. Hình ảnh ấy biểu trưng cho sự giải thoát của những bậc đã
giải thoát mà đức Phật là vị khai sáng. Họ đã giải thoát khỏi sự ràng buộc bởi vật chất
và tình cảm thế gian và sống một đời sống tâm linh thanh thoát ngay trong cuộc đời
lắm sự trói buộc này. Có lẽ, không ai nghĩ rằng đức Phật khất thực vì cái ăn bởi vì ai
cũng biết rằng Ngài xuất thân từ địa vị thái tử của một nước giàu có. Vậy thì, mục đích
thực hành hạnh nguyện này, theo lời Phật đáp lại yêu cầu của vua cha, là theo truyền
thống của chư Phật. Là vị Phật, Ngài cũng phải kế thừa truyền thống ấy và cũng để
làm tấm gương mô phạm hướng dẫn tăng đoàn đệ tử cũng như giáo hóa chúng sanh.
II.Khất thực trong văn hóa Phật Giáo:
II.1.
Ý nghĩa của khất thực trong đời sống văn hóa Phật Giáo:
Hiện nay ở những nước mà Phật giáo Nam truyền được nâng lên vị trí quốc giáo thì
truyền thống khất thực được hành trì nghiêm chỉnh như là một thời khóa tu tập đầu
tiên không thể bỏ qua trong một ngày. Ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, từ 05 giờ
sáng hầu hết các nhà sư đều xuống đường đi khất thực cho cả bữa điểm tâm và bữa
ngọ trưa. Khoảng 06 giờ 30 là công việc khất thực kết thúc, các nhà sư lại tập trung
vào các việc khác như đi học, đi dạy, thuyết giảng, biên soạn, dịch thuật, lao tác, và
các công tác xã hội khác. Ở những nước mà truyền thống Phật giáo Bắc tông là chủ
đạo thì vẫn có một bộ phận Tăng Ni còn kính tin, giữ gìn và quý trọng truyền thống
này như ở Nhật Bản, Hàn Quốc mặc dù việc hành trì có phần hạn chế.
(Các tăng ni Pháp Viện Minh Đăng Quang đi khất thực)
7
Ở Việt Nam chúng ta, trong thời kỳ khởi thủy của đạo Phật Khất sĩ vào những thập
niên 40, 50, đạo Phật Khất sĩ Việt Nam cũng vẫn đã thể hiện và hành trì nghiêm túc
pháp môn khất thực và chính pháp môn này đã giúp các nhà sư Khất sĩ trên bước
đường du hóa trong thời kỳ mở đạo, đẩy mạnh được bánh xe Chánh pháp vào những
địa phương mà trước đó Chánh pháp là một điều rất là xa lạ và mơ hồ. Đạo Phật khất
Sĩ (tên gọi đầu tiên sử dụng từ thời kỳ lập đạo đến năm 1982) là thành viên của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam với tên gọi mới là Hệ phái Khất sĩ còn kết hợp việc khất thực
với việc ăn chay. Và việc này đã tạo nên bản sắc riêng của ‘Hệ Phái Khất Sĩ Việt
Nam’.
Đức Tôn sư Minh Đăng Quang, vị Tổ sư khai sáng ra dòng truyền thừa Khất sĩ Việt
Nam đã nâng việc khất thực lên làm một nguyên lý chung cho tất cả mọi người: Ai
cũng phải xin và cho. Ai cũng phải học và dạy vì không ai tự một mình mình mà có
thể sống được, “lẽ xin là chơn lý của vũ trụ, mà chúng sanh, kẻ thì xin vật chất để nuôi
thân, người thì xin các pháp để nuôi trí, ai ai cũng đều là kẻ xin cả thảy” . Ngài đã
phân tích việc ‘xin’ ra làm nhiều phương thức ‘xin’ như dùng thế lực để ‘xin’, dùng
mánh lới để ‘xin’, gian lận để ‘xin’, cướp giật để ‘xin’… trong đó cái xin tốt đẹp nhất
là cái xin của người Khất sĩ chân chính. Người cho và kẻ thọ nhận đều được lợi lạc,
phước báu, an vui, với tinh thần tự nguyện.
Trong việc nối truyền Chánh pháp, pháp môn khất thực được Ngài nâng lên thành
Chánh đạo thứ năm trong Tám đạo của Bát chánh đạo hay còn gọi là Bát Thánh đạo.
Đó là Chánh mạng đạo: nuôi mạng một cách chơn chánh. Theo Ngài, một tu sĩ Phật
giáo dùng các cách nuôi mạng khác như xem tướng số, xăm quẻ, chiêm tinh, bùa chú,
thư tôm, ếm đối (thời đó rất thịnh hành) đều thuộc về tà mạng đạo, đang thực hành tà
mạng, tức là đang thực hành các phương tiện để mưu sinh không chơn chánh.
Trong công phu hàm dưỡng ngang qua việc tu tập với một chiều kích sâu xa tinh tế
hơn thì việc ‘khất thực’ được hướng đến sự cẩn trọng và tỉnh giác, và đẩy lùi sự khinh
suất, thờ ơ. Việc khất thực trong phương diện này nuôi dưỡng một cách sống cẩn trọng
tối đa sợ làm tổn thương đến môi trường mà mình đang sống, nói cách khác là làm cho
bản thân mình hòa nhập thuận thảo với môi trường chung quanh. Dù rằng ‘kẻ cho’
không phải là con người mà là thiên nhiên thì người Khất sĩ cũng phải chắp tay hỏi xin
trước khi thọ nhận: ‘uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất, ăn hỏi xin lá trái, ở hóc
hang’ .Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày nay, thời đại mà xu hướng sản
xuất và hưởng thụ vật chất chi phối rất mạnh khiến nhịp sống càng lúc càng nhanh và
phong cách sống dễ sa vào tình trạng hấp tấp, vội vàng và hời hợt.
