Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Các vị thần Ấn Đô giáo và sự tiếp biến trong văn hóa Chăm Pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 36 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

1


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
KHOA NGỮ VĂN

GIÁ
VĂN HÓA
VÀGIÁO
LỊCH SỬ
CÁCTRỊ
VỊ THẦN
ẤN ĐỘ
TRUYỀN
VIỆT
NAMPA
VÀ SỰCỦA
TIẾPTRUYỆN
BIẾN TRONG
VĂNKÌ
HÓA
CHĂM
(Bài tiểu luận kết thúc học phần)
(Bài tiểu luận kết thúc học phần)



Học phần: CÁC PHẠM TRÙ VĂN HÓA – VĂN HỌC
Học phần: VĂN HÓA CHĂM PA
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

Giảng viên phụ trách: TS. TRẦN THỊ MAI AN
Giảng viên phụ trách: PGS.TS NGUYỄN PHONG NAM
Mã phách
: …………………………
Mã phách
: …………………………

Đà Nẵng, tháng 06 năm 2016
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2016
MỤC LỤC
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

2


DẪN NHẬP:
1.

Lý do chọn đề tài:

2.

Mục đích nghiên cứu:

3.


Lịch sử vấn đề:

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

5.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:

6.

Bố cục bài làm:
NỘI DUNG:

1.

Tổng quan về Chăm Pa và văn hóa Chăm Pa:
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển:

1.2.

Chăm Pa hiện nay:

1.3.

Văn hóa Chăm Pa:


2.

Hệ thống các vị thần Ấn Độ giáo:

3.

Sự tiếp biến hình ảnh các vị thần Ấn Độ giáo trong văn hóa Chăm Pa:
3.1.

Trong văn hóa – tín ngưỡng:

3.2.

Trong nghệ thuật – kiến trúc:
KẾT LUẬN:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

3


DẪN NHẬP:

1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình nghiên cứu và học tập về văn hóa Chăm Pa, chúng ta đã được học
xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước cũng như văn hóa Chăm Pa,
được học về kiến trúc và nghệ thuật xây dựng tháp độc đáo của người Chăm Pa, cũng
như được thực tế công trình kiến trúc nổi tiếng của người Chăm.

Đồng thời kết hợp với những kiến thức sâu rộng đã học về Chăm Pa và Ấn Độ giáo
hay văn hóa Ấn Độ nói chung, ta thấy có một sự hòa quyện độc đáo, và tiếp biến mạnh
mẽ giữa văn hóa Chăm Pa và Ấn Độ giáo, đặc biệt được thể hiện ở hệ thống các vị thần ở
hai nền văn hóa này. Song các vị thần Ấn Độ giáo và sự tiếp biến trong văn hóa Chăm Pa
như thế nào, vốn chưa được tìm hiểu cặn kẽ, cũng như đi sâu vào nghiên cứu triển khai.
Đó chính là lý do chọn đề tài “Các vị thần Ấn Độ giáo và sự tiếp biến trong văn hóa
Chăm Pa”

2. Mục đích nghiên cứu:
Từ trước đến nay chưa có một phân tích cá nhân cụ thể nào về sự tiếp biến của hình ảnh
các vị thần Ấn Độ giáo trong văn hóa Chăm Pa, chẳng vì vậy mà vấn đề này ít nhiều
chưa được chú ý tới. Vì thế bài nghiên cứu này nhằm các mục đích:
-

Giúp người đọc hiểu cặn kẽ hơn về các vị thần Ấn Độ giáo và sự tiếp biến trong
văn hóa Chăm Pa.
Phân tích được hệ thống các vị thần Ấn Độ giáo.
Thấy được sự tiếp biến hình ảnh các vị thần trong văn hóa Chăm Pa.
Hiểu được nét đặc sắc của văn hóa Chăm Pa qua những phân tích về hình ảnh các
vị thần trong văn hóa.
Dựa vào những phân tích, để thấy rõ hơn những điểm đặc sắc độc đáo trong văn
hóa Chăm Pa.
Thấy được giá trị của việc tiếp biến trong việc hình thành nên bản sắc văn hóa
Chăm Pa.

3. Lịch sử vấn đề:
Căn cứ vào những tư liệu tìm được có thể thấy ít có nghiên cứu đi sâu vào đề tài này.
Hầu khắp các nghiên cứu đi tổng quát về ảnh hưởng của Ấn Độ giáo đến văn hóa Chăm
Pa, hay sự tiếp biến của Ấn Độ giáo với văn hóa Chăm Pa,…như:
-


“Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chăm Pa”, Ngô Thanh Mai, Bộ môn ngôn
ngữ - văn hóa Việt Nam.
“Chăm Pa và tôn giáo Ấn Độ”, Phan Quốc Anh

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

4


-

“Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến văn hóa Chăm Pa (Thế kỷ II- thế kỷ XV)”,
Lâm Thị Yến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các thành phần cấu thành văn hóa Chăm Pa như:
-

Tôn giáo
Tín ngưỡng
Nghệ thuật
Kiến trúc
….

Phạm vi nghiên cứu là hầu khắp các tỉnh thành có sự hiện diện của văn hóa và kiến
trúc Chăm. Cụ thể là các tỉnh thành từ Quảng Bình trở vào Nam, đặc biệt là các tỉnh :
Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận,..

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:

-

Phương pháp quan sát khoa học
Phương pháp điều tra
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp hệ thống:

6. Bố cục bài làm:
Bài làm chia làm 3 phần : Dẫn nhập, Nội dung , Kết luận.
Trong đó phần NỘI DUNG gồm:
1.Tổng quan về Chăm Pa và văn hóa Chăm Pa:
1.1.Lịch sử hình thành và phát triển
1.2.Chăm Pa hiện nay
1.3.Văn hóa Chăm Pa
2.Hệ thống các vị thần Ấn Độ giáo
3.Các vị thần Ấn Độ giáo và sự tiếp biến trong văn hóa Chăm Pa
3.1.Trong văn hóa – tín ngưỡng
3.2.Trong nghệ thuật – kiến trúc

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

5


NỘI DUNG:

1. Tổng quan về Chăm Pa và văn hóa Chăm Pa:
1.1.Lịch sử hình thành và phát triển:

( Bản đồ địa chính vương quốc Chăm Pa)


Lịch sử Chăm Pa, bao gồm các quốc gia Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm
Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ 192 và kết thúc
vào 1832. Trước thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến
với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận
Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này
được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ
1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các
chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:
• Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên

vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá;
• Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các

công trình bằng đá;
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

6


• Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn

bản khác liên quan còn lại.
Chăm Pa (Tiếng Phạn: चचच
चच, Chữ Hán: चच, tiếng Chăm: Campa) là một quốc gia
cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực
của Chăm Pa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc
cho đến Bình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của
nước Lào ngày nay.

