A.
B.
DẪN NHẬP :..............................................................................................................................................2
1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề:..................................................................................................................2
2.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu :..................................................................................3
3.
Mục đích nghiên cứu :..........................................................................................................................3
4.
Phương pháp nghiên cứu :..................................................................................................................3
5.
Cấu trúc đề tài :....................................................................................................................................3
NỘI DUNG :..............................................................................................................................................4
Chương I: Những vấn đề chung về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo :..................................................4
1.1
Điều kiện tự nhiên :......................................................................................................................4
1.2
Khái quát chung về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo :............................................................5
Chương II: Đặc trưng văn hóa của ba quốc gia Singapore, Indonesia và Philippin trong khu vực Đông
Nam Á hải đảo............................................................................................................................................12
1.
Đất nước và văn hóa Singapore :..................................................................................................12
2.
Đất nước và văn hóa Indonesia :...................................................................................................27
3.
Đất nước và văn hóa Philippines :.................................................................................................37
Chương III: Sự tương đồng và khác biệt trong văn hóa của các nước trong khu vực Đông Nam Á hải
đảo ( Singapore, Indonesia và philippin) và Đông Nam Á :.....................................................................51
1.
Sự tương đồng :.............................................................................................................................51
1.
Sự khác biệt :..................................................................................................................................52
C.
KẾT LUẬN :..............................................................................................................................................57
D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :..........................................................................................................................57
A. DẪN NHẬP :
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Với vị trí và tầm quan trọng của mình trong lịch sử, Đông Nam Á đã từ lâu thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nhiều nhà
khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện Quan hệ Quốc Tế, Viện nghiên cứu
Đông Nam Á thược trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và một số cơ
quan khác… đã có những công trình nghiên cứu về Đông Nam Á được xuất bản.
Một số tác phẩm được công bố như: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
– Bộ ngoại giao”, “Lược sử Đông Nam Á – Tác giả Phan Ngọc Liên, NXB GD Năm
1997”, “Lịch sử Đông Nam Á – Tác giả Lương Ninh (Chủ biên), NXB GD 2005”,
“Lịch sử phát triển Đông Nam Á – tác giả Mary Somers Heidhues, NXB văn hóa
thông tin”, Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới – tác giả Cao Liên.
Ngoài những bài viết được công bố thành sách, còn rất nhiều bài viết, chuyên
khảo đăng trên các tạp chí: Thời báo kinh tế, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á
(6/2006), Báo nhân dân (18,19/4/2010)…
Nhìn chung các công trình ấy, các bài viết ấy đã phần nào cho ta thấy được biểu
hiện, các đặc trưng về con người, điều kiện tự nhiên và một nền văn hóa vô cùng đặc
sắc của các nước Đông Nam Á hải đảo. Từ những cái đó đã tạo nên cơ sở, nền tảng
vững chắc nhất cho nhóm chúng tôi có một cái nhìn khái quát hơn về nó, từ đó bắt tay
vào nghiên cứu về con người, điều kiện tự nhiên và văn hóa một cách tốt nhất.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu :
Đặc điểm văn hóa của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hải đảo và
làm rõ hơn về đất nước và con người của ba quốc gia Singapore, Indonesia, Philippin
trong khu vực Đông Nam Á hải đảo.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Cho người đọc thấy được những nét sơ lược về các quốc gia Đông Nam Á hải
đảo cũng như ba quốc gia nổi bật Singapore, Indonesia và Philippin. Đem lại cái nhìn
đa chiều hơn về văn hóa của ba quốc gia trên.
- Tăng thêm nguồn tài liệu cho người đọc hiểu rõ hơn về đặc trưng văn hóa ba
quốc gia Singapore, Indonesia và Philippin.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Trong đề tài này nhóm chúng tôi sử dụng phương pháp:
- Phương pháp sưu tầm tài liệu.
- Phương pháp lựa chọn, phân tích tài liệu.
- Phương pháp so sánh và hệ thống.
5. Cấu trúc đề tài :
Đề tài nhóm chúng tôi gồm có phần mở bài, nội dung, kết luận và tài liệu tham
khảo.
Hơn nữa đề tài gồm có 3 chương trong phần nội dung đó là:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Đặc trưng văn hóa của ba quốc gia Singapore, Indonesia và Philippin
trong khu vực Đông Nam Á hải đảo
Chương III: Sự tương đồng và khác biệt trong văn hóa của 3 quốc gia
B. NỘI DUNG :
Chương I: Những vấn đề chung về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo :
1.1 Điều kiện tự nhiên :
( Vùng khoang đỏ - Đông Nam Á hải đảo )
- Địa hình :
Nằm trong vùng vỏ trái đất không ổn định, thường xuyên xảy ra động đất núi
lửa. Hệ thống núi hướng vòng cung Đông và Tây, Đông Bắc – Tây Nam, núi lửa.
Có núi và đồng bằng nhỏ hẹp ven biển.
- Khí hậu :
Chủ yếu khí hậu xích đạo.
Thường có bão nhiệt đới tàn phá.
- Khoáng sản :
Có nhiều khoáng sản: Dầu mỏ, khí đốt, sắt than…
- Sông ngòi :
Sông nhỏ, ngắn.
Chế độ nước chảy điều hòa.
- Cảnh quan :
Chủ yếu là rừng rậm thường xanh quanh năm.