Khất thực có nhiều ý nghĩa, lợi ích lẫn kẻ thí và người thọ, nên Chư Tăng trong Phật
Giáo không được phép bỏ qua. Khất thực có những ý nghĩa như dưới đây:
Diệt tánh tự cao ngã mạn:
Khi đã thế phát, ly gia cắt ái, nguyện xuất gia làm Tăng đồ, tức là được sanh vào
dòng Phật, dù trước kia là vua, quan nhà tướng, phù hộ, giàu sang quyền quí đến đâu,
8
nay đã xuất gia rồi, có Tam y, quả bát là món cần thiết cho sự sống hằng ngày, để khỏi
bận tâm lo sắm vật thực. Hằng ngày mang bát xin ăn, đi từ nhà này sang nhà khác,
không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo chủng tộc. Ðã là kẻ ăn xin, tự nhận mình gởi sự
sống nơi kẻ khác, tùy lòng bố thí, dở, ngon, nhiều, ít, mặn, lạt cũng vui lòng nhận.
Tánh tự cao, ngã mạn của mình đương nhiên bị mài dũa dưới cấp hạ đẳng bần dân là
một kẻ ăn xin. Nếu gặp phải kẻ chê bai, chỉ trích, nhà sư cũng cam chịu với lòng nhẫn
nại và thứ tha cho người kém sự hiểu biết. Nhờ đó mà lòng sân nộ, tự ái, không có cơ
phát khởi.
Bình thản chịu đựng mọi lời dèm pha nhẫn nại với nắng chan, đá cứng, nhà sư đem cái
thân Như Lai tướng ra gợi ý cho những người có lòng bác-ái và nhân từ, họ suy nghĩ
đến nền đạo-đức của nhà Phật mà phát tâm thương xót, thể hiện bằng cách bố thí, rồi
tìm hiểu giáo lý Ðạo Phật thêm.
Giản dị trong sự sống hàng ngày:
Nhà sư đi trì bình khất thực, không còn phải chịu theo vị giác của miệng lưỡi nữa,
không bị sự thèm ăn làm chủ. Thế thường, vì sự thèm ăn mà người đời phải nhọc nhằn,
cực khổ và gây nên tội. Nhà sư chỉ cần ăn lấy no để cho cơ thể khỏi bịnh đói hoành
hành, hầu rảnh tâm tu hành học tập. như thế, món ăn chỉ là thuốc trừ bệnh đói thôi.
Những khi đau ốm khó chịu, vì muốn lành mạnh mà ta phải uống thuốc. Dù chua, hôi,
cay, đắng đến đâu ta cũng phải uống, vì cần yếu là được mạnh lành. Sự ăn uống của
nhà sư cũng như thế ấy, dù mặn, lạt, dở, ngon cũng phải ăn, phải nuốt cho xong.
Nhà sư nghĩ rằng: vật thực này chỉ là nguyên chất của đất, nước, gió, lửa, ta phải
đem nhập vào thân thể để nuôi dưỡng xác thân, đất, nước, gió, lửa này cho nó đầy đủ,
để khỏi phải yếu kém mà sanh bịnh hoạn, khó chịu, đặng ta nhờ nó mà tu hành theo
Phạm Hạnh. Vì thế nên ai có món ăn chi, thì nhà sư ăn nấy, không thể đòi hỏi theo ý
mình hay cố chấp, món chay, món mặn. Hơn nữa, nếu nhà sư không giản-dị trong thức
ăn, không làm chủ vị giác được thì còn bao nhiêu việc thèm thuồng ham muốn khác,
nó sẽ sai đòi hỏi, rồi phải chịu theo tức là làm nô-lệ nó, thì nó sẽ dẫn dắt ta đi dần vào
tội lỗi. Vì thế nên nhà sư phải làm chủ vị giác là trận tuyến đầu tiên mà nhà sư phải
quyết thắng, mới mong tiến bước trên đường đạo pháp.
Trực tiếp thọ ân xã hội:
Chúng ta sống trong trần thế không thể cô độc được. Ta phải chung sống với xã-hội
loài người, quần tụ nương tựa cùng nhau. Thử nghĩ, một người bị đắm thuyền trôi giạt
vào một hoang đảo, hay một người đi lạc vào rừng sâu, sự sống cô độc sẽ gặp bao
nhiêu điều khó khăn bất tiện. Từ việc ăn, ở, đến việc bảo toàn sinh mạng, sức khoẻ,
làm sao châu đáo được. Vì thế nên loài người phải sống tập thể để có giúp đỡ, đổi chát
lẫn nhau. Chúng ta thấy đồng bào miền sơn-cước người Thượng, ít hiểu biết về văn
hóa, trí khôn còn thấp kém, mà còn biết sống chung với nhau từng xóm, từng sóc. Khi
có điều chi không vừa ý, thì dời đi nơi khác và cũng cùng đi hết cả xóm, cả sóc. Ðến
loài chim, loài ong, loài kiến v.v... cũng sống hợp bầy cùng nhau. Thế thì sự liên-quan
9
mật thiết giữa ta và xã hội loài người thật rất quan trọng cho đời sống. Từ bộ lạc tiến
lên thôn ấp, quốc gia, cũng không ngoài điều quan yếu ấy. Có nhiều người vì không để
ý đến điều đó, nên dù sống giữa đô thị mà cũng không cảm thông sự quan hệ ấy, ỷ
mình có tiền của, có quyền hành là có tất cả, muốn chi được nấy không cần nghĩ đến ai
khác.
Là Phật Tử, trong bốn trọng ân, có ân xã hội là một mà chúng ta phải ghi nhớ.
Hạnh đi trì bình khất thực hằng ngày nhà Sư thọ vật thí của bá tánh, nhờ đó mà
nuôi sống một cách chơn chánh, giản dị, nhà Sư được sự nhắc nhở rõ rệt hằng ngày ý
nghĩa ơn xã hội. Rồi tự xét mình mà siêng năng, tu học, giữ gìn tịnh hạnh, để duy trì
đạo đức hầu góp phần xây dựng hạnh phúc cho xã hội, phải làm những gì để khỏi phải
phạm là kẻ vong ân xã hội.