Qua một số danh xưng Lâm Ấp, Panduranga, Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền
Trung Việt Nam. Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Java đã
từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và
phong cách Mỹ Sơn A1 mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc
biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy ảnh hưởng
của Ấn giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa
xưa.
Chăm Pa hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức
ép của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc
Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn
lãnh thổ phía bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa bị chia nhỏ thành
các tiểu quốc, và tiếp tục sau đó dần dần bị các chúa Nguyễn thôn tính và đến năm
1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh
Mạng.
1.2.

Chăm Pa hiện nay:

Từ nhiều thế kỷ trước công nguyên, người Trung Hoa và người Ấn Độ đã vượt biển
đi buôn bán trao đổi với nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có vùng Đông Nam Á.
Vì vậy dấu tích của họ để lại khá rõ nét trong nhiều nền văn hóa ở khu vực này.
Trên cơ sở nền tảng là văn hóa Sa Huỳnh, vương quốc Chămpa những thế kỷ đầu
khi mới giành được độc lập cũng chịu khá nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa mà
chứng tích để lại là những đồng tiền Ngũ Thù thời Tây Hán (từ 206 trước công
nguyên đến năm 25 sau công nguyên), tiền Vương Mãng triều Tân từ năm 8 - 25 sau
công nguyên, sưu tập gương đồng tìm thấy ở khu vực miền Trung có niên đại thế kỷ I
– III, nhiều tượng Phật, mảnh gốm men ngọc, men màu, vũ khí sắt… trong một khung
niên đại khá dài. Tư liệu lịch sử còn ghi chép việc các vua Chămpa “xây cung điện
theo kiểu Trung Quốc, có những buồng những cột, cách đào hào đắp lũy để bao bọc
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH


7


lấy thành thị, cách đóng xe dùng trong trận mạc và nhiều loại vũ khí, dạy cho thợ làm
nhạc khí…”. Những đầu ngói ống trang trí mặt hề, động vật tìm thấy tại những di tích
thành cổ Chămpa được coi là có nguồn gốc từ văn hóa Hán.
Những yếu tố của văn hóa Ấn Độ hiện diện rất sớm trên địa bàn của vương quốc
Chămpa. Đó là những đồ trang sức và kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng mã não, thủy
tinh, đá ngọc trong các mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh. Trong các di tích thuộc văn
hóa Sa Huỳnh giai đoạn muộn chuyển sang văn hóa Chămpa sớm ở Trà Kiệu, còn tìm
thấy loại đồ gốm ở miền Đông Ấn Độ có niên đại từ thế kỷ III trước công nguyên đến
thế kỷ I sau công nguyên. Từ khi giành được độc lập thì những mối quan hệ giao lưu
kinh tế – văn hóa với Ấn Độ càng được tăng cường bằng phương thức khá hòa bình là
theo những đoàn thương gia và tu sĩ truyền đạo nên được cư dân bản địa dễ dàng tiếp
thu và chấp nhận. Vì vậy, ảnh hưởng nhiều mặt của văn minh Ấn Độ đã hầu như trở
thành chủ đạo trong vương quốc Chămpa.
Sử liệu chữ viết về vương quốc Chămpa có niên đại sớm nhất là tấm bia Võ Cạnh
(Nha Trang) được xác định niên đại thế kỷ III. Nhưng những chứng tích phong phú và
đa dạng, phản ánh khá toàn diện về vương quốc Chămpa thì thể hiện tập trung tại các
khu di tích đền tháp Chămpa.
Khu vực Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: hiện biết khoảng 30 di tích
văn hóa Chămpa, tập trung thành từng nhóm ở bờ nam sông Gianh tiêu biểu là thành
Cao Lao Hạ, những minh văn trong hang động Phong Nha ở Quảng Bình. Nhóm ven
sông Thạch Hãn của đồng bằng Quảng Trị có Cổ thành, tháp Hà Trung. Nhóm ở đồng
bằng Thừa Thiên Huế: thành Lồi, tháp Liễu Cốc, tháp Vân Trạch Hòa, tháp Mỹ
Khánh…
Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi: đây được xem là vùng trung tâm của vương
quốc Chămpa. Tại đây tập trung những di tích quan trọng và lớn nhất, với nhiều loại
hình di tích nhất. Đó là khu di tích Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh

Quảng Nam), ở đây còn dấu tích của thành cổ, nơi cư trú… được các nhà nghiên cứu
cho rằng đây là kinh thành Sư Tử Sinhapura. Xung quanh Trà Kiệu gần đây đã phát
hiện và khai quật nhiều di chỉ cư trú hay phế tích kiến trúc như Gò Cấm, Chùa Vua,
Triền Trang, Chiêm Sơn Đông, Chiêm Sơn Tây. Thánh địa Mỹ Sơn – trung tâm tôn
giáo lớn nhất của người Chăm – là một khu đền tháp tập trung trong một thung lũng,
cách Trà Kiệu khoảng 20km về phía Tây. Hiện nay khu di tích này còn khoảng 70 đền
tháp khá nguyên vẹn và rất nhiều đền tháp bị hư hỏng do thời gian và chiến tranh.
Trung tâm Phật giáo Đồng Dương và là kinh thành Indrapura của vương quốc
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

8


Chămpa trong thế kỷ IX – X. Tại đây còn dấu tích tường thành, đền tháp, di tích cư
trú, nhiều tượng Phật giáo bằng đồng nổi tiếng đã được phát hiện tại đây.
Ngoài các trung tâm trên, khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi còn có các di tích:
Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An (Quảng Nam), thành Châu Sa, di tích Chánh Lộ,
Khánh Vân, An Tập, Cổ Lũy… phần lớn còn lại là phế tích (Quảng Ngãi).
Thế kỉ XVIII, Cham từ Pandurangga đi vào Nam trụ lại Tây Ninh và An Giang; sau
đó ít lâu do bên Campuchia có biến, một số từ Campuchia trở lại An Giang. Giữa thế
kỉ XX, một bộ phận vào Sài Gòn, để nửa cuối thế kỉ XX, hàng trăm gia đình ra Long
Khánh sinh sống. Người Cham ở các tỉnh này theo Islam, tức là Hồi giáo chính thống,
với khoảng 50.000 tín đồ.
Nhưng có thể nói người Cham ở Việt Nam tập trung nhiều nhất ở Ninh Thuận và
Bình Thuận với số dân 110.000 người. Đại đa số người Cham ở Ninh Thuận và Bình
Thuận theo hai tôn giáo chính là Ấn giáo và Hồi giáo Bà-ni. Đông nhất là cộng đồng
Cham Ấn giáo còn gọi là Cham Ahier với 68.000 người; Hồi giáo Bà-ni là Islam được
Cham hóa để trở thành thứ tôn giáo dân tộc rất độc đáo với 38.000 tín đồ; số ít còn lại
theo Hồi giáo chính thống được truyền vào Ninh Thuận vào thập niên 60 cùng vài tôn
giáo mới du nhập gần đây như Công giáo, Tin Lành.