1.2 Khái quát chung về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo :
Đông Nam Á là một khu vực chiến lược về kinh tế và chính trị, trên con đường
biển giao thương giữa Đông và Tây, nằm ở phía Đông Nam của Châu Á. Theo các
khái niệm của Liên hiệp quốc và các tổ chức thế giới, Đông Nam Á gồm có 11 quốc
gia, trong đó có 10 quốc gia là thành viên chính thức của tổ chức ASEAN (trừ Đông
Timor).
Đông Nam Á hải đảo là một vùng địa lý thuộc Đông Nam Á, có 6 quốc gia nằm
trong vùng Đông Nam Á hải đảo là :
Malaysia: gồm hai vùng địa lý bị chia tách bởi biển Đông :
( Quốc kì )
( Bản đồ Malaysia )
Malaysia bán đảo, gọi là bán đảo Malaysia, phía bắc giáp Thái Lan, phía Đông
giáp Biển Đông, phía Nam giáp eo biển Singapore, phía Tây giáp eo biển Malacca.
Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah và Sarawak ở phía Bắc đảo Borneo, giáp
Brunei và Indonesia. Hai phần này chia tách nhau bởi Biển Đông và có nhiều đặc
điểm địa hình tương tự ở cả Tây và Đông Malaysia với những đồng bằng ven biển xen
giữa những đồi rừng dày đặc và núi non, điểm cao nhất là núi Kinabalu ở độ cao
4.095,2m (13.435,7 ft), cao nhất Đông Nam Á, trên đảo Borneo.
Malaysia là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ, gồm 52% người
Malay và các bộ tộc bản xứ khác, 30% người Trung Quốc, 8% người Ấn Độ.
Người Malay, là cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi giáo
trong Hiến pháp Malaysia. Người Malay đóng vai trò thống trị trong chính trị và được
tính gộp trong một nhóm gọi là bumiputra. Tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Malay
(Bahasa Melayu). Tiếng Malay là ngôn ngữ chính thức quốc gia.
Phong tục và những điều cấm kỵ: khi gặp nhau người Malaysia thường có thói
quen sờ vào lòng bàn tay người kia, sau đó chắp hai bàn tay với nhau. Người Malaysia
rất kỵ việc xoa đầu và lưng người khác.
Người Malaysia thường mặc áo dài bằng vải hoa, nam giới mặc áo sơ mi không
cổ và không được để hở cánh tay, đùi ở những nơi công cộng. Nữ thường mặc áo dài
tay. Chủ đề tốt nhất bàn luận ở Malaysia là công việc buôn bán, thành tựu xã hội,
bóng đá, lịch sử, và tránh nói đến chủng tộc và chính trị, mức sống, mức thu nhập.
Là thiên đường nhiệt đới ngay tại trung tâm Đông Nam Á, Malaysia thật sự
quyến rũ với sự kết hợp của nhiều dân tộc, văn hóa và tín ngưỡng. Sự đa chủng tộc đã
mang lại cho đất nước này một nền ẩm thực đa dạng và hấp dẫn.
Malaysia là quốc gia đa sắc tộc với các cộng đồng người Mã Lai, Hoa, Ấn, Thái
và Á lai Âu. Tập quán ẩm thực của các cộng đồng đã hòa quyện với nhau để tạo ra
những món ăn đặc biệt.
Các món ăn truyền thống Malaysia đa dạng cả về màu sắc và hương vị. Nơi đây
được mệnh danh là “Thiên đường ẩm thực của châu Á.”
Philippines :
( Quốc kì )
( Bản đồ địa lý Philippines )
Có nền là một quần đảo với 7.107 hòn đảo với tổng diện tích đất liền
299.764km2, Nó nằm giữa 116°40' và 126°34' Đông, và 4°40' và 21°10' Bắc, giáp với
Biển Philippines ở phía Đông, Biển Đông ở phía Tây, và Biển Celebes ở phía Bắc.
Đảo Borneo nằm cách vài trăm kilômét về phía Tây Nam và Đài Loan thẳng phía
Bắc. Moluccas và Sulawesi ở phía Nam và Palau ở phía Đông phía trên Biển
Philippines.
Thông thường quốc đảo này được chia thành ba nhóm đảo: Luzon (Vùng I đến
V, NCR & CAR), Visayas (VI đến VIII) và Mindanao (IX đến XIII & ARMM). Cảng
biển đông đúc Manila, ở Luzon, là thủ đô quốc gia và là thành phố lớn thứ hai sau
vùng ngoại ô của nó là Thành phố Quezon.
Đa số các vùng đảo núi non thường có mưa rào nhiệt đới và có nguồn gốc núi
lửa. Điểm cao nhất là núi Apo ở Mindanao 2.954m.Có nhiều núi lửa đang hoạt động
như núi lửa Mayon, núi Pinatubo và núi lửa Taal. Nước này cũng nằm bên trong vành
đai bão Tây Thái Bình Dương và hàng năm phải nhận khoảng 19 cơn bão.
Ảnh hưởng của Tây Ban Nha đối với văn hóa Philippines, bắt nguồn chính từ
văn hóa Mexico và văn hóa Tây Ban Nha, là kết quả của hơn ba trăm năm chính
quyền thuộc địa.
Nền văn hóa ẩm thực của Philippines cũng đa dạng và phong phú nhưng không
khác các nước Đông Nam Á là mấy. Phần lớn các món ăn đều có màu sắc khá nổi bật
như màu đỏ của cà ri, màu vàng của nghệ, màu cam của điều. Đặc trưng riêng là ẩm
thực nơi này không chuộng vị cay.