Khước bịnh nhờ vận động cơ thể:
Loài người là một trong các loài động vật. Nhờ có sự thay đổi điều hòa bốn oai
nghi mà thân thể được khoẻ mạnh. Hàng xuất gia rất cần vận động cơ thể, vì không
còn làm việc như ngưòi thường thế trong việc sinh sống hằng ngày nữa. Nếu không có
hạnh trì bình khất thực thì hàng xuất gia ít có việc chi vận động toàn cơ thể. Nhờ đi bộ,
đi trì bình, mà thân thể được khoan khoái, kiện khang. Nhứt là ban mai, không khí
trong lành, nắng sáng không gay gắt, đi trì bình khất thực 1, 2 giờ đồng hồ cảm thấy
khoẻ-khoắn, vui tươi. Nhờ đó mà tinh-thần sản khoái và ít đau ốm.
Tạo cơ hội cho bá tánh làm phước:
Phần đông ai ai cũng bận việc công, tư. Người giàu cũng như người nghèo, quan
cũng như dân.Vì thế cho nên không rảnh rang đi chùa, làm phước, nhứt là ngưòi
nghèo, hay tự ti mặc cảm, nghĩ tủi phận bần hành, tiền của chẳng dư, y phục không tốt
đẹp, không có thì giờ rảnh rỗi và không có lễ vật xứng đáng như mọi người lại càng
không nghĩ đến việc đi chùa; ít nghĩ đến việc làm phước. Lại cũng có đông người chưa
hiểu rõ lợi ích của sự bố thí, làm phưóc nữa. Nhà Sư có thì giờ, có bổn phận đi trì bình
khất-thục để cho bá tánh có cơ-hội làm phước dễ dàng và khỏi mất thì giờ. Nếu nhà sư
không đi trì bình, cứ ở mãi tại chùa thì chỉ có những người giàu có, dư dả đến chùa
dâng cúng, còn những người nghèo khó không có cơ duyên làm phước.
Vật để bát cho nhà sư không cần nhiều, ít mà cần nhứt là thí chủ hoan hỷ với vật
thực mà tự tay mình để bát cho nhà sư. Một trái chuối, một cái bánh, một chút muối,
đường thí chủ vui thích với sự làm phước của mình, tức là người ấy đã gieo duyên
lành vào phước điền của Phật Giáo. Thí chủ được dịp bố thí, dù là ít ỏi, nhưng việc
làm đơn giản này nó có phước báu vô lượng và sẽ mở đường cho việc tu hành giải
thoát sau này.
Vì thế, nhà sư còn sức khoẻ, có thì giờ, phải đi tri bình khất thực để tạo cơ hội cho
bá tánh dễ dàng gieo trồng thiện duyên trong Phật giáo.
Giữ gìn tịnh hạnh để trở nên phước điền:
10
Bố thí cho kẻ bần nhơn, ăn xin thường thế còn có phước thay, huống là bố thí cho
nhà sư, nhứt là nhà sư có giới đức. Về phần nhà sư luôn luôn tự xét mình trong việc
giữ gìn giới luật trong sự tinh tấn tu hành, thân tâm không biếng nhác, phải làm như
thế nào cho đúng với bổn phận của bậc xuất gia, trở nên phước điền của chư Thiên và
nhơn loại. Nếu đi trì binh thọ vật thí của bá tánh mà giới hạnh không tinh nghiêm, tu
hành không chín chắn, thì không xứng đáng là phước điền, không sánh được với kẻ ăn
xin thường thế, mà Ðức Phật gọi là kẻ cướp đội lốt nhà sư, sẽ mang lấy bao nhiêu khổ
báo sau này. Nhờ hằng suy xét như thế, nhà sư càng thêm cố gắng giữ gìn tịnh hạnh và
siêng năng tu học.
Rải tâm từ cho tất cả mọi người, tất cả chúng sanh:
Trước khi ra đi khỏi tịnh thất, nhà sư khởi niệm Tâm Từ, tức rải tư tưởng lành, rải
khắp chúng sanh, nhứt là trên bước đường sẽ trải qua. Khi ra đường, nhà sư phải thu
thúc lục căn, hướng tâm cầu nguyện cho bá tánh được hạnh phúc an vui, khỏi khổ,
khỏi bịnh tật ốm đau và không điều oan trái lẫn nhau.
Không phân biệt tôn giáo, giai cấp, nam nữ, lão ấu, nhà sư mở rộng lòng Từ với tất
cả, giữ tâm mềm mại, chan chứa tình thương, nhu hòa trong ngôn ngữ, cử chỉ. Khi
đứng trước nhà nào, nhà sư lại phải thu tâm quán tưởng thân, thọ, tâm pháp. Khi trở về
chỗ ngụ, nhà sư đi khoan thai, trang nghiêm bằng cách buộc tâm trong pháp niệm từng
bước đi một nhà sư không để tâm phóng túng, gìn giữ oai nghi, tế hạnh, biểu lộ Tăng
đồ nhà Phật khác hơn kẻ thế.
Truyền bá Phật giáo:
Ở Việt Nam có nhiều nơi đồng bào ta chưa hiểu rõ phước báu của sự để bát, chưa
biết hạnh trì bình của nhà sư, chưa hiểu giáo lý Nguyên Thủy của Ðạo Phật. Nhà sư đi
trì bình khất thực có dịp tiếp xúc với đồng bào để giải giáo lý đạo Phật, dù là vắn tắt,
đơn sơ, những rất hữu ích trong việc góp phần hoằng dương Phật Pháp.
Trước khi đi sâu vào sự học hỏi giáo lý Ðạo Phật, việc mở đường cho bá tánh bằng
nhiều phương tiện, mà hạnh trì bình khất thực là một. Vừa giúp ích cho người vừa lợi
cho mình, nhứt là sự thực hành giới luật trong Giáo-Pháp Phật Giáo Nguyên Thủy
Nam Tông. Hàng xuất gia trong Phật Giáo Nguyên Thủy Nam Tông không vì lý do gì
mà lẫn tránh việc đi trì bình khất thực trừ khi đau ốm và bận việc Phật sự.