Hiện nay, dân tộc thiểu số Chăm có khoảng 100.000 dân, xếp thứ 17 trong 54 thành
phần tộc người nước ta; sống tập trung đông nhất ở 3 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và
An Giang. Ngoài ra họ còn cư trú một phần ở các tỉnh từ Nam Trung Bộ đến Ðông và
Tây Nam Bộ. Hiện nay người Chăm còn sống rải rác ở nhiều nước khác như
Campuchia, Thái Lan, Malaysia…
1.3.

Văn hóa Chăm Pa:

Những nét đặc sắc của văn hoá Chăm thể hiện từ tiếng nói, chữ viết, từ nghệ thuật
và kỹ thuật tạo dáng của các ngôi tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, đến các sản
phẩm vải thêu, dệt hoa văn, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng phục vụ cho
cuộc sống hàng ngày. Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây
cùng với sự duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh
thánh Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử
dụng loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì
sử dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống.
Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng bằng đất
nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào các đền tháp,
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

9


trong đó bức phù điêu Vũ nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác. Là một bộ phận
của nền văn hoá dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và
truyền thống lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính
phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn hoá, quá trình phát triển
của tộc người. Người ta còn thấy nhiều nét trạm trổ và các bức tượng bằng đá thể hiện
nếp sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian rất sinh động. Người Chăm luôn mang

trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền thống
luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho nhau từ bao đời
nay.

(Cụm tháp Hòa Lai nằm sát quốc lộ 1A, cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 15km về phía
Bắc)

Múa Chăm phong phú và độc đáo. Hầu như mỗi làng Chăm có một đội múa riêng.
Những điệu múa cổ xưa nhất thường được trình diễn trong các lễ hội. Các nghệ nhân
Chăm đã sáng tác thêm những điệu múa đặc sắc như múa chàm rông, múa đoa pụ (đội
bình nước trên đầu). Múa quạt là điệu múa phổ thông của người Chăm. Khi múa, các
vũ nữ dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những loại múa khác nhau. Múa bóng mang
tính tôn giáo và cũng rất phổ biến của người Chăm. Trong những nét đặc trưng của
múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. Dàn nhạc đệm cho múa thương gồm hai trống
ba-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. Nhìn chung, vũ điệu Chăm-pa nhằm phô diễn vẻ đẹp
của con người.

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

10


(Điệu múa Apsara)

Người Chăm có nhiều lễ hội trong năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ Pơk Băng
Yang, lễ Katê… Trong đó, lễ hội Katê là một trong những lễ hội lớn nhất của người
Chăm được tổ chức thường xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) tức là vào trung tuần
tháng 9 (âm lịch) và tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc và
ông bà tổ tiên.
Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy chồng, ai

cũng biết dệt vải. Những tấm khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo của sự đảm
đang tháo vát của các cô gái Chăm. Nghề dệt thổ cẩm đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo. Ðể
có một tấm chăn, các cô gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ sáng đến chiều tối
với sự nhịp nhàng, chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần một mối chỉ bị rối, mặt vải
sẽ không còn mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người Chăm khá phong phú, đáp ứng
rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của người Chăm. Vào dịp hội hè, lễ lạc, trai
gái Chăm còn trang sức bằng các thắt lưng do người Chăm tự dệt. Hầu như phần lớn
các sản phẩm vải của người Chăm không thể thiếu các loại hoa văn trang trí, nhất là
trên các y phục cổ truyền của các thiếu nữ. Nghề truyền thống khác của người Chăm
là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm Bầu Trúc duy nhất có nghề làm đồ gốm từ lâu đời.
Hầu như gia đình nào cũng làm, phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ chiếc lu đựng
nước, chiếc nồi đất, bộ khuôn đổ bánh xèo đến siêu sắc thuốc, chiếc cà om đều rất
dụng công với những hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản phẩm gốm Chăm còn được
trao đổi rộng rãi với nhiều vùng và nhiều tộc người khác nữa. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng ta thấy rằng người Chăm đã có một nền văn hoá thật phong phú về nội
dung, đa dạng về diện mạo. Nền văn hoá ấy đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực,
nhất là lĩnh vực kiến trúc; đó là kết quả của quá trình hoạt động có định hướng trong
một thời gian lịch sử lâu dài.
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

11


Tôn giáo Cham là tôn giáo mở. Nhập địa Champa vài thế kỉ và khẳng định vị thế
của mình vào thế kỉ 14, Islam xung đột với cộng đồng và tổ chức xã hội Cham Ấn
giáo kéo dài suốt hai thế kỉ, mãi đến thời Po Rome (1627-1651), tôn giáo này mới
được biến cải thành Hồi giáo Bà-ni.

(Nhà thờ Hồi giáo của người Chăm)


Ở đây năm cột trụ làm nên nền tảng đức tin Hồi giáo, là: Chahadah: đức tin không
có Chúa Trời nào khác ngoài Allah, Salat: cầu nguyện 5 lần một ngày, Zakat: bố thí,
Sawm: nhịn ăn tháng Ramadan, Hadj: hành hương thánh địa Mecca, đều không còn
được người Cham Bà-ni tuân thủ.
Người Cham Bà-ni bên cạnh đức tin vào Allah, họ còn thờ cả thần Mưa, Biển,
Núi… và cúng ông bà tổ tiên; họ không còn nhớ đến việc hành hương Mecca; còn
việc cầu nguyện mỗi ngày hay ăn chay vào tháng Chín và bố thí chỉ được thực hiện
vào mùa Ramưwan và chỉ dành cho giới tu sĩ; còn ở ngoài đời, người Cham Bà-ni
biến tháng chay tịnh thành ngày lễ: Bbơng Muk Kei, dân gian gọi là Ăn “tết” Bà-ni.
Cuối cùng, ảnh hưởng chế độ mẫu hệ khiến người Cham Bà-ni chú trọng lễ karơh
dành cho nữ hơn katat của nam; còn đám cưới hay đám tang thì hoàn toàn theo họ mẹ.
Với Islam là vậy, riêng với Cham Ấn giáo, người Cham Bà-ni có sự hòa hợp rất đặc
biệt. Ở đây, ông bà Cham đã tạo ra hệ phái Mưdwơn để phục vụ lễ bái cho cả đôi bên.
Trong vài lễ tục mang tính gia đình hay dòng tộc, người ta thấy cấp Acar vào làng
Cham Ấn giáo cúng tế. Khi có lễ nghi mang tính khu vực như Pakap Haluw Kraung,
giáo sĩ cả hai bên Cham Ấn giáo lẫn Cham Bà-ni cùng phối hợp thực hiện.
Dân tộc Cham là cư dân của vương quốc Champa cổ, nhưng không giống các dân
tộc thiểu số khác ở Việt Nam, đại đa số người Cham sống ở vùng đồng bằng theo từng
đơn vị palei (làng), sống xen cư và cộng cư với người Việt. Dù có bộ phận nhỏ buôn
bán lẻ hay làm công chức Nhà nước, người Cham làm ruộng nước là chính, đặc biệt
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