Brunei:
( Quốc kì )
( Vị trí của Brunei )
Gồm hai phần rời nhau. 97% dân số sống ở vùng phía Tây lớn hơn, 3% còn lại
(chỉ khoảng 10.000 người) sống ở vùng núi phía Đông, vùng Temburong.
Các thành phố lớn gồm thủ đô Bandar Seri Begawan (khoảng 46.000 dân), thành
phố cảng Muara và những vùng sản xuất dầu lửa Seria và Kuala Belait.Khí hậu ở
Brunei là khí hậu nhiệt đới-cận xích đạo, với nhiệt độ cao, độ ẩm lớn và mưa nhiều.
Có thể nhận thấy rằng nền văn hóa của Brunei là nền văn hóa chịu ảnh hưởng
của khá nhiều nền văn hóa lân cận. Việc ảnh hưởng những nền văn hóa lân cận mang
đến cho Brunei những nét mới lạ. Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng được kết hợp hài
hòa đã làm cho nền văn hóa mới của Brunei thêm nhiều bản sắc.
Những đất nước mà văn hóa Brunei có ảnh hưởng lớn là Malaysia và Indonesia.
Hai đất nước này gần gũi với Brunei về địa lý cũng như về lịch sử hình thành. Cho
nên việc Brunei chịu ảnh hưởng khá nhiều về văn hóa hai đất nước này cũng là điều
dễ hiểu.
Ngoài ra, theo nghiên cứu còn ghi chép cuộc sống sinh hoạt từ ngàn xưa cho đến
nay của Brunei đã ảnh hưởng những quy định của văn hóa tôn giáo Hồi giáo và Ấn
Độ giáo. Nên hai tôn giáo này ảnh hưởng sâu sắc trong lối sống sinh hoạt hàng ngày
của người dân Brunei. Những quy định về lối sống hay phong tục của người Brunei
đều phản ánh rõ điều này. Đa số mọi chuẩn mực trong cuộc sống của người Brunei
chịu ảnh hưởng của Hồi giáo.
Khắp đất nước Brunei vẫn còn lưu giữ lại khá nhiều những công trình kiến trúc
mang đậm nét văn hóa kiến trúc đạo Hồi. Nhà thờ ở đây được cho là thiêng liêng và
vô cùng có ý nghĩa trong cuộc sống của người dân. Một số ngành thủ công mỹ nghệ
như làm đồ trang sức bằng bạc hay nghề làm giỏ đan móc, thêu vẫn được duy trì.
Vì tôn giáo chính của người dân Brunei là đạo Hồi cho nên hàng năm ở Brunei
cũng có khá nhiều lễ hội diễn ra. Nhưng hầu như là nhưng lễ hội mang đậm màu sắc
của tôn giáo Hồi giáo.
Singapore:
( Quốc kì )
( Vị trí singapore )
Là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương, được bao quanh bởi nhiều
đảo nhỏ khác. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Juhor của Malaysia - một
con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor-Singapore ở phía Bắc, băng qua eo biển
Tebrau và chỗ nối thứ hai Tuas, một cầu phía Tây nối với Juhor.
Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của
Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi
Bukit Timah với độ cao 166m.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Singapore là cơ cấu dân số đa dạng
gồm nhiều chủng tộc nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những thành tựu thương mại
của đất nước.
Được ngài Thomas Stamford Raffles khai phá vào ngày 29/1/1819, và sau đó
xây dựng thành đầu mối giao thương buôn bán, Singapore - một làng chài nhỏ bé
ngày nào đã nhanh chóng thu hút những người dân nhập cư và các thương nhân đến từ
Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, bán đảo Mã Lai và vùng Trung Đông. Cho
đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng tộc,đa
văn hóa nhất của châu Á.
Ngày nay, người Hoa chiếm 74,2% dân số Singapore, người Mã Lai - những cư
dân đầu tiên của nước này, chiếm 13,44%, người Ấn chiếm 9,2%, còn lại là người lai
Á Âu và các dân tộc khác chiếm 3,2%.
Tính đa dạng về văn hóa của Singapore còn được phản ánh qua ngôn ngữ.
Singapore có ngôn ngữ đại diện cho từng dân tộc trong số bốn nhóm dân tộc chính
của mình. Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là tiếng Anh,
tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil.
Indonesia:
( Quốc kì )
( Bản đồ Indonesia )
Có trên 17.500 hòn đảo, khoảng 6.000 trong số đó không có người ở.Các hòn
đảo nằm rải rác ở cả hai phía đường xích đạo. Năm hòn đảo lớn nhất là Java, Sumatra,
Kalimantan (phần Borneo thuộc Indonesia), New Guinea (cùng chung với Papua New
Guinea), và Sulawesi.
Indonesia có biên giới trên bộ với Malaysia trên hòn đảo Borneo và Sebatik,
Papua New Guinea trên đảo New Guinea, và Đông Timor trên đảo Timor. Indonesia
cũng có chung biên giới với Singapore, Malaysia, và Philippines ở phía Bắc và
Australia ở phía Nam bằng một dải nước hẹp.
Với diện tích 1.919.440 km2, Indonesia là nước đứng thứ 16 trên thế giới về diện
tích đất liền.Mật độ dân số trung bình là 134 người trên km2 (đứng thứ 79 trên thế
giới) dù Java, hòn đảo đông dân nhất thế giới, có mật độ dân số khoảng 940 người
trên km2.