Tóm lại đã là nhà sư xuất gia theo Chánh pháp của Ðức Phật Tổ Thích Ca, có tam
y, quả bát thì phải xử dụng cho đúng bổn phận mình, nhứt là noi theo gương Ðức Phật
đã xử dụng thời giờ trong buổi sáng. Một việc làm tuy đơn giản, nhưng bao hàm ý
nghĩa sâu xa là lợi mình, lợi người, hàng xuất gia không thể bỏ qua vậy.
Còn phần thí chủ sau khi tự tay mình để vật thực vào bát của nhà sư, làm mình có
phước rồi. Thí chủ phải chú nguyện hiến dâng phước báu này đến các bậc ân nhân đã
quá vãng, nhứt là ông bà, cha mẹ, cô bác, anh chị em và nguyện các điều lành khác tùy
lòng mong muốn.
11
Bố thí vật thực có 5 quả báo:
Ayu: sống lâu
Vanna: sắc đẹp.
Sukha: an vui.
Bala: sức mạnh
Panna: trí tuệ (thấy đời là khổ, thấy đạo là vui).
-
Sống lâu: Con người khi sự nuôi mạng được đầy đủ thưòng thường thì sức khoẻ
được phát triển đồng đều, sinh mạng được sống đúng với tuổi thọ.
Nếu ăn uống không đầy đủ, thiếu thốn thì sức lực suy kém sinh ra bịnh tật. Vì
thế bố thí vật thực cho nhà sư, thí chủ được quả báo sống lâu.
- Sắc đẹp: Khi con người đói khát thì thân hình mỏi mệt tiều tụy, tinh thần bạc
nhược, nếu thiếu ăn lâu ngày càng gầy ốm héo hon. Trái lại nếu có vật thực ăn
uống no đủ thì con người trở nên tươi sáng, mạnh khoẻ, do đó tăng thêm vẻ
đẹp, cái quả của sự bố thí vật thực sẽ đem lại cho thí chủ là sẽ được sắc đẹp.
- An vui: có no đủ mới có an vui, vì nếu thiếu thốn đói khát thì cơ thể suy yếu, do
đó tinh thần hao kém, như cây đèn thiếu dầu, tất nhiên ngọn đèn sẽ lu, yếu lần
lần, rồi tắt hẳn. con người cũng thế, thiếu ăn sẽ khô héo như cây khô nước thiếu
phân, nhờ có ăn uống đầy đủ thì tức nhiên sẽ phấn chấn an vui. Cái quả báo an
vui sau này sẽ đến cho thí chủ do sự bố thí vật thực hôm nay.
- Sức mạnh: vật thực hàng ngày ăn vào bồi đắp cho cơ thể được đầy đủ bù vào
những sự tiêu hao. Nếu thiếu ăn hay ăn đi một ngày thì cơ thể thiếu sức bồi bổ,
cho nên nhờ được ăn no đủ mà có chất bổ tăng thêm sức mạnh. Thí chủ bố thí
vật thực cho nhà sư đầy đủ là giúp thêm sức mạnh, thì tinh thần tráng kiện vững
mạnh nhờ đó mà giúp thêm nhà sư đủ năng lực để tu hành. Thí chủ sẽ được
phước báu sau này là có đầy đủ sức mạnh.
- Trí tuệ: Nhà sư dù thông minh siêng năng tu học đến đâu mà thiếu sức khoẻ,
gầy ốm, đau yếu thì không thể nào tươi tỉnh, sáng suốt được. Có được ăn uống
no đủ thân thể kiện khang, tinh thần phấn chấn nhờ đó mà hành đạo được, mới
phát sanh trí tuệ, nhận chân đời là khổ, đạo là vui, mới tinh tấn tu hành thêm
nữa để chuyển thành giác, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Bố thí vật thực sẽ được
quả báo trí tuệ, sau này sáng suốt dễ dàng phân biệt nẻo chánh đường tà, tu
hành tấn phát, tức là có trí tuệ vậy.
Mọi việc bố thí tùy của ít nhiều nhưng với tấm lòng hoan hỷ, vui thích, thí chủ có
được 5 quả báo kể trên để làm vốn cho bản thân mình trong các kiếp về sau. Dành
dụm tiền của, mua sắm ruộng vườn chỉ hưởng trong đời này, nếu khéo gìn giữ; còn
trong các kiếp về sau không đem theo được. Phước báu thí chủ đã bố thí vật thực hôm
nay là của dính theo mình trong ngày vị lai không sợ hư mất việc.
12
II.2.
Quan niệm của Phật Giáo về khất thực:
Đi khất thực còn gọi là đi bình bát hay trì bát.Chữ Bát có nghĩa là đồ dùng để chứa
đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người. Bình bát là loại bình được làm
bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rỉ
nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý…. Nếu dùng
bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của người xuất gia. Các vị đã phát tâm
xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp,
nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Ở các nước theo Nam Tông Phật giáo, chư
Tăng đi khất thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Bắc Tông Phật giáo thì
không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba
tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai
tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai.
Chuyến đi khất thực bao giờ cũng diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ
tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Các Tỳ kheo đi một mình hay từng nhóm, không
đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt
nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào
bình bát không. Các thí chủ chỉ cúng dường những thức ăn đã được nấu sẵn, không
cúng dường các vật liệu chưa làm thành món ăn, như cúng cơm chứ không cúng gạo,
cúng món rau xào chứ không cúng bó rau chưa nấu chín. Nếu chưa đủ dùng, chư vị
tiếp tục đi theo hàng dọc đến nhà bên cạnh nhưng không được quá bảy nhà. Chư vị
không được phép bỏ sót nhà nào, hoặc dành ưu tiên cho phố xá ở các thị trấn phồn
thịnh, các gia chủ giàu hay nghèo đều phải được tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng
phước duyên, cũng không muốn gây cảm tưởng là chư vị ham thích những khu phố
giàu có vì thức ăn ngon hơn.