12


người Cham ở Ninh Thuận hiện tồn tại ba làng nghề nổi tiếng, là: làng gốm Bàu Trúc,
làng thổ cẩm Chakleng và làng Phước Nhơn chuyên nghề thuốc nam.
Ngay từ thế kỉ thứ 4, dân tộc Cham đã có chữ viết. Đó là thứ chữ vay mượn từ Ấn
Độ qua nhiều biến thái để trở thành chữ Cham ngày nay, tiếng Cham gọi là Akhar
thrah. Người ta có thể tìm thấy các văn bản gồm văn học, lịch sử, truyền thuyết, các lễ

nghi tôn giáo và nhiều tư liệu giá trị khác được thể hiện bằng chữ viết này trên các
loại lá buông hay giấy bản.
Trước 1975, các bậc có chữ nghĩa trong xã hội Cham tìm đủ mọi cách viết, in
(ronéo) sách giáo khoa bằng Akhar thrah để phổ biến chữ ông bà vào các trường học
và trong dân. Đất nước thống nhất, Ban Biên soạn sách chữ Chăm thành lập năm 1978
chuyên biên soạn và theo dõi việc dạy và học chữ Cham ở các trường Tiểu học có
người Cham sinh sống.
Cộng đồng Cham sản sinh rất nhiều lễ hội, trong đó Rija Nưgar là lớn hơn cả. Đây
là lễ được tổ chức vào đầu năm Cham lịch (khoảng tháng 4 Dương lịch), mang ý
nghĩa tống khỏi làng cái xấu xa nhơ nhớp của năm cũ, đón cái tốt lành vào làng nhân
năm mới.
Lễ Rija Praung thực hiện từ 3-7 ngày đêm được xem là lễ trả nợ lớn nhất, là tập đại
thành các điệu múa, bài tụng ca cùng nghi thức liên quan. Lễ Tạ ơn hay Tẩy oan dù
thực hiện đơn sơ hơn, vẫn mang ý nghĩa lớn về mặt xã hội.
Sau cùng lễ hội Kate diễn ra vào đầu tháng Bảy Cham lịch được dân gian xem như
một thứ Tết của người Cham, ở đó hầu hết làng Cham tổ chức lên tháp dự vào cuộc
hành hương long trọng và nhiều màu sắc.
Kate, hành hương lên đất Tháp, con người Cham được nhận biết qua lối ăn mặc,
tiếng nói hay điệu múa. Thế nhưng nhắc đến Cham không thể không nói đến tháp
Chàm. Tháp Chàm cô độc, kiêu hãnh có mặt suốt dải đất miền Trung Việt Nam. Trong
đó Thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa – Lịch sử thế giới.

2. Hệ thống các vị thần Ấn Độ giáo:
2.1. Thần VISHNU (Đấng Bảo Hộ):

Vishnu (Visnu, Vi-sơ-nu) phiên âm Hán Việt là Tỳ Thấp Nô, là vị thần bảo hộ trong
Ấn Độ giáovà Bà la môn giáo.
Vishnu, Brahma và Shiva hợp thành bộ tam thần trong văn hóa Ấn Độ.Có hình ảnh
là vị thần với khuôn mặt người, 4 tay cầm 4 lệnh bài là cái tù và, cái vòng, cái búa và
cánh hoa sen tượng trưng cho bốn chất tạo nên vũ trụ; khi thì cưỡi chim thần Garuđa,

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

13


khi thì có dạng nửa người nửa chim, khi thì nằm trên mình con rắn Naga. Năm 1000
sau Công nguyên, người ta cho rằng các truyền thuyết về 10 hóa thân của Vishnu
được dựng lên.

(Thần Vishnu và 10 hóa thân của thần)

Mười hóa thân của thần Vishnu
-

Tên vị thần: Matsya. Hóa thân: Cá.

Truyền thuyết: Thuở xưa khi trái đất này còn bị che phủ bởi nước. Thần Vishnu đã
hiện thân làm một con cá để cứu Manu (người đầu tiên), gia đình ông ấy và Vedas.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện Noah Ark.
-

Tên vị thần: Kurma. Hóa thân: Rùa.

Truyền thuyết: Cũng vào thời nước dâng tràn ngập ấy, Vishnu hóa thân làm một
con rùa lớn để vớt lấy tất cả những bảo vật bị mất trong cơn nước lũ. Trong đó kể cả
nước cam lồ linh dược mà các vị thần thánh dùng để giữ sự trẻ đẹp của mình. Lúc ấy
có một vị thiên nữ Lakshmi giúp đặt ngọn núi (Kailash) lên lưng rùa thần Kuma, để
rùa có thể lặn sâu xuống lòng đại dương mà tìm bảo vật. Nó gặp rắn thần và rắn ấy
quấn mình quanh ngọn núi. Thiên nữ bèn làm biển nổi sóng lớn, đẩy dạt ngọn núi đi
và kéo theo cả rắn thần. Bấy giờ những chất cam lồ và linh dượt nổi lên mặt nước

cùng với các bảo vật. Sau đó thiên nữ Lakshmi trở thành vị phối ngẫu của thần
Vishnu.
-

Tên vị thần: Vahara. Hóa thân: Heo.

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

14


Truyền thuyết: Thần Vishnu lại hiện thân xuống để cứu trái đất khỏi cơn nước lũ,
do sự sai khiến của quỷ vương Hiranyaksa. Câu chuyện có lẽ bắt nguồn từ huyền
thoại của người Aryan về một con heo thần.
-

Tên vị thần: Narasimha. Hóa thân: nửa người nửa sư tử.

