Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Các cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.07 KB, 119 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNG HNG PHI

CáC CƠ CHế BảO ĐảM QUYềN TIếP CậN CÔNG Lý
ở VIệT NAM HIệN NAY

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNG HNG PHI

CáC CƠ CHế BảO ĐảM QUYềN TIếP CậN CÔNG Lý
ở VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: 8380101.07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS V CễNG GIAO

H NI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trƣơng Hồng Phi


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NH NG VẤN Đ L LUẬN CƠ CH V

ẢO ĐẢM

QUY N TI P CẬN CÔNG L Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........... 12
1.1.

Khái niệm công lý và quyền tiếp cận công lý................................. 12

1.1.1. Khái niệm công lý .............................................................................. 12

1.1.2. Nhận định của học viên về quyền tiếp cận công lý ............................ 16
1.2.

Chủ thể nội dung và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp
cận công lý ......................................................................................... 17

1.2.1. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý ............................. 17
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý ......................................... 19
1.2.3. Chủ thể trong quan hệ về quyền tiếp cận công lý .............................. 20
1.3.

Các cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý .................................. 21

1.3.1. Sự bảo vệ pháp lý ............................................................................... 22
1.3.2. Cơ chế pháp lý .................................................................................... 23
1.3.3. Năng lực thực hiện quyền của ngƣời dân........................................... 27
1.4.

Quyền tiếp cận công lý trong pháp luật quốc tế ............................ 30

Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT ẢO ĐẢM
QUY N TI P CẬN CÔNG L Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................. 36
2.1.

ảo đảm về chính trị với quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................. 36

2.2.


ảo đảm về pháp lý với quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................. 44


2.3.

ảo đảm bằng cơ chế thực hiện quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 56

2.3.1. Các cơ chế tƣ pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 56
2.3.2. Hoạt động tƣ vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý ................................. 75
2.4.

Các rào cản việc tiếp cận công lý .................................................... 83

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 87
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP

ẢO ĐẢM QUY N TI P CẬN

CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................... 88
3.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật........................................................ 88

3.2.

Đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận công lý ..................................................... 92


3.3.

Hoàn thiện cơ chế bảo hiến để bảo đảm quyền tiếp cận công lý ..... 97

3.4.

Đa dạng hoá các loại nguồn pháp luật để bảo vệ công lý ........... 101

3.5.

Tăng cƣờng tiếp cận công lý qua hệ thống trợ giúp pháp lý...... 104

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 107
K T LUẬN .................................................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110


DANH MỤC CÁC TỪ VI T TẮT

BLTTHS:

Bộ Luật tố tụng Hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐHQGHN:


Đại học Quốc Gia Hà Nội

UNDP:

Liên Hợp Quốc

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý và đấu tranh cho quyền đƣợc tiếp cận công lý là hai vấn đề đặt
ra từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trải qua những hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau, đây luôn là những phạm trù thƣờng trực trong ý niệm
của loài ngƣời.
Cho đến hiện nay, nhận thức phổ biến của nhân loại đó là: công lý là nền
tảng cho hoà bình, ổn định và sự phát triển của tất cả các xã hội. Mặc dù vậy,
quan niệm về các thuộc tính của công lý ít nhiều vẫn còn có sự khác nhau giữa
các quốc gia, dân tộc, do phụ thuộc vào nhiều điều kiện khách quan.
Trong kỷ nguyên hiện đại, tiếp cận công lý không chỉ thuần túy là một
mong ƣớc của các cá nhân, mà đã là một quyền con ngƣời cơ bản, là một tiêu
chuẩn quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, một hệ thống
pháp luật. Theo luật nhân quyền quốc tế, các nhà nƣớc đều có nghĩa vụ tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm công lý cho mọi ngƣời dân [13].
Ở Việt Nam, kể từ Đổi mới (1986) đến nay, Đảng và Nhà nƣớc đã thấy rõ
sự cần thiết của việc bảo đảm công lý nhƣ là một yếu tố nền tảng cho việc xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc

Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã hiện thực hoá một phần tƣ tƣởng này thông
qua việc đặt ra mục tiêu hoàn thiện hệ thống tƣ pháp theo hƣớng bảo vệ công lý,
lẽ phải, lẽ công bằng: “Các cơ quan tƣ pháp phải thật sự là chỗ dựa của ngƣời
dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời”, “Xây dựng nền tƣ pháp vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý…” [11]. Các Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, XII của Đảng (năm 2011, 2016) đã tiếp tục khẳng
định yêu cầu bảo vệ công lý trong Báo cáo chính trị [2].