Indonesia có khoảng 300 nhóm sắc tộc, mỗi nhóm có văn hóa khác biệt và đã
phát triển qua nhiều thế kỷ, với ảnh hưởng từ Ấn Độ, Arập, Trung Quốc, Malaysia và
châu Âu.
Những loại vải dệt như batik, ikat và songket được sản xuất trên khắp đất nước
Indonesia nhưng theo kiểu cách khác biệt tùy theo vùng.
Các môn thể thao thông dụng tại Indonesia là bóng bàn và bóng đá; Liga
Indonesia là giải vô địch cấp cao nhất của các câu lạc bộ bóng đá tại Indonesia. Môn
thể thao truyền thống gồm sepak takraw, và chạy đấu bò tại Madura.
Ẩm thực Indonesia phong phú và đa dạng như chính nền văn hoá của đất nước
vạn đảo. Thật vậy, sự đa dạng không chỉ ở cách thức chế biến món ăn mà còn ở cách
thức thưởng thức món ăn.
Gia vị là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc chế biến thức ăn
của người Indonesia.
Đông Timor:
( Quốc kì )
( Bản đồ Đông Timor )
Quốc gia mới hình thành trong thế kỉ XX, được tách ra từ đảo Timor với
Indonesia
Văn hoá Đông Timor phản ánh nhiều ảnh hưởng, gồm Bồ Đào Nha, Công giáo
La mã, và Malaysia, trên các văn hoá Austronesian và Melanesia của Timor. Truyền
thuyết cho rằng một con cá sấu khổng lồ đã biến thành hòn đảo Timor, hay Đảo Cá
sấu, như nó thường được gọi. Văn hoá Đông Timor bị ảnh hưởng mạnh bởi các truyền
thuyết Austronesian, dù ảnh hưởng của Ki-tô giáo cũng mạnh mẽ. Nước này có truyền
thống mạnh về thi ca.
Thức ăn chính cho hầu hết người Đông Timor tương tự như của Indonesia (gạo
và gia vị).
Một số khái niệm khác gọi đây là “quần đảo Mã Lai” (dùng từ thế kỉ XIX). Tính
đồng nhất về văn hóa khiến Đông Nam Á hải đảo được xem là “viễn Ấn” hay Đại Ấn
Độ, Coedes gọi là “ những quốc gia Ấn Độ hóa ở Đông Nam Á”, trong khi nhiều học
giả khác coi đây là khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa một phần (hoặc
cao hơn như Singapore), thậm chí một số học giả đồng nhất khu vực này với Nam đảo
hoặc Châu Đại Dương.
Quần đảo Mã Lai được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa
Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế
giới. Khu vực này chứa khoảng 20.000 đảo và là quần đảo lớn nhất trên thế giới theo
diện tích.Tổng diện tích của khu vực lớn hơn 2 triệu km² và tổng dân số là trên 350
triệu người, đảo có dân cư đông đúc nhất là Java. Dân cư chủ yếu là người Nam đảo
sử dụng ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo. Khu vực này có mối quan hệ xã hội và văn hóa
gần gũi với những người Nam Đảo ở Thái Bình Dương hơn là với dân cư Đông Nam
Á lục địa.
Các tôn giáo chính trong vùng là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo hindu
và tín ngưỡng thờ vật linh truyền thống.
Khí hậu trong cả quần đảo, do vị trí rất sát với đường xích đạo, là nhiệt đới. Tuy
nhiên, một điều đáng chú ý là ở phía tây nhiều mưa hơn ở phía đông.
Chương II: Đặc trưng văn hóa của ba quốc gia Singapore, Indonesia và
Philippin trong khu vực Đông Nam Á hải đảo
1.
Đất nước và văn hóa Singapore :
1.1.
Thông tin tổng quan :
( Vị trí Singapore trên bản đồ thế giới )
Tên nước: Cộng hòa Singapore (tiếng Anh: Republic of Singapore ; Hán Việt:
Tân Gia Ba Cộng hòa quốc)
Thủ đô: Singapore
Đơn vị tiền tệ: Dollar Sing ( Viết tắt là SGD )
Ngôn ngữ chính thức: Tiếng Hoa, Mã Lai, Ấn Độ và Tiếng Anh
( Quốc kì )
1.2.
( Quốc huy )
Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ :
Singapore là quốc gia nhỏ nhất ở Đông Nam Á.
- Vĩ độ: từ 1o09' Bắc đến 1o29' Bắc
- Kinh độ: từ 104o36' Đông đến 104o24' Đông
Vị trí: nằm phía nam của bán đảo Mã Lai, tiếp giáp tiểu bang Johor của Malaysia
về phía bắc và đối diện đảo Riau của Indonesia về phía nam. Là nước nhiệt đới,
Singapore nằm phía bắc đường xích đạo, chỉ cách 137 km.
Diện tích: 692,7 km2, gồm 64 đảo, 1 đảo lớn và 63 đảo nhỏ.
( Vị trí của Singapore )
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi nhiều
đảo nhỏ: Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của
Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi
Bukit Timah với độ cao 166 m.
Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía bắc Singapore bao quanh
sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những
vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính
phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà
cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và
những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập
niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay, và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm
2030.