Truyền thuyết: Quỷ vương Hyranyakasjpu đã làm cho Phạm thiên phải hứa rằng,
hắn sẽ không bị giết, dù là ngày hay đêm, bởi trời, người hay thú vật. Kế đó hắn làm
cho tất cả mọi người kinh sợ. Tuy nhiên khi các vị trời hứa sẽ giúp đỡ trong việc tiêu
diệt quỷ vương, thần Vishnu lên tiếng từ một chiếc trụ trong cung điện của quỷ vào
lúc chạng vạng tối. Khi ấy không phải là ngày cũng chưa phải là đêm, trong hóa thân
nửa người nửa sư tử, Vishnu liền giết quỷ vương.
-

Tên vị thần: Vamana. Hóa thân: người lùn.

Truyền thuyết: Bali, một con quỷ khác đạt được những phép tắc thần biến rất ghê
sợ sau khi đã thực hành những pháp tu khổ hạnh. Để che chở cho thế giời này, thần

Vishnu hiện thân ra trước quỷ trong hình dạng của một người lùn và hỏi xin hắn một
ân huệ. Quỷ Bali đồng ý và Vishnu hỏi xin một khu đất lớn bằng ba bước dài. Quỷ
hứa cho và khi ấy thần Vishnu bèn hiện thân thật khổng lồ, bước ba bước che khắp cả
mặt đất. Không còn lại gì hết ngoại trừ địa ngục cho quỷ.
-

Tên vị thần: Parasurama. Hóa thân: Bà - La - Môn.

Truyền thuyết: Vishnu hiện thân người, làm con của một Bà la môn có tên là
Jamadagni. Khi cha bị tên ác vương cướp hết của cải, Parasumara bèn đi giết tên vua
gian ác này. Kế đó người con của vua lên ngôi và giết lại Jamadagni để trả thù cha
mình. Parasumara bèn trả thù lại giết hết tất cả người nam trong thành.
-

Tên vị thần: Rama. Hóa thân: Thái tử.

Truyền thuyết: Vishnu hóa thân làm một vị thái tử để cứu thế giới này ra khỏi sự
đen tối của quỷ vương Ravana. Câu chuyện này được kể trong Ramayana, qua đó
người ta thấy được lòng sùng tín và sự chịu đựng khổ nhọc của thái tử, cùng với lòng
thủy chung của vợ là nàng Sita. Ở thiên sử thi này người ta cũng thấy được sự tạo
dựng của Hanuman, khỉ thần, một biểu tượng của sức mạnh và lòng trung thành, hiện
nay vẫn còn được xem là một vị thần linh rất được biết đến và đang còn tôn thờ ở
Nepal và Ấn Độ.
-

Tên vị thần: Krishna. Hóa thân: có nhiều hóa thân.

Truyền thuyết: Những câu chuyện về các hóa thân của Krishna, thời thơ ấu và
trưởng thành trong ngữ từ Basham, đều là cứu giúp tất cả cho mọi người. Khi còn bé
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH


15


Krishna đã làm cho mọi bà mẹ yêu thương. Lớn lên trong tình yêu, Krishna đã phá vỡ
những lề lối cấm đoán cổ xưa của xã hội, và đưa tình yêu lên đến tột đỉnh của những
khát khao và thỏa mãn qua sự tự do và phá rào những ràng buộc của xã hội. Khi làm
người đánh xe ngựa của anh hùng Arjuna trong chiến trận Kukukshetra, Krishna là
người giúp tất cả những ai đến với mình và cứu họ thoát khỏi sự tái sanh vào những
cảnh giới ác, nếu kẻ ấy có đủ niềm tin vào đấng thiêng liêng.
-

Tên vị thần: Đức Phật.

Truyền thuyết: Có lẽ người Ấn lấy đức Phật đưa vào tên các vị thần trong Ấn giáo
để làm mất thể diện Phật giáo, một tôn giáo rất lớn đã làm ảnh hưởng toàn vùng nam
á châu. Theo những sự diễn giải sớm nhất của người Ấn giáo, họ cho rằng Vishnu hóa
thân làm đức Phật để tỏ lòng từ bi đối với các loài vật và cứu loài thú này khỏi những
nạn chết vì tế lễ.
-

Tên vị thần: Kalki. Hóa thân: Cỡi trên một con ngựa.

Truyền thuyết: Khi Vishnu đến sẽ kéo theo sự hủy diệt sau cùng của thế giới này,
để phán xét những điều xấu ác, và tưởng thưởng những điều tốt.
• Vợ Của Thần Vishnu.

Lakshmi (Sanskrit: चचच
चचच lakṣmī, Bản mẫu:IPA-hns) là
một nữ thần Ấn Độ giáo, tượng trung cho sự giàu có, thịnh

vượng (cả về vật chất lẫn tinh thần), vận may và sắc đẹp.
Nàng chính là vợ thần Vishnu. Còn được gọi là
Mahalakshmi, nữ thần được mọi người tin rằng sẽ mang đến
may mắn và đưa những người sùng đạo thoát khỏi cảnh cơ
cực và những nỗi phiền muộn về tiền bạc. Những hình tượng
tương đồng của Lakshmi cũng được tìm thấy trong các di
tích đạo Jaina.
• Vật cưỡi của Thần Vishnu là Thần Điểu Garuda.

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

16


(Thần Điểu Garuda)

2.2. Thần BRAMAH (Đấng Sáng Tạo)

Brahma (Phạm Thiên): người sáng tạo và lèo lái vũ trụ, là cha của các thần và của
cả loài người. Brahma cùng với Shi va và Visnu hợp
thành bộ ba gọi là Trimurti. Visnu và Shiva là hai thế lực
đối lập, còn Brahma là thế lực cân bằng.
Brahma tạo ra nữ thần Satarupa từ chính cơ thể mình.
Nàng đáng yêu đến nỗi Brahma nhìn nàng đăm đăm.
Mỗi khi nàng nhích qua một bên để tránh thì Brahma lại
mọc ra một đầu khác để nhìn. Cuối cùng Brahma đã
chinh phục được Satarupa. Họ lui về sống ở một nơi bí
mật trong 100 năm thiên giới. Và, MANU – con người
đầu tiên được sinh ra…
Thần Brahma thường được thể hiện với 4 đầu và 4 tay, mỗi tay cầm một cuốn kinh

Vệđà. Các biểu trưng khác là lọ nước sông Hằng, vòng hoa, ấn thí vô uý…
Truyền thuyết phổ biến là Brahma được sinh ra từ một bông sen mọc ở rốn thần
Visnu (Vishnu). Trong nghệ thuật, hình tượng Brahma được thể hiện với bốn mặt, bốn
tay (tượng trưng cho sự hiểu biết hết thảy mọi việc và sự có mặt ở khắp mọi nơi), ngồi
trên thiên nga [hamxa (hamsa)].
• Vợ của Thần Bramah.