1


Từ định hƣớng quan trọng nêu trên của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã
bổ sung quy định tại Điều 102: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý…” [24]. Nhƣ vậy, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những
mục tiêu cơ bản trong chiến lƣợc phát triển đất nƣớc ta hiện nay, đƣợc cả
Đảng, Nhà nƣớc và toàn xã hội thừa nhận và hƣớng tới nhƣ là một giá trị xã
hội tiến bộ, nhân văn, gắn liền với sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Điều
này đòi hỏi phải có những nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về công lý và
quyền tiếp cận công lý từ tất cả các góc độ, qua đó thể chế hoá đầy đủ và
chính xác các quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề này vào
hệ thống pháp luật và bảo đảm thực thi trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về công lý và quyền tiếp cận công lý ở
nƣớc ta cho đến nay vẫn còn rất ít, phạm vi nội dung còn hẹp, phân tích còn
sơ sài, chủ yếu từ góc độ tiếp cận của luật học, chỉ gắn với một vấn đề chủ
yếu là bảo đảm sự công bằng trong quá trình tố tụng. Nói cách khác, những
nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam chưa mang tính chất toàn diện, hệ
thống và cơ bản, mà mới chỉ mang tính chất ứng dụng một số tiêu chuẩn về
tiếp cận công lý mà đƣợc một số tổ chức quốc tế đề xuất. Cách tiếp cận và nội
dung nhƣ vậy hoàn toàn chƣa đủ để có thể thể chế hoá và triển khai thực hiện
một chủ trƣơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc, đó là bảo đảm công lý

cho ngƣời dân trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, trong
đó đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan tƣ pháp (rộng hơn nhiều so với
quá trình tố tụng).
Nhƣ vậy, việc có thêm những nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về
công lý và quyền tiếp cận công lý là rất cần thiết ở nƣớc ta hiện nay để khoả
lấp khoảng trống tri thức về vấn đề đặc biệt quan trọng này. Những nghiên
cứu nhƣ vậy sẽ giúp mở rộng tri thức về vấn đề; nhận thức rõ bản chất, đặc
điểm, nội dung của vấn đề; kiểm định tính phù hợp của những lý thuyết phổ

2


biến trên thế giới về vấn đề này trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Tất cả
những điều đó giúp đặt nền tảng lý luận khoa học cho việc cụ thể hoá các quan
điểm, chính sách của Đảng, cũng nhƣ hoàn thiện khuôn khổ pháp luật của Nhà
nƣớc Việt Nam về công lý và quyền tiếp cận công lý trong thời gian tới.
Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “Các cơ chế bảo đảm
quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công lý và quyền tiếp cận công lý là những vấn đề đã đƣợc đề cập từ
lâu bởi nhiều nhà tƣ tƣởng nƣớc ngoài. Ở Việt Nam, mặc dù đây là vấn đề
khá mới, song cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này đƣợc
công bố từ trƣớc tới nay.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu ở nƣớc ngoài có thể kể nhƣ sau:
- Cuốn: “The Theory of Justice” (Lý thuyết về công lý) của Rudolf Stammler
(1856-1938), do Nhà xuất bản Macmilan ấn hành năm 1925 và đƣợc Nhà
xuất bản Augustus M. Kelley Pubisher tái bản năm 1969. Trong cuốn sách
này, Rudolf Stammler đã tập trung phân tích các quan điểm về công lý của
các nhà tƣ tƣởng cổ đại, từ đó cố gắng làm rõ khái niệm công lý trong mối
quan hệ với luật pháp, đặc biệt là luận giải những phƣơng thức bảo đảm

công lý trong luật pháp.
- Cuốn: “Justice According to Law” (Công lý dựa trên nền tảng luật pháp)
của Nathan Roscoe Pound (1870-1964), do Nhà xuất bản Yale University Press
ấn hành năm 1951. Trong cuốn sách này, Roscoe Pound đã hệ thống hóa và
phân tích khía cạnh cơ bản của công lý và pháp luật. Ông cho rằng công lý là
khát vọng của con ngƣời về một cuộc sống văn minh, đồng thời là một phẩm
hạnh cá nhân, một quan niệm đạo đức hay một cơ chế kiểm soát xã hội.
- Cuốn: “Justice” (Công lý) của Josef Pieper (1940-1997), do Nhà xuất
bản Pantheon ấn hành năm 1955. Cuốn sách này tập trung làm rõ những luận