( Bản đồ đất nước Singapore )
b. Khí hậu :
Singapore có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm gió mùa nên quốc đảo này nóng và ẩm
quanh năm. Nhiệt độ trung bình khoảng 31 độ C, và ít khi xuống dưới 23 độ.
Nhiệt độ theo từng qúy trong năm thay đổi như sau:
Tháng
1–3
4–6
7–9
10 – 12
Cao nhất
31,1oC
32,2oC
31,1oC
31,1oC
Thấp nhất
22,80C
23,90C
22,80C
22,80C
Với những số liệu đó, người ta có thể kết luận rằng khí hậu ở đây rất ôn hòa.
Tháng 5 và tháng 6 là thời gian ấm nhất ở đây và lạnh nhất là tháng 12 và tháng
Giêng. Mùa lạnh ở đây lại có nhiều mưa.
Singapore không có bốn mùa như các nước xa đường Xích đạo. Thời tiết ở đây
quanh năm hầu như không thay đổi với lượng mưa khá nhiều. Hầu hết những cơn mưa
rơi vào thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, do ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc. Trong đợt gió mùa Tây Nam kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9 thường có những cơn
mưa nặng hạt nhưng rất ngắn. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây là 2.400 mm.
Giông bão ở đây thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 10.
Độ ẩm trung bình vào ban ngày là 84% và ban đêm là trên 90%. Độ ẩm này ở
vào mức đủ làm cho người châu Âu kinh ngạc. Có những câu chuyện truyền miệng kể
rằng có những hãng sản xuất ô tô phải cử kỹ sư đến Singapore để đo đạc độ ẩm tại
đây, và những tiêu chuẩn kỹ thuật để sản xuất xe cho Singapore phải được điều chỉnh
hàng tuần hoặc hàng tháng để tránh tình trạng xe của họ nhanh chóng bị rỉ sét.
c. Địa hình và tài nguyên thiên nhiên :
Địa hình thấp, có những cao nguyên nhấp nhô cùng các khu bảo tồn thiên nhiên
hoang dã.
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương được nhiều đảo nhỏ
khác bao quanh. Hòn đảo chính của Singapore khá bằng phẳng, với vài vùng đất cao ở
khu vực trung tâm. Độ cao tối đa của Singapore là 166 mét, ở vùng đồi Bukit Timah.
Tất cả các khu rừng rậm và đầm lầy đã được khai thác đề lấy đất sử dụng 1 phần dành
cho khu dân cư, thương mại và công nghiệp, phần khác để làm công viên và các khu
bảo tồn.
Đặc biệt, Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ
bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất
canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả. Ở Singapore không có
nguồn nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ
những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Singapore
chỉ có vài con sông và 1 số dòng suối ngắn. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng
nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một loại
nước có được sau quá trình khử muối.
1.3.
Lịch sử hình thành :
Singapore được biết đến bởi những người đi biển vào khoảng thế kỷ III,
Singapore lúc này có tên gọi là Temasek (nghĩa là Thành phố Biển) là một trong
những trạm giao dịch cho Malaysia, Thái Lan, Java, Trung Quốc, Ấn Độ và các
thương nhân Ả Rập.
Vào thế XIII, hòn đảo này được gọi là Singapura (hay Thành phố Sư Tử) sau sự
xuất hiện một hiện tượng lạ có hình dáng giống con sư tử trên đảo. Đến thế kỷ XIX,
Phó Thống đốc người Anh ông Thomas Stamford Raffles đã cho xây dựng một cảng
thương mại trên đảo và ông gọi là Singapore sau tên gọi ban đầu của nó. Tên gọi
Singapore được dùng cho đến ngày nay.
( Thomas Stamford Raffles )
( Kế hoạch đô thị Singapore )
Các đảo quốc trên mũi phía nam của Malaysia đã chứng kiến sự cai trị của nhiều
triều đại trong lịch sử phát triển của nó. Theo ghi chép được tìm thấy trong các văn tự
của người Trung Quốc vào thế kỷ III, hòn đảo Temasek dưới quyền cai trị của đế chế
Sumatran Srivijaya. Vào thế kỷ XIV các cuộc phát kiến địa lý diễn ra mạnh mẽ, các
nhà thám hiểm châu Âu đã tìm đến khu vực Đông Nam Á.
Vào năm 1511 Bồ Đào Nha chiếm được cảng Melaka (Malacca) buộc các vua
trị vì phải chạy về phía Nam và thành lập một chế độ mới là Vương quốc Hồi giáo
Johor. Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, quốc đảo sư tử là một phần của Vương
quốc Johor, tuy nhiên lúc này Singapore đang trở thành bài toán thương mại của các
nước phương Tây nhất là đế quốc Anh. Đến năm 1867 Singapore trở thành thuộc địa
của Anh.
Trong nửa đầu thế kỷ XX dưới sự thống trị của thực dân Anh, Singapore phát
triển nhanh chóng với sự hình thành các tổ chức tài chính, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc và cơ sở hạ tầng được mở rộng nhanh chóng, trở thành trung tâm thương
mại quan trọng bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Vào năm 1959, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành chế độ tự trị ở
quốc gia này và cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra. Đảng Nhân Dân Hành Động
(PAP) đã giành được 43 ghế và Ông Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng đầu tiên của
Singapore.