Sarasvati Là quyền năng của Brahma, cũng thường
được xem là người phối ngẫu. Sarasvati vẫn còn tồn tại
trong thế giới Ấn giáo ngày nay, và có tầm quan trọng
còn hơn chính cả Brahma. Trong sự sùng bái thông
thường, Sarasvati là biểu tượng của Thần Nữ Tri Thức và
Học Vấn. Có thể nguồn gốc của Sarasvati liên hệ đến
truyền tích làm khô cạn dòng sông Sarasvati ở Rajasthan,
nhưng không như Brahma, thần nữ Sarasvati vẫn còn
đóng vai trò quan trọng trong sự sùng bái của người Ấn
giáo mãi cho đến ngày nay. Hình ảnh Sarasvati thường
thấy là màu trắng, cỡi trên lưng con thiên nga, tay cầm
một cuốn sách. Sarasvati có thể được thấy với nhiều đầu và nhiều tay, biểu tượng cho
sự gia hộ tất cả các môn học về khoa học và nghệ thuật. Sarasvati được tôn sùng nhiều
nhất ở các trường và đại học.
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

17


• Vật cưỡi thiêng liêng của Brahma là Thiên Nga Hamsa

(Thần Brahma và thiên nga Hamsa)


2.3.

Thần SHIVA(Đấng Hủy Diệt):

Được tôn thờ như là một vị thần sáng tạo lẫn hủy diệt, có đầy đủ sức mạnh và
quyền năng đối với vũ trụ này. Thần Shiva ngự trên núi
Kailasa với vợ là nàng Parvati, và hai con là thần đầu
voi Ganesha và thần Chiến tranh Kartikkeya. Shiva
thường được thấy đi cùng với chiếc cỗ xe bò. Shiva
thường ít được thấy hơn là thần Vishnu nhưng trong các
chân dung và điêu khắc thì có nhiều. Shiva cũng được
họa theo hình một vị tu khổ hạnh, ngồi thiền định trên
đỉnh núi Kailash cùng với vợ là nàng Parvati. Ngài
thường cưỡi con bò thần Nandin. Trong thờ cúng Shiva
thường được đồng nhất với Linga.
Các nhà nghiên cứu đưa ra một số giải thích, dựa trên tài liệu của giáo sư Lê Xuân
Khoa: theo đó, tuy thần Shiva là thần hủy diệt, nhưng chính do hủy diệt mới xuất hiện
sự sống mới; vì vậy với tư cách là nguyên lý của sáng tạo, Shiva còn được xem là vị
thần gieo rắc mầm sống và phúc lành. Với quyền năng thứ hai đó, Shiva đã đón đầu
con rắn thần Vasuki khi rắn này trườn xuống muốn nhả độc tiêu diệt hết thế gian, rồi
Shiva nuốt chửng rắn, trừ tai họa cho loài người. Mặt khác, giáo sư Lê Xuân Khoa
dẫn các pho sách xưa của Ấn Độ chép rằng: "Khi Shiva và vợ giao hợp, tia lửa lạc thú
xuất hiện và vũ trụ phát sinh từ tình yêu ấy. Và Ngài (Shiva) tự phân làm hai nửa, một
âm và một dương, âm dương giao hòa, tạo thành vũ trụ". Vì thế có môn phái thờ thần
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

18


Shiva lưỡng tính dưới hình ảnh Linga đặt trên Yoni. Theo thần thoại nguyên thuỷ,

hình thức khởi đầu của Shiva là cột lửa hình Linga.
• Vợ của thần Shiva.

Nữ Thần Hạnh Phúc và Tuổi Thọ SHAKTI
Shakti ( Devanagari : चचच
चच từ tiếng Phạn Shak , "có
thể"), có nghĩa là thiêng liêng lực hoặc trao quyền , là
nguyên thủy vũ trụ năng lượng và đại diện cho các lực
lược năng động, được cho là để di chuyển qua toàn bộ
vũ trụ trong Ấn Độ giáo .Shakti là các khái niệm, hay
nhân cách hóa, sức mạnh sáng tạo thần thánh nữ tính ,
đôi khi được gọi là The Great Mẹ Thiên Chúa 'trong Ấn
Độ giáo. Trên máy bay trần gian, Shakti tích cực nhất
biểu hiện qua hiện thân phụ nữ và sự sáng tạo / khả năng
sinh sản, mặc dù nó cũng có mặt ở nam giới trong hình
thức unmanifest tiềm năng của nó,. Không chỉ là Shakti
chịu trách nhiệm cho việc tạo ra, nó cũng là tác nhân của sự thay đổi tất cả. Shakti là
sự tồn tại của vũ trụ cũng như giải phóng, hình thức quan trọng nhất là Kundalini
Shakti, một lực lượng bí ẩn psychospiritual. Shakti tồn tại trong một trạng thái
svātantrya , phụ thuộc vào không, phụ thuộc lẫn nhau với toàn bộ vũ trụ.
Trong Shaktism , Shakti được tôn thờ là Đấng Tối Cao . Tuy nhiên, trong truyền thống
Hindu khác của Shaivism và Vaishnavism , Shakti là hiện thân của nữ tính hoạt động
năng lượngPrakriti Purusha , người Vishnu trong Vaishnavism hoặc Shiva trong
Shaivism . Đối tác nữ của Vishnu là Lakshmi , với Parvati là nửa cái của Shiva.
• Vật cưỡi của Thần Shiva là Bò Thần NADIN

(Thần Shiva và Bò thần Nadin)

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH


19


2.4. Các vị thần khác:
• Nữ Thần Tuyết PARVATI (còn có tên là Nữ thần Durga)

Parvati (Sanskrit: चचचच
चचच, Kannada: चचचच
चचचIAST: Pārvatī) là một nữ thần Hindu
Giáo. Parvati mang năng lượng nữ (Shakti), là vợ của
Shiva và là hóa thân khuyến thiện của Đại Thiên Nữ
Mahadevi. Parvati được xem là một hiện thân hoàn
chỉnh của Adi Parashakti- nữ thần sáng thế tối cao,
người mà tất cả các nữ thần khác đều là hiện thân của
bà.
Trên danh nghĩa, Parvati là người phối ngẫu thứ hai
của thần Shiva, vị thần phá hủy và tái sinh trong
Hindu Giáo. Tuy nhiên, thần Parvati khác với thần
Satī (thần hạnh phúc gia đình và tuổi thọ)- hóa thân
của người vợ thứ nhất của Shiva. Parvati là mẹ của
các nam thần và nữ thần như thần voi Ganesha và thần chiến tranh Skanda
(Kartikeya). Ở vài nơi người ta còn tin rằng bà là chị em với thần sáng tạo Vishnu. Bà
cũng được xem là con gái của thần tuyết Himavat.
Parvati, khi được miêu tả cùng với Shiva, thường xuất hiện với hai cánh tay; nhưng
khi được miêu tả một mình, thần có 4 hoặc 8 cánh tay có mang theo một con hổ hoặc
sư tử. Thường được xem là nữ thần từ bi, Parvati cũng có các hóa thân: nữ thần 8 tay
Durga biểu tượng của chiến thắng của cái Thiện trước cái Ác, nữ thần Kali hiện thân
của sự hủy diệt vũ trụ, thần băng giáShitala Devi, nữ thần sao Tara- người cứu giúp
các linh hồn trong biển cả ảo giác, thần Chandi, thần Kathyayini, thần Mahagauri,
thần hoa sen Kamalatmika, nữ thần Bhuvaneshwari- nữ thần của vũ trụ và của các thế

giới, thần của ba thế giới Lalita và các vị nữ thần (Mahavidya) khác.
• Nữ Thần Chết Chóc KALI