Khất thực xong, các vị trở về tịnh xá để ăn trước khi mặt trời đứng bóng. Đây là bữa
ăn duy nhất trong ngày. Thông thường thức ăn được phân ra làm bốn phần: một phần
nhường lại cho các bạn đồng tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần san sẻ cho
người nghèo, một phần dành cho loại chúng sinh không phải là người nhưng sống
chung với người, và cuối cùng còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụng thức ăn các vị
Tỷ kheo xem như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu hành, ngon không ham,
dở không bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi đói khát thì thôi, không
được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau bữa ăn, các vị rửa bát, xếp
gọn các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây hay căn nhà trống, hay
tịnh thất ngồi thiền định như hành Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra.
13
(Đoàn khất thực gồm 15 nhà sư của phái Nam Tông tại Huế)
Hằng năm, chư Tăng ni an cư vào ba tháng mùa mưa. Tất cả trở về sống chung
trong các tịnh xá lớn. Trong thời gian này, chư Tăng không đi khất thực, đã có thiện
nam, tín nữ, đến tịnh xá “để bát” và lo tứ sự cúng dường. Cứ đến ngày lễ Bố-tát vào
ngày trăng tròn và ngày đầu trăng, chúng Tỳ kheo cùng sống trong một vùng phải tập
họp lại một chỗ gọi là giới trường để tụng đọc Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa. Chư Ni
thì có đại diện đến xin lãnh giới ở chư Tăng và trở về tịnh xá riêng của Ni để tụng đọc
Giới bổn Ni. Ngoài ba tháng an cư, chư Tăng được tung ra khắp các phương hướng, đi
đến các trú xứ khác nhau, trong các quốc độ, vừa khất thực để độ nhật, vừa thuyết
pháp độ sinh, và vừa nỗ lực tinh cần tiếp tục hành Thiền để đoạn trừ tham sân si.
Pháp Khất thực do Phật truyền cho các đệ tử xuất gia phù hợp với nguyên lý Trung
đạo, tức là tránh xa hai cực đoan: Thứ nhất là tránh xa sự sung sướng thái quá qua việc
ăn thực phẩm do người đời cúng dường để vào trong bình bát mà không dùng đũa
ngọc, chén ngà, bàn cao, ghế đẹp với thức ăn mỹ vị; và thứ hai là tránh xa sự khổ hạnh
thái quá qua chiếc bát đựng đồ ăn vừa đủ dùng, không giống như phái tu khổ hạnh
lượm trái cây, lượm đồ ăn dư thừa mà ăn.
Theo Kinh Phật, sự xin ăn của tu sĩ đem lại lợi ích cho mình và cho chúng sinh:
Đối với vị Tỳ kheo khất thực thì có năm điều lợi ích:
Tâm trí được rảnh rang, ít phiền não,
Không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai,
Đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn,
Đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy,
không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự
thâu trữ vật thực tiền của và
Có nhiều thì giờ tu hành.
14
Ngoài lợi ích cho riêng mình, vị Tỳ kheo khất thực còn mang lại ba điều lợi ích cho
chúng sinh như:
Tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho
họ,
Tạo cơ duyên giáo hoá chúng sinh
Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải.
Theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực vị khất sĩ nguyện rằng: “Nguyện cho
các vị Khất gia thảy đều được no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước
báu vô lượng. Như nay tôi được món ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu
tập thiện pháp, lợi ích cho thí chủ.”
Trong khi đi khất thực, vị khất sĩ giữ tâm bình đẳng: theo thứ tự nhà của dân chúng
mà xin ăn, không chỉ đến xin nơi nhà giầu, cũng không chỉ xin nơi nhà nghèo. Có lần
đức Phật quở Tôn gỉa Ca Diếp bỏ nhà giầu mà xin nhà nghèo, quở Tôn gỉa Tu Bồ Đề
bỏ nhà nghèo mà xin nhà giàu. Vì trước đó Tôn Giả Ca Diếp nghĩ rằng: “Người nghèo
thật đáng thương, ít phước, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại
càng khổ hơn, nên đến đó xin để nhờ đó họ bố thí cúng dường mà được phước về sau”.
Trái lại, Tôn giả Tu Bồ đề lại cho rằng: “Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng
phước lành thì đời sau lại nghèo khổ.” Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật
mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt, không bình đẳng. Khi đi vị
Khất sĩ không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, đi hết bảy nhà nếu
không ai cúng dường cũng phải trở về với bát không và không ăn ngày hôm đó. Khi đi
khất thực, vị khất sĩ cũng không được để ý xem mình được cái gì, và cũng không được
thỏa mãn cũng như bất mãn. Nếu một người đàn bà cúng dường đồ ăn, vị Khất sĩ
không được nói, nhìn hay quan sát người ấy đẹp hay xấu. Đồ ăn cúng dường cho Khất
sĩ không phải luôn luôn nhiều hay ngon lành, hay tinh khiết. Các chuyến đi khất thực
đôi lúc cũng có thể gây nên những xáo trộn tình cảm cho các Tỳ-kheo trẻ vì đa số thí
chủ là đàn bà con gái. Do đó, việc tự điều phục thân tâm phải được tăng cường là điều
rất cần thiết trong lúc khất thực, như đức Phật đã nhấn mạnh: “Chỉ khi nào thân tâm
được điều phục, thực hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất
thực”.
Hai mươi sáu phép đi khất thực của phái Khất sĩ:
1. Phép đi khất thực chỉ từ một tới hai người mà thôi trừ khi nào đến xứ lạ, một hai
ngày đầu đi chung cho biết đường sá, đi từ người cách khoảng hai thước.
2. Khi đi lấy cơm, hoặc đi trai tăng tại nhà cư sĩ thì được đi chung, đi một hàng một,
cách nhau 2 thước tây, ai lớn tuổi đạo đi trước, tập sự đi sau.
3. Tại tịnh xá có ban cư sĩ hộ pháp, hoặc có nhiều người xin cúng dường luân phiên
giáp 30 ngày trong mỗi tháng, thì Giáo hội nếu đông chia ra: phân nửa Tăng đi
khất thực, phân nửa Tăng nhận cúng dường trọn bữa ăn.
15
4. Tốt hơn là mỗi người hàng ngày đều phải đi bát, ban hộ pháp chỉ hộ thêm sau khi
đi về.