3


điểm của Thomas Aquinas (1225-1274, nhà tƣ tƣởng, nhà thần học nổi tiếng
thời trung cổ ở châu Âu) về mối quan hệ giữa công lý và quyền, từ đó cho
rằng các quyền là cái có trƣớc, công lý là điều xuất hiện sau, khi các quyền
đƣợc thừa nhận thì công lý sẽ xuất hiện nếu các quyền bị vi phạm, do đó công
lý chính là nghĩa vụ với ngƣời khác.
- Cuốn: “A Theory of Justice” (Lý thuyết về công lý), của John Rawls
(1921-2002) do Nhà xuất bản Belknap Press ấn hành năm 1977. Trong cuốn
sách này, John Rawls đã đề xuất những quan điểm đƣợc xem nhƣ là học
thuyết về hệ thống công bằng xã hội, trong đó ông cho rằng công lý là nền
tảng cho hợp tác kinh tế và việc phân phối các lợi ích trong xã hội.
- Cuốn: “Justice - Alternative Political Perspectives” (Công lý - Các
triển vọng chính trị lựa chọn), của James P.Sterba, do Nhà xuất bản Đại học
Notre Dame, Wadsworth Inc. ấn hành năm 1980. Trong cuốn sách này, James
P.Sterba đã phân tích những chiều cạnh khác nhau của khái niệm công lý, các
đặc tính cơ bản của trƣờng phái công lý chính nhƣ công lý tƣơng giao, công
lý vị lợi, công lý tự do và công lý xã hội chủ nghĩa.
- Cuốn: “Natural Justice” (Công lý tự nhiên) của Geofrey A Flick, do

nhà xuất bản Butterworths ấn hành năm 1979, tái bản năm 1984. Cuốn sách
tập trung luận giải về công lý tự nhiên nhƣ là nền tảng cho sự công bằng trong
hoạt động tố tụng, để đảm bảo tòa án thực sự là thiết chế khách quan, công
tâm, không thiên vị. Các nội dung cơ bản của cuốn sách bao gồm: Các nguyên
tắc xét xử; Các nguyên tắc kiểm tra chứng cứ; Nghĩa vụ đƣa ra lý do; Các
nguyên tắc khách quan, không thành kiến.
- Cuốn: “Natural Law and Justice” (Luật tự nhiên và Công lý), của
Lloyd L. Weinbeb, do nhà xuất bản Havard University Press ấn hành năm
1987. Trong cuốn sách này, tác giả phân tích quan niệm về công lý trong luật
tự nhiên và luật thực định, chỉ ra những khác biệt về ý tƣởng, giá trị và những

4


đóng góp của công lý với những phạm trù tự do và bình đẳng thông qua lăng
kính của cả hai trƣờng phái luật tự nhiên và luật thực định.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu ở trong nƣớc có thể kể nhƣ sau:
- Cuốn: “Đây “công lý” của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nhà xuất
bản Sự thật, năm 1962. Cuốn sách này tập hợp một số bài viết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về công lý trong giai đoạn 1921-1926, trong đó tác giả phân tích
một số khía cạnh của công lý nhƣng chủ yếu tập trung vào việc phê phán
những hành động phi công lý của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam
trong thời kỳ thuộc địa.
- Cuốn: “Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của Nhà triết
học Mĩ - John Rawls” của Trần Thảo Nguyên, Nhà xuất bản Thế giới xuất
bản năm 2006. Trong cuốn sách này, tác giả tập trung phân tích ý nghĩa và
khả năng ứng dụng của học thuyết về công lý của John Rawls tại Việt Nam.
Từ mệnh đề công lý nhƣ là công bằng của John Rawls, tác giả cho rằng công
lý là cái gốc của công bằng, có ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn công bằng.
- Báo cáo: “Tiếp cận pháp luật và tư pháp: Lý luận và thực tiễn” của

Hội Luật gia Việt Nam thực hiện năm 2007. Báo cáo là kết quả nghiên cứu từ
một dự án do Đại sứ quán Hoa Kỳ tài trợ. Đây là công trình nghiên cứu đầu
tiên khảo cứu một cách toàn diện về vấn đề này ở Việt Nam. Báo cáo phân
tích khái niệm tiếp cận công lý (gọi là tiếp cận pháp luật và tƣ pháp) và cơ chế
bảo đảm quyền tiếp cận công lý theo mô hình của UNDP, đồng thời đề xuất
những giải pháp thúc đẩy quyền này ở Việt Nam.
- Cuốn: “Quyền con người trong thi hành công lý” của Tòa án nhân
dân tối cao, Nhà xuất bản lao động - xã hội, năm 2010. Cuốn sách gồm 15
chƣơng, cung cấp những thông tin nhằm giúp ngƣời đọc mà chủ yếu là cán bộ
tòa án có kiến thức tƣơng đối toàn diện về các quyền cơ bản của con ngƣời và
việc bảo đảm các quyền này trong quá trình thực thi công lý.