Kali là một nữ thần đặc biệt ghê rợn. Nước da Ngài
màu đen, tượng trưng cho sự tan biến của mọi màu sắc.
Khuôn mặt Ngài, với mái tóc dựng đứng, con mắt thứ
ba nằm giữa trán (như Shiva), miệng mở to, lưỡi đẫm máu
thò dài ra ngoài, gợi cho chúng ta hình ảnh Nữ Ác Thần
Meduse trong huyền thoại Hy Lạp. Vả lại Kali cũng có
khả năng hủy diệt đối thủ của mình bằng tia nhìn nảy lửa
từ con mắt thứ ba của Bà, y hệt như Meduse. Vươn lưỡi ra
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

20


thật xa cũng là một kỹ thuật Yoga. Thông thường trong thiền định người ta uốn lưỡi
đặt lên hàm trên sau hàng răng cửa, nhưng cũng có Yogi cuộn hẳn lưỡi về phía sau,
chặn đường hô hấp để đưa đến những cảm giác đặc biệt, hay đến … chết. Kali thường
trần truồng, một khía cạnh của phá chấp, hay của « sống thật » không che đậy giả dối.
Ngài mang một sâu chuỗi gồm năm mươi sọ người, mỗi sọ ứng với một chữ trong vần
Sanskrit, chứng tỏ sự thông thái, hay sự phù phiếm của « danh sắc » (nama ruppa –
trong thập nhị nhân duyên). Kali cũng nhảy múa điên cuồng như Shiva, tương truyền
do chất độc chứa trong máu của ác quỷ mà Ngài đã uống. Nhắc lại là Shiva cũng đã
từng phải uống chất độc khi chư Thần và Ma Quỷ cùng hè nhau quậy « Biển Sữa ».
Vũ điệu của Kali cũng tàn phá mọi sự vật (như Shiva), và cũng cần được ngăn chặn.
Vị Thần ngăn được điệu vũ hoại diệt của Kali lại là Shiva. Shiva nằm xuống dưới
chân Kali, và vị Nữ Thần ngừng dẫm tan thế giới. Hình tượng Shiva nằm trong tư thế
này tựa hồ như người chết. Người ta cũng nói Kali là chữ « i » trong tên Shiva. Mất
chữ « i » ấy thì Shiva trở thành « shv » (đọc là shuw), nghĩa là thân xác không còn

sinh khí. Có thể hiểu rằng : Shiva trút bỏ sự sống cá biệt của mình, chết đi, để Kali, sự
sống thật, sự sống của Toàn Hữu, nổi lên đạp trên sự chết. Chiến thắng sự chết là một
đề tài thường thấy trong Phật và Ky Tô Giao, cũng như trong triết học Hy Lạp (phái
Stoïcien và Epicurien). Shiva được coi như cha của Kali. Thật ra, như đã nói ở trên,
mọi Nữ Thần đều đến từ nữ tính của Shiva. Một hình ảnh của Kali hình dung Bà quỳ
trên người Shiva, dương vật của Shiva trong âm hộ của Bà. Một tay Kali cầm lưỡi
liềm đẫm máu, tay kia cầm một cái mâm trên đó có đặt thủ cấp của chính Bà. Một tia
máu phun từ thủ cấp trên mâm vào miệng của Kali. Trong một hình ảnh khác, Kali
cũng với hai cái đầu, đầu nọ uống máu phun ra từ đầu kia, ngồi trên một cặp trai gái
đang làm tình. Người đàn bà, Ratti, nghĩa là lạc thú, ở trên người đàn ông, Kama, là «
dục », hay Thần Ái Tình. Một hình ảnh khác nữa hình dung Kali nhảy múa đạp trên
Ratti và Kama (vẫn đang làm tình), có thể được hiểu là Kali chà đạp lạc thú và ái tình,
tức mang đức tánh tu hành khổ hạnh. Nhiều nhà khổ hạnh hay Đạo Sĩ tự cho mình là
« tình nhân » của Kali, điển hình là Rama Krishna (1836-1886).
• Con Trai Thần Shiva:
-

Thần Hạnh Phúc GANESHA

-

Thần Chiến Tranh SKANDA.

-

Thần Mặt Trời SURYA.

-

Thần Không Trung VARUNA.


-

Thần Sấm Sét INDRA.

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

21


-

Thần Gió VAYA.

-

Thần Mưa PARJANYA.

-

Thần Lửa AGNI

3. Sự tiếp biến hình ảnh các vị thần Ấn Độ giáo trong văn hóa Chăm Pa:
3.1.

Trong văn hóa – tín ngưỡng:

Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính của người
Chăm là Ấn Độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
minh Ấn Độ. Ấn Độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva,

và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar.
Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga - yoni, mukhalinga,
jatalinga, linga chia tầng và kosa.
Thờ sinh thực khí (Linga và Yoni) là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Càng
nông nghiệp điển hình bao nhiêu thì tín ngưỡng này càng mạnh bấy nhiêu. Người du
mục không có truyền thống thờ sinh thực khí. Chiếc Linga là biểu tượng được cách
điệu hóa của sinh thực khí nam trong tín ngưỡng phồn thực mang ý nghĩa phồn thực
và tính dục. Kinh Vêđa nói rằng những kẻ lấy Linga làm thượng đế là kẻ thù của đạo
giáo Aryen. Ở Ấn Độ, việc thờ Linga vốn là tín ngưỡng của thổ dân Dravidien. Đó
chính là tục thờ cúng các hòn đá hình trục, phổ biến trong dân gian từ thời thượng cổ
ở khắp vùng Đông Nam Á. Sự xâm nhập của nó vào Bàlamôn giáo và việc đồng nhất
Linga với Shiva chắc hẳn đã xảy ra vào thời kì hậu Vêđa.
Chiếc Linga trong Bàlamôn giáo: phần hình vuông (âm tính) ở dưới ứng với thần
Brahma sáng tạo, khúc hình bát giác ở giữa mang tính chuyển tiếp, ứng với thần
Vishnu bảo tồn, còn phần hình trụ tròn (dương tính) ở trên ứng với thần Shiva phá
hủy. Phần dưới của Linga gắn liền với một cái đế, giống như một cái chậu vuông, có
rãnh thoát nước, biểu tượng của bộ phận sinh dục của nữ giới (Yoni). Bộ phận hình
chậu vuông này còn là biểu tượng của nữ thần phù hộ cho đất đai, luôn phải nhờ ơn
mưa móc của Linga. Ngoài ý nghĩa là biểu tượng của sự sinh dục, Linga còn là biểu
tượng của chiếc cột trụ chống đỡ vũ trụ, của ngọn núi Meru thần thoại (núi thiêng
Meru - nơi ngự trị của Thiên thần, Bồ Tát và là trung tâm của vũ trụ theo thế giới quan
của Ấn Độ). Cuối cùng, Linga còn là biểu tượng của sự vĩnh cửu và tính chất chính
thống của mỗi triều đại vua. Cũng bởi những ý nghĩa tượng trưng đó, mà chiếc Linga
luôn luôn có mặt trong các biểu hiện nghệ thuật có ảnh hưởng của Ấn Độ giáo.
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