5. Khi đi khất thực nếu ai về không kịp ngọ, lỡ quá trưa thì phải độ nơi chỗ vắng,
gốc cây, xa đường lộ, phố xá, chợ đông. Phải tránh những chỗ dơ dáy bụi bặm,
cấu trược ồn ào, vì thế sẽ làm nhẹ thể pháp Phật.
6. Đi bát không được vô chợ, hoặc đứng phía góc chợ, hoặc chen lấn chỗ đám đông.
Nên phải đi vào trong xóm hoặc các đường lộ xa chợ.
7. Mỗi đường có thể đi ba ngày, đi xa không quá ba ngàn thước.
8. Bận đi phải đi luôn, bận về nếu thiếu thì đứng trước cửa từ nhà (ngoài đường, chớ
không được vào thềm), mỗi nhà đứng năm ba phút theo thứ tự.
9. Khi bát còn lưng, thì ôm quá tay trái gần trước bụng, lúc đầy rồi phải để vào túi,
phủ nắp lại, quảy phía tay mặt không nhận nữa.
10. Không nhận lãnh đồ vật để trong túi, ngoài bát, hoặc trên nắp bát.
11. Không được nhận tiền, gạo, không được nhận đồ ăn mặn, khi người đem đến
cúng, mình có thể hỏi thêm chay hay mặn, đó là gương dạy thiện cho người.
12. Không được đi vào nhà ai, khi đi khất thực. Nếu phải đi viếng ai, hoặc có việc
của Giáo hội sai, thì đi lại ngay nhà người ta trước, bát mang chớ không ôm, bận
về mới ôm ra đi xin mà trở về.
13. Không được đứng lại uống nước, hay đại tiểu khi đi khất thực.
14. Bát nếu ôm trần thì được nhận, bát mang trong túi cấm thâu nhận.
15. Không được ngó mặt thí chủ, hoặc nói chuyện quá năm sáu câu.
16. Ai có hỏi đạo giữa đường thì kiếm gốc cây ngồi nói, hoặc hẹn sau khi độ cơm
rồi sẽ nói, hoặc mời người đến ngay chỗ ngụ, hoặc để ngày khác người thỉnh
cúng dường tại nhà có Tăng đông, có cư sĩ nhiều sẽ nói.
17. Khi đi khất thực, ai muốn cúng hoặc thí gì tự ý, bao giờ người hỏi sẽ chỉ dạy,
bằng không thì thôi, chớ chê khen bắt lỗi ép buộc người ta.
18. Nếu biết cơm có dính lỡ đồ ăn mặn, thì khi về phải cho người khác, chớ không
được dùng, bằng khi túng ngặt, phải gụt rửa sạch mới được dùng.
19. Khi đi khất thực phải trang nghiêm hòa huỡn ngó ngay xuống, ngó xa hai thước,
chớ ngó liếc hai bên, chớ tìm lóng nghe chuyện người nói, tâm phải niệm Phật.
20. Đừng vừa đi vừa nói chuyện, chỉ chỏ, muốn qua đường quẹo phải đứng lại xoay
mình, chớ đừng đi tắt xéo.
21. Mỗi khi có chuyện gì thì phải đứng lại, có ai cúng thì chỉ lại người sau, cho để
bát trước.
22. Ngày nào ai đi bát đường nào, phải sắp đặt trước tại chùa, chớ đừng ra đường
lộn xộn.
16
23. Khi đi khất thực, ngoài món ăn ra, không nhận món chi ai gởi hết. Hãy bảo
người ta đem lại các chùa kia. Ai nói gởi cúng Phật thì không được nhận, hãy
nói: “Tăng chỉ là người tu đi xin ăn mà thôi”.
24. Đồ ăn rồi nếu còn dư phải cho hết, không được để dành.
25. Đồ khất thực trước phải độ trước. Đồ cúng dường sau phải độ sau.
26. Khi đi khất thực không được chống gậy, mang giày, che dù… Bên trong mặc áo
chừa cánh tay mặt, đầu trần, chưn không; bên ngoài phải mặc vấn thượng y trùm
kín.
III.
Hiện trạng và cách duy trì khất thực trong Phật Giáo Việt Nam:
III.1.
Hiện trạng khất thực và “Giả danh khất thực” ở Việt Nam:
Trong vài mươi năm gần đây, trong đất nước Việt Nam xuất hiện nhiều vị tu sĩ
người Việt đi trì bình khất thực, tự xưng là tu Phật, nhưng không thi hành đúng theo
tinh thần giới luật của Ðức Phật giáo truyền. Ở Việt Nam, Phật giáo có 2 Tông: Bắc
Tông và Nam Tông.
Bắc Tông thì dùng Tam tạng chữ Tàu, chư Tăng mặc áo tràng màu dá, màu lam,
không có đi trì bình khất thực.
Nam Tông thì có Tam tạng Pali, chư Tăng mặc Y ca sa vàng và có bình bát là món
tùy thân độ nhựt. Y ca sa và bình bát đều y theo giới luật Phật, nghĩa là thể thức may Y
ca sa có kiểu mẫu đúng với ý nghĩa Punna Khetam, phước điền cho nhân loại. Bình bát
cũng có thể lệ tạo thành, chớ không phải tự ý riêng muốn dùng bình bát lớn, nhỏ hoặc
bằng chất gì cũng được.
Trong khi đi trì bình khất thực, từ cách mặc Y ca sa, mang bình bát, đến cách đi
đứng và thọ vật thực cũng phải làm đúng theo qui tắc của Phật luật đã ấn định.
Một điều đáng để ý là nhà sư trong Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam khi đi trì bình
thì không đi vào chỗ đông người, tránh chen lấn như trong chợ chẳng hạn, và không
nhận tiền bạc, gạo thóc. Vật thí, nếu bố thí ít thì vui thích thọ lãnh ít, nếu cho nhiều thì
chỉ thọ lãnh vừa đủ để sống qua ngày mạnh khoẻ tu hành lập công bồi đức. Nhà sư
trong Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam cũng không đi cổ động tiền bạc trong bá tánh
để về cất chùa hay làm việc nào khác. Nhà sư trong Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam
cũng không được yêu cầu cho thức ăn chay hay mặn, ai muốn bố thí món chi tùy ý, tùy
món ăn mình có. Như thế cái chánh nghĩa của hạnh trì bình khất thực mới được biểu
dương đúng với tinh thần giới luật của Ðức Phật và đem lại phước báu cho kẻ bố thí.