( Thủ tướng đầu tiên của Singapore )
Vào năm 1961, Singapore sát nhập vào Malaya và hợp nhất với Liên bang
Malaya, Sarawak và Bắc Borneo thành nước Malaysia vào năm 1963. Tuy nhiên, cuộc
hợp nhất không đạt được nhiều thành công và gần 2 năm sau đó. Cụ thể là vào ngày 9
tháng 8 năm 1965, Singapore đã tách khỏi Malaysia và trở thành một quốc gia độc lập
với nền dân chủ có chủ quyền lãnh thổ. Vào ngày 22 tháng 12 năm đó, Singapore cuối
cùng đã chính thức trở thành một nước Cộng hòa độc lập.
Đến thập niên 1990, đảo quốc trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng
nhất trên thế giới, với một nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao độ, các liên kết
mậu dịch quốc tế hùng mạnh, và GDP bình quân đầu người cao hàng đầu tại châu Á.
1.4.
Điều kiện kinh tế - xã hội :
a. Kinh tế :
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài.
Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác
hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát
triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu
châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc
dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.
Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp
Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán
dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.
Đây cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
( Một cảng biển ở Singapore )
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu
nhập quốc dân):
-
Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại
cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%.
-
Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la
Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh
chỉ còn 1,3%.
-
Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%,
và năm 2000 đạt hơn 9%.
-
Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau
đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng
trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004,
tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7%
và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2% do tác động của
khủng hoảng kinh tế.
( Sự phát triển của một góc Singapore là minh họa rõ nét cho sự phát triển kinh tế của đất
nước này )
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế
tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành
một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế
toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
b. Dân cư - Xã hội :
Vào năm 2010, có 5,1 triệu người sinh sống tại Singapore, trong số đó 3,2 triệu
(64%) mang quốc tịch Singapore trong khi số còn lại (36%) là cư dân định cư hoặc
người làm việc ngước ngoài. 2,9 triệu người (57%) được sinh tại Singapore trong khi
số còn lại được sinh tại nước ngoài.
Tuổi trung bình của người Singapore là 73 và số thành viên trung bình trong gia
đình là 3,5 người. Năm 2010, tỉ lệ sinh nở là 1,1 trẻ em trên một phụ nữ, thấp thứ ba
trên thế giới và dưới tỉ lệ cần thiết 2,1 để giữ vững số dân.
Để giải quết vấn đề này, chính quyền Singapore đang khuyến khích những người
nước ngoài tới định cư tại Singapore. Một lượng lớn dân định cư giữ cho dân số của
Singapore không giảm quá nhanh.
( Dân số Singapore khá đông )
Khoảng 40 phần trăm dân số là người nước ngoài, đây là tỉ lệ cao thứ sáu trên
thế giới. Chính quyền mời gọi người làm việc ngoại quốc, mặc dù điều này đồng
nghĩa với việc họ sẽ giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.Lao động
nước ngoài chiếm đến 80% trong ngành công nghiệp xây dựng và 50% trong công
nghiệp dịch vụ.
Tổng số dân của nước này là 4.553.009 người (tính đến tháng 7 năm 2007) trong
đó 76,8% là người Hoa, 13,9% người Mã Lai, 7,9% người Ấn Độ, Pakistan và Sri
Lanka; 1,4% người gốc khác
Về tôn giáo, Singapore là một quốc gia đa tôn giáo, theo thống kê khoảng 51%
dân số Singapore theo Phật giáo và Đạo giáo, 15% dân số (chủ yếu là người Hoa,
người gốc Âu, và người Ân Độ) là tín đồ Đạo Cơ đốc.Hồi giáo chiếm khoảng 14%
dân số, chủ yếu tồn tại trong các cộng đồng người Mã Lai, người Ấn Độ theo Hồi
giáo, và người Hồi (người Hoa theo Hồi giáo). Có khỏang 15% dân số Singapore
tuyên bố họ không có tôn giáo, cá tôn giáo khác không đáng kể.
Trẻ em bắt đầu đi học khi 6 tuổi, hệ thống giáo dục cơ bản của Singapore là 10
năm, 6 năm cấp I và 4 năm cấp II. Sau đó, học sinh có thể chọn tiếp dự bị đại học
( pre-university) hoặc vào các trường kỹ thuật ( polytechnic ).
1.5.
Văn hóa :
Văn hóa của Singapore là một nền văn hóa đa sắc tộc:
Sự có mặt của nhiều dân tộc trên đảo quốc này trong một thời kỳ dài đã có
những căng thẳng. Nhưng cho đến nay Singapore đã thực sự là một đất nước biết hòa
hợp và phát triển nét đặc sắc của văn hóa nhiều dân tộc.
Quốc kỳ của Singapore gồm 2 phần:
-
Nửa ở trên màu đỏ có thình trăng lưỡi liềm và 5 ngôi sao, nửa dưới màu
trắng. Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho mối tình anh em giữa người với
người, giữa các dân tộc trên thế giới, và sự bình đẳng của con người. Còn
một cách hiểu khác đó là vì Singapore là một nước đa dân tộc (gồm Trung
Quốc, Malaysia, Ấn Độ,…) nên có thể hiểu màu đỏ này theo nhiều mặt: sự
can đảm và dũng cảm của những người Malaysia, sự may mắn của những
người Trung Quốc.
-
Màu trắng là biểu tượng của sự trong sạch và tinh khôi vĩnh viễn, không
nhơ bẩn. Trăng lưỡi liềm có nghĩa biểu trưng cho 1 quốc gia trẻ còn đang
trên đường phát triển. Năm ngôi sao nhỏ gần mặt trăng tượng trưng cho
năm lý tưởng của quốc gia Singapore: dân chủ, sự bình đẳng, hòa bình,
phát triển và công bằng.
Đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng
tộc – đa văn hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã
Lai, người Ấn, người Peranakan và những người lai Á Âu.
( Singapore một đất nước đa sắc tộc )
Ngày nay, người Hoa chiếm 74,2% dân số Singapore, người Mã Lai – những cư
dân đầu tiên của nước này, chiếm 13,44%, người Ấn chiếm 9,2%, còn lại là người lai
Á Âu, Peranakan và các dân tộc khác chiếm 3,2%.
Singapore còn là nơi sinh sống và làm việc của một cộng đồng người nước ngoài
rộng lớn với khoảng 20% là lực lượng lao động phổ thông đến từ Philippin, Indonesia
và Bangladesh. Số người nước ngoài còn lại đều là những chuyên gia đến từ nhiều
quốc gia khác nhau như Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.
Sự hòa hợp dân tộc dẫn đến việc hình thành những nhóm tôn giáo khác nhau:
Khoe mình trên nền trời Singapore là những tòa tháp đặc biệt của các giáo đường
Hồi giáo, những ngọn tháp hình chóp của các thánh đường với lối kiến trúc Gôtích,
những tượng thần phức tạp của các đền thờ Hindu và những mái nhà với lối kiến trúc
khác biệt của các ngôi chùa Trung Hoa. Các tôn giáo chính ở đây là Hồi Giáo, Lão
Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Giáo, Độc Thần Giáo, (còn gọi là đạo Sikh,
một tôn giáo phát triển từ Ấn độ giáo vào thế kỷ XVI và dựa trên tín ngưỡng chỉ một
Thần) và Do Thái Giáo (Theo Uniquely Singapore).
( Kiến trúc Gô Tích )
Tính đa dạng về văn hóa của Singapore còn được phản ánh qua ngôn ngữ:
Singapore có ngôn ngữ đại diện cho từng dân tộc trong số bốn nhóm dân tộc
chính của mình. Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là tiếng
Anh, tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Tuy nhiên, để ghi nhớ dân tộc Mã Lai là
những cư dân bản địa đầu tiên của đất nước, ngôn ngữ quốc gia được chọn là tiếng
Bahasa Melayu, hay còn gọi là tiếng Mã Lai.
Sự có mặt của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các biến thể của tiếng Mã Lai và
tiếng Hoa, đã có ảnh hưởng rõ rệt đến cách dùng tiếng Anh tại Singapore. Ảnh hưởng
này đặc biệt rõ nét trong cách sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp thông thường, một
dạng tiếng Anh lai tiếng địa phương thường được biết đến với tên gọi Singlish. Là
một dấu hiệu đặc trưng để nhận biết người Singapore, ngôn ngữ này tiêu biểu cho
hình thức biến tấu ngôn ngữ bằng cách lồng ghép các từ của tiếng Mã Lai, tiếng Hoa
và tiếng Ấn vào tiếng Anh.
Hầu như mọi người dân Singapore đều có thể nói nhiều hơn một thứ tiếng, trong
đó nhiều người có thể nói được tới ba hoặc bốn thứ tiếng. Hầu hết trẻ em lớn lên trong
môi trường song ngữ từ thuở nhỏ và có thể học các ngôn ngữ khác khi lớn lên.
Trong phần lớn dân số biết hai thứ tiếng, tiếng Anh và tiếng Hoa phổ thông là hai
ngôn ngữ được dùng phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi tiếng Anh là
ngôn ngữ chính được dạy ở trường học thì trẻ em vẫn học tiếng mẹ đẻ để duy trì
truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Văn hóa Mã lai được thể hiện trong tư tưởng tôn giáo, phong tục tập quán của
họ cũng có quan hệ với tôn giáo:
Luật của đạo Islam và chế độ Sultan đã duy trì quan hệ đoàn kết và thái độ an
phận trong cuộc sống của người dân Singapore. Người Mã lai khi lấy vợ, lấy chồng
thường mời gần như toàn bộ người trong thôn bản đến tham dự lễ cưới của họ, khách
đến dự đám cưới sau khi cơm no rượu say ra về trên tay còn cầm một quả trứng luộc
chín với hàm ý mong cho họ đông con, đông cháu.
Khi ăn cơm không được đặt đũa lên trên bát hoặc đặt lên đĩa thức ăn. Khi không
ăn nữa cũng không được đặt lung tung mà phải đặt trên giá, đĩa tương ớt hoặc đặt trên
đĩa đựng xương. Nếu là nhân viên hàng hải, người làm nghề cá hoặc những người
thích chèo thuyền, khi ăn cơm không được lật con cá, bởi vì việc đó đồng nghĩa với
việc lật con tàu lật thuyền, do đó phải tách con cá đó ra, ăn từ trên xuống dưới.
Đối với người Singapore, dùng ngón tay trỏ chỉ người khác, nắm chặt nắm tay
hoặc ngón tay giữa đều bị coi là những động tác cực kỳ vô lễ. Hai tay không được tùy
tiện chắp vào sườn bởi vì đó là biểu hiện của sự bực tức.
Người Singapore cho rằng con số “4”, “7”, “13”, “37”, và “69” là những con số
tiêu cưc và không may mắn, họ ghét và kỵ nhất con số “7”, bình thường họ cố hết sức
để tránh gặp phải con số này.