22


-


Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho
Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở
trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ
bao gồm tên của nhà vua và đuôi "-esvara," tức là Shiva.

-

Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng
hình người hay hình khuôn mặt.

-

Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu
tóc búi.

-

Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti)
của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương,
tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện
cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.

-

Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc
hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo Siva của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng
theo cách họ tự đặt tên cho các linga.

Linga - Yoni luôn đi bên nhau tạo thành một biểu tượng hoàn hảo có ý nghĩa hủy

diệt - sáng tạo, triết lý về sự phát triển, tính lưỡng phân âm dương, đực cái...
Yoni thì kém đa dạng hơn về mặt loại hình, thường thấy là các Yoni hình tròn, chữ
nhật và hình vuông cùng với vòi. Yoni luôn đi cùng với linga hoặc là nơi ngự của các
tượng thần như trong tháp Bà Nha Trang, tháp Nhạn.... Cả vật thờ Linga - Yoni được
đặt trên một bệ cao tạo thành một đài thờ hoàn chỉnh trong các đền tháp Champa

Linga có Kosa - Linga

Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

23


(Linga – Yoni)
Linga, Yoni không chỉ được tôn thờ ở Ấn Độ, mà còn được tôn thờ khá phổ biến ở
các nước có sự tiếp thu và chịu sự ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, trong đó có Chămpa
lúc bấy giờ.
Linga và Yoni ở Chămpa có những đặc điểm riêng của nó và không ở đâu Linga
-Yoni lại có số lượng nhiều, hình dáng đa dạng và kích thước lớn như ở Champa. Loại
hình Linga, Yoni ở Chămpa có thể được coi là một trong những biểu hiện về sự ảnh
hưởng sâu đậm văn hóa, tôn giáo của Ấn Độ mà Chămpa lại là biểu hiện mạnh mẽ
nhất về Chămpa hóa những yếu tố văn hóa, tôn giáo tiếp thu được của Ấn Độ giáo.
Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ
9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay)
theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương
được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.
Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của
Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công
trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu,
Chánh Lộ và Tháp Mẫm.

Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau năm
1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì hoàng gia Chăm đã
theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng
đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi.
Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở
Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn
ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến
chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câu
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

24


chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ
của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là thủ đô
của Majapahit.
Xuất phát từ quan niệm coi thiên nhiên và vạn vật xung quanh con người đều có
linh hồn, nên từ ngàn xưa tổ chức – xã hội của dân tộc này có truyền thống tin thờ tín
ngưỡng đa thần, đứng đầu là Pô Yang hit, cùng hệ thống Pô Yang, như: Thần Núi (Pô
Yang chơt), Thần Nước (Pô Yangla), Thần sét (Pô Yang patan), Thần Lúa (Pô Yang
Sri), Thần Chuột (Pô Yang Takuh) v.v…
Cùng với việc tin thờ các Thần linh, người Chăm còn có tín ngưỡng tin thờ chung
hoặc riêng ba vị thần có nguồn gốc Bà la môn giáo Ấn Độ, đó là:
• Thần Brahma, là chúa tể vạn vật, là vị thần đứng đầu trong các vị thần,
• Thần Vishu, là thần bảo tồn,
• Thần Shiva, là thần phá hoại và tạo tác.

Đồng bào Chăm có niềm tin và thờ các vị ấy trong các Đền, Tháp và còn được
chạm nổi ở các kiến trúc cổ, đặc biệt là ở các Tháp hoặc được tạc nguyên hình bằng
các loại đá quí, đồng đen, kim loại vàng cùng với các thần linh khác.

Như đã nói, thần Brahma là vị thần sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài, một vị thần
đứng đầu trong các vị thần. Ở di tích Mĩ Sơn (Quảng Nam), ngoài tượng được tạc
bằng đá hoa cương, thần Brahma, còn được tạc trên các mí tháp, đền; còn thần Vishnu
thường được tạc hình dáng có bốn tay và trên tay có cầm các bảo vật như: Ốc Tù và
(San ka), Đỉa tròn (ca kra), hoa sen (Padama), quả Chùy (Oa da) và được tạc nguyên
hình lúc cưỡi trên lưng con chim thần (Ga ra da).
Ngoài ra, người Chăm còn tin thờ thần Shiva – vị thần này được tạc nhiều hình
dáng khác nhau hoặc đứng có sáu tay hoặc cưỡi trên lưng con bò đực (Nan din) với tư
thế tấn công hoặc được tạc vai Hộ pháp canh giữ các đền. Thần Shiva còn được tạc
dưới nhiều biểu tượng khác nữa, như: Dưới hình thức cái phù linh (Linga) – một trụ
đá tròn trên một cái đế dùng hứng nước phép khi hành lễ, là biểu tượng cho sức mạnh
và sự sinh tồn của loài người, sự phối hợp giữa người đàn ông (Linga) với người phụ
nữ (Yoni) – biểu tượng về sự thống nhất giữa Âm và Dương, tức là giữa Linga và
Yoni nguyên lí của sự sinh tồn và phát triển. Sự lưỡng hợp này, thể hiện một cách sâu
đậm như là một truền thống trong sinh hoạt tinh thần cũng như sinh hoạt xã hội của
cộng đồng cư dân Chăm ở nước ta. Sự tin thờ nhiều biểu tượng của thần Shiva sau
nữa là biểu tượng con bò đực (Nandin), hiện thân của sức mạnh sinh tồn.
Mai Thị Phương Mai – 13CVHH

25


×