Ngày nay, tại một số quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam Tông như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và một phần của miền Nam Việt Nam chư
Tăng vẫn tiếp tục theo truyền thống khất thực này. Ở Trung Hoa, Triều Tiên và Tây
Tạng truyền thống khất thực dường như đã hoàn toàn biến mất. Dưới Triều nhà Đường
17
ở Trung Hoa, một tông phái đặc biệt, Luật Tông, được thành lập với mục đích làm
sống lại truyền thống khất thực xưa, và đem ra thực hành những giới luật nghiêm ngặt
của Luật Tạng. Dưới triều đại nhà Tống, các Thiền Sư thực hành khất thực và sự thực
hành này còn tồn tại nơi những Thiền Sư Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản, khất thực
không phải là nguồn sinh sống chính mà chỉ là một sự tập luyện kỷ luật cho những vị
sơ tu hay là một cách lạc quyên vào những dịp đặc biệt và cho những mục đích từ
thiện. Đối với Phật giáo phương Tây, vì hoàn cảnh xã hội không giống như hoàn cảnh
các quốc gia phương Đông, nên pháp Khất thực khó thực hiện. Đa số các Tăng ni
không đi khất thực nên các nhu cầu ăn uống đều do các Phật tử tại gia cúng dường.
Vấn nạn “giả danh khất thực”:
Riêng tại Việt Nam hình ảnh các vị tăng áo vàng đi khất thực không còn nhiều nữa
bởi nhiều lý do không hay cho lắm, trong đó có những vị Sư giả đi khất thực! Thật là
buồn khi chính Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải ra thông tư giới hạn nghiêm ngặt
việc khất thực để bảo vệ danh dự của tăng đoàn nhất là tăng đoàn của hệ phái Khất sĩ
và Phật giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam. Đối với hệ phái Khất sĩ và Nam tông, sau ngày
1.5.2001, nếu vị nào vẫn muốn giữ hạnh khất thực thì phải xin phép với giáo hội và sẽ
được giáo hội cấp gấy chứng nhận cùng với phù hiệu đàng hoàng. Các vị này phải
hành trì đúng chánh pháp, đúng luật qui định của giới khất sĩ, tức là chỉ đi khất thực từ
8 giờ đến 10 giờ sáng. Sau 10 giờ sáng là phải trở về trú xứ. Chỉ được thọ nhận vật
thực, không được nhận tiền bạc. Về hành trang chỉ gồm có một chiếc bình bát duy
nhất, không được mang theo túi hay đãy. Đối với Ni giới, khi đi khất thực, phải đi từ
hai vị trở lên, không được đi một mình riêng lẻ.
Nạn giả trang tu sĩ Phật giáo (giả sư) ngày càng biến tướng, không chỉ đi khất thực
phi pháp, mà còn mạo danh xây chùa tạo tượng, làm từ thiện…, đến các tư gia Phật tử
quyên góp, bán nhang, xem bói… kiếm tiền bằng việc giả sư, lợi dụng tình cảm tôn
giáo của người dân đối với đạo Phật.
Phần lớn những đối tượng này tạm trú ở địa phương và có giấy tờ hợp pháp. Tuy
nhiên các đối tượng lại đi khất thực ở địa bàn khác nên việc phát hiện và xử lý là rất
khó. Đối với những trường hợp này, phải bắt tận tay mới có cơ sở xử phạt, do đó rất
cần sự hợp tác thông tin từ phía người dân, cơ quan báo về hành tung hoạt động của sư
giả.
III.2.
giáo:
Cách duy trì khất thực như một truyền thống văn hóa của Phật
Ở Việt nam, hình ảnh chư tăng khất thực cũng rất phổ biến trong cộng đồng người
theo Phật giáo nam truyền ở các tỉnh tây nam bộ, Sài Gòn và một số tỉnh khác. Tuy
nhiên, do có hiện tượng thật giả lẫn lộn nên Giáo hội đã có biện pháp tạm ngưng sinh
hoạt khất thực ở Sài Gòn và một số tỉnh khác. Việc tạm ngưng là để tìm ra giải pháp và
18
quy định cụ thể cho việc hành trì hạnh nguyện thiêng liêng này nhưng cho đến nay vẫn
chưa thấy sự phục hoạt trở lại.
Đã có nhiều vị giảng sư Phật giáo có uy tín, vì nhìn thấy được giá trị lợi lạc của
hạnh khất thực, thấy được giá trị thiết thực của nhiệm vụ hoằng pháp qua hình ảnh
tăng đoàn khất thực, đã mạnh dạn đề nghị Giáo hội nên cho phép chư tăng khất thực
với những quy định cụ thể. Những vị ấy đã gợi ý là nên cấp thẻ cho những vị phát
nguyện hành trì hạnh khất thực và quy định thời gian nhất định, cũng như là phải khất
thực thành từng đoàn. Như thế, những vị sư giả sẽ dễ bị phát hiện và việc khất thực
không làm ảnh hưởng xấu đến Phật giáo. Thiết nghĩ, những đề xuất trên có tính khả thi
và mong rằng Giáo hội sẽ sớm ban hành hướng dẫn cụ thể cho những hành giả tu tập
theo truyền thống này. Có lẽ, đây cũng là mong mỏi chung của những người con Phật
mong muốn nhìn thấy hình ảnh truyền thống có ý nghĩa của Phật giáo được duy trì.