5


- Cuốn “Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến” của Khoa Luật ĐHQG
Hà Nội và NXB ĐHQG Hà Nội ấn hành năm 2011 (Phạm Hồng Thái,
Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao đồng chủ biên). Cuốn sách tập hợp 30 bài
viết về nhiều vấn đề liên quan đến pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến của
nhiều tác giả nƣớc ngoài và Việt Nam. Công lý và tiếp cận công lý là một nội
dung đƣợc phân tích trong nhiều bài viết nhƣ là một điều kiện, vừa là kết quả
của việc thực hiện các nguyên tắc pháp quyền. Việc bảo vệ công lý cũng là
một yêu cầu của chủ nghĩa hợp hiến.
- Báo cáo: “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng
dựa trên ý kiến của người dân năm 2012” của Hội Luật gia Việt Nam và
Chƣơng trình phát triển Liên hiệp quốc (tháng 7/2013). Báo cáo giới thiệu
một hƣớng tiếp cận mới để đánh giá kết quả tiến trình cải cách luật pháp và tƣ
pháp đang diễn ra, đó là Chỉ số công lý. Báo cáo cũng tổng hợp kết quả khảo
sát Chỉ số công lý đƣợc thực hiện trên 21 tỉnh, thành phố vào năm 2012, dựa
trên 5 nội dung: Khả năng tiếp cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu

quả, Bảo đảm các quyền cơ bản.
-Báo cáo: “Tiếp cận công lý trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên
cứu điển hình về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam” của Cơ quan
Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women),
năm 2015. Báo cáo phân tích thực trạng tiếp cận công lý của những phụ nữ là
nạn nhân của bạo lực gia đình ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cƣờng khả năng của nhóm phụ nữ này trong việc hƣởng thụ các quyền
đƣợc tƣ vấn, trợ giúp pháp lý, và đƣợc bảo vệ bởi các cơ quan tƣ pháp.
- Loạt báo cáo nghiên cứu và kỷ yếu hội thảo khoa học trong khuôn
khổ Dự án “Tăng cƣờng tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” do
Bộ Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan pháp luật và tƣ pháp khác của
Việt Nam thực hiện, Chƣơng trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tài

6


trợ thực hiện trong giai đoạn 2009-2014. Các báo cáo và kỷ yếu hội thảo khoa
học này đề cập đến việc hoàn thiện các văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực
nhƣ luật hiến pháp, luật hành chính, luật dân sự, luật hình sự, luật kinh tế…
theo hƣớng nâng cao việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền của ngƣời dân, trong
đó có quyền tiếp cận công lý.
- Bài: “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền”
của Vũ Công Giao, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25, năm 2009. Bài
viết phân tích khái niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý, nền tảng của tiếp
cận công lý và sự tƣơng thích giữa các nguyên tắc của tiếp cận công lý với
các nguyên tắc của nền pháp quyền tại Việt Nam.
- Bài: “Quyền tiếp cận công lý trong tố tụng hình sự” của Đinh Thế
Hƣng, Tạp chí Nghề luật, số 1 năm 2011. Trong bài viết, tác giả luận giải khái
niệm công lý nói chung và công lý trong tố tụng hình sự nói riêng, xác định
quyền tiếp cận công lý trong tố tụng hình sự là một quyền con ngƣời cơ bản

trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN, đồng thời nhận diện những trở ngại trong
quá trình tiếp cận công lý của hệ thống tố tụng hình sự tại Việt Nam.
- Bài: “Về khái niệm “công lý” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992” của Nguyễn Xuân Tùng, đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số tháng
11/2013. Bài viết tập trung phân tích sự hình thành và phát triển nhận thức về
công lý từ khi hình thành Nhà nƣớc cách mạng nhân dân đến Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Bài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công lý” của Nguyễn Xuân Tùng,
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 11/2013. Bài viết tập trung
hệ thống, phân tích và làm rõ hơn tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công lý. Theo đó,
công lý đƣợc khẳng định là một bộ phận quan trọng của tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời; về độc

7


lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; về sức mạnh nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nƣớc thật sự của dân, do dân, vì dân.
- Bài: "Bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền được trợ gi p pháp lý của
người khuyết tật, sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế"
của Trần Thái Dƣơng, đăng trên Tạp chí Luật học, số tháng 10 năm 2014.
Từ những công trình đã nêu ở trên, có thể thấy ở trên thế giới vấn đề
công lý đã đƣợc nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc, từ nhiều góc độ. Trong
khi đó, ở Việt Nam công lý và tiếp cận công lý là những vấn đề đã đƣợc đề
cập nhƣng còn rất ít. Mới chỉ có một vài học giả, nhà nghiên cứu (