Người Singapore quan niệm màu đen là màu không may mắn, màu tím cũng là
màu họ không thích. Họ chỉ thích màu hồng màu đỏ, bởi vì theo họ màu này tượng
trưng cho sự trang nghiêm, nhiệt huyết mãnh liệt, vui vẻ, dũng cảm và tượng trưng
cho sự khoan dung, độ lượng. Họ cũng thích màu xanh da trời và màu xanh lá cây.
Trong những ngày đầu năm mới, người dân Singapore không bao giờ quét dọn
nhà cửa, không gội đầu, bởi vì họ cho rằng làm như vậy sẽ mất hết may mắn, không
được đánh vỡ đồ đạc trong phòng, nhất là không được làm vỡ gương, vì đó là biểu
hiện của chuyện xấu và không may mắn; không được mặc đồ trắng, không được dùng
kim hoặc kéo, bởi vì những vật dụng này có thể đem đến vận hạn cho họ.
Đạo Islam là đạo chính của Singapore, đạo này cấm uống rượu, cấm ăn thịt lợn
và những đồ ăn chế biến từ lợn.
Người dân Singapore không hưởng ứng hút thuốc lá. Ở một số nơi như cầu thang
máy, rạp chiếu phim, trên những phương tiện giao thông công cộng nhất là trong văn
phòng…, quy định là nghiêm cấm hút thuốc, những ai vi phạm quy định này sẽ bị
phạt 500$ Singapore. Tại các nơi khác, cứ muốn hút thuốc phải hỏi ý kiến và được sự
đồng ý của đối phương.
Khi nói chuyện và trong giao tiếp, người ta tuyệt đối cấm kỵ bàn luận sự được
mất và chính trị hoặc sự tranh giành xô xát chủng tộc, thị phi tôn giáo…. nhưng có thể
bàn những kinh nghiệm du lịch, cũng có thể về những nơi nổi tiếng, ở các nơi mà bản
thân đã đi qua. Chủ đề được người dân Singapore bàn tới nhiều nhất là về những món
ăn sơn hào hải vị và khách sạn, nhà hàng.
Người Singapore rất kỵ nói “chúc phát tài” bởi vì họ luôn hiểu từ “tài” là “tài bất
nghĩa” hoặc “phúc bất nhân”. Khi nói “chúc phát tài” sẽ bị coi là chế giếu mắng chửi
và sỉ vả người khác.
Một số lễ hội tiêu biểu như :
-
Lễ hội ánh sáng Deepanah :
Lễ hội ánh sáng Deepanah là lễ hội của người theo đạo Hindu để biểu thị sự
chiến thắng của cái thiện với cái ác, từ đó soi rọi ánh sáng nơi u tối. Lễ hội này chủ
yếu được diễn ra tại khu tiểu Ấn của Singapore, trong lễ hội này, người theo đạo
Hindu trang hoàng nhà cửa với hàng chục ngọn đèn người ta tổ chức hội hè, bạn bè
đến thăm để chúc mừng nhau.
Riêng con đường Campbell ở khu Tiều Ấn Độ biến thành một làng lễ hội, trong
đó có trưng bày những sản phẩm văn hóa Ấn Độ gồm hàng nữ trang, đồ thú rừng, mỹ
nghệ, đồ gia dụng, tặng phẩm và gia vị. Những ngọn đèn trong hội hè góp phần thể
hiện những tác phẩm văn hóa của những nghệ nhân tài hoa, đại diện cho một sự hòa
trộn hiếm hoi giữa văn hóa miền Bắc và miền Nam Ấn độ.
( Lễ hội ánh sáng Deepanah )
-
Lễ hội đèn Giáng Sinh :
Giáng Sinh luôn là dịp mong chờ nhất của người dân trên toàn thế giới và người
Singapore cũng không ngoại lệ, họ còn tổ chức hẳn một lễ hội mang tên đèn giáng
sinh để kỷ niệm ngày lễ này.
(Lễ hội đèn Giáng Sinh )
Đây có thể coi là lễ hội kéo dài nhất ở Singapore (từ tháng 11 đến tháng 1 năm
sau). Trong dịp này, trên con đường Orchard là vô số ngọn đèn hoa lệ được dùng để
chiếu sáng cho những tiết mục biểu diễn đầy hấp dẫn. Ngoài ta, 2 bên đường cũng
được dựng những cổng chào bắt mắt, đẹp đẽ được trang trí bằng những đuôi nheo và
chuông xinh xắn. Đây cũng là dịp để các khách sạn, cửa hàng thi thố tài năng trang trí
để có thể đoạt danh hiệu “tòa nhà đẹp nhất”. Đôi khi du khách còn nghe thấy những
tiếng hát thiên thần vang lên trong những sinh hoạt đặc biệt trong lễ giáng sinh được
tổ chức ở một cửa hàng nào đó.
-
Lễ hội Hari Raya Puasa :
Lễ hội Hari Raya Puasa là một lễ hội lớn đầy màu sắc thú vị và lôi cuốn trong
văn hóa đất nước Singapore. Các bạn sẽ thỏa sức tận hưởng một không khí lễ hội náo
nhiệt với những con phố được trang hoàng rực rỡ cùng những sạp hàng mở cửa tới tận
khuya, bày bán đủ các loại mặt hàng từ thực phẩm, vải vóc đến các loại mặt hàng mỹ
nghệ.