Trong khi chờ đợi, thiết nghĩ, những vị sư bên tăng đoàn nam truyền và những vị
phát nguyện hành trì hạnh nguyện này nên có những đề xuất và có chương trình cụ thể
để trình Giáo hội xin phép được tiếp tục hành trì. Như vậy, việc phục hoạt sẽ sớm trở
thành hiện thực hơn là chúng ta cứ trông chờ từ Giáo hội trong khi Giáo hội có rất
nhiều việc phải giải quyết. Điều đó cũng thể hiện ý chí của những hành giả Phật giáo
không khuất phục trước những khó khăn để vượt qua những thách thức mà Phật giáo
đối mặt cũng như góp phần phổ biến Phật giáo trong nhân gian. Đó là cách hành xử
tích cực hơn nhiều so với sự thất thủ, lùi bước an toàn mỗi khi có những khó khăn hay
thử thách xảy đến.
Trên tinh thần hoằng pháp về văn hóa tâm linh, hình ảnh tăng đoàn khất thực hôm
nay sẽ tạo nên bức tranh sinh động về một hình ảnh tăng đoàn thời đức Phật, tạo nên
một nét văn hóa Phật giáo truyền thống. Song song với các hình thức tổ chức lễ hội
Phật giáo, nên chăng chúng ta cũng tổ chức ít nhất mỗi năm 2 lần khất thực tập thể
như tăng đoàn thời đức Phật vào tuần lễ Phật đản và mùa Vu lan. Sẽ thật có ý nghĩa về
giá trị văn hóa nếu Phật giáo Việt nam thực hiện được điều này trong thời gian sắp tới.
Nói tóm lại, vì nhu cầu tu học, nên vấn đề ăn uống cần phải được giản dị, thực
phẩm phải được xem như là dược thực, vì thế Tăng đoàn thời Đức Phật phải đi khất
thực. Khất thực là chính sách thực hành giáo pháp, là truyền thống của chư Phật. Các
thầy Tỳ kheo phải giữ tâm bình đẳng mà đi khất thực từng nhà, không phân biệt giầu
nghèo sang hèn để tạo cho đủ mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ duyên thực hành hạnh
bố thí cầu phước, nhân dịp đó quý thầy nói pháp khuyên dạy mọi người tu hành. Khi
đi không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, luôn điều phục thân tâm
trong chánh niệm, đi theo thứ lớp: Nếu hàng Phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo
thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thí chủ thỉnh mình. Còn khất thực phải theo thứ lớp. Ai
cho gì ăn nấy, không được phân biệt thức ăn tốt xấu, ngon dở, chay mặn, không được
qui định người thí chủ phải cúng dường như thế nào, mà là tùy điều kiện khả năng và
phát tâm của thí chủ. Đó mới gọi là trí không phân biệt. Cũng vậy khi ăn thì phải trộn
các món ăn với nhau để không còn phân biệt món này với món khác, món ngon món
19
dở và không phân biệt mùi vị. Mục đích để không còn luyến ái mùi vị thơm ngon, mà
chỉ cần ăn để nuôi sống xác thân mà tu hành giải thoát.
KẾT LUẬN:
Trong hiện tình xã hội, ngày nay sự phân hóa giữa giàu và nghèo có khuynh hướng
gia tăng, mức sống giữa người giàu và người
nghèo ngày càng cách biệt; sự tranh giành chức
tước, địa vị và quyền lợi trở nên gay gắt; lối
sống se sua hưởng thụ trở thành một xu hướng
rất phổ biến thì hình ảnh của một người Khất sĩ
đầu trần chân không nghiêm trang từng bước
hóa duyên khất thực phải chăng là một đối trọng
giúp cho việc trung hòa những xu thế đáng lo
ngại đã nêu trên, và gợi ý một nếp sống, nếp
nghĩ trung đạo thăng bằng. Rất tiếc là hình ảnh
thiêng tịnh đó đang dần dần đi vào quá khứ.
Ngay chính những người con Phật xuất gia,
nhứt là Tăng Ni tân học Hệ phái Khất sĩ, có vị còn không tự mình thấu hiểu hết ý
nghĩa và giá trị của pháp môn khất thực để hành trì.
Trong khi đó, ngày nay có một số người không biết không hiểu gì về đạo Phật và
phương pháp chân truyền về hạnh y bát khất thực, sống lang thang không nghề nghiệp,
lại giả danh, mượn hình thức đi khất thực để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân, đi khất thực
không đúng pháp, không kể giờ giấc, gây ảnh hưởng, tiếng xấu trong xã hội và Đạo
pháp. Do vậy, từ bài viết hi vọng các cơ quan chức năng có liên quan:
1. Tạo điều kiện cho những Tăng Ni có tâm nguyện hành trì hạnh “khất thực” đúng
Chánh pháp được thực hiện trong khuôn khổ giới luật và pháp luật quy định.
2. Cần có một biện pháp tích cực, thích nghi nhằm ngăn chặn những người giả dạng
lợi dụng hình thức khất thực phi pháp.
Để khất thực trong văn hóa Phật giáo ở đúng vị trí của nó và giữ vững tầm quan
trọng trong cuộc sống.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nhóm Thiện Tín Thị Nghè, “Ý Nghĩa Hạnh Trì-Bình Khất-Thực của Nhà Phật”,
Mùa Kiết-hạ An cư 2515-1971, Sài Gòn, ấn tống.
/>2. Hạnh Chơn ,“Truyền Thống Khất Thực”
/>3. tài liệu đọc trong buổi lễ tưởng niệm Tổ sư tại miền Bắc VN,“Truyền thống
Khất thực (Đạo Phật Khất Sĩ)”.
/>4. Ban biên tập thư viện Hoa Sen,“Vấn Đề Khất Thực Trong Đạo Phật”.
/>5. Chùm ảnh: Các nhà sư đi khất thực ở Huế của Thiền viện Phước Sơn.
/>6. Hạnh Diệu, “Để nhận biết hiện tượng giả sư khất thực phi pháp”, Theo Giác
Ngộ.
21
THÔNG TIN SINH VIÊN:
Sinh viên
: Mai Thị Phương Mai
Địa chỉ
: 121 Phạm Như Xương, Phường Hòa Khánh Nam, Quận Liên
Chiểu, Thành phố Đà Nẵng.
Số điện thoại : 01687295160
Email
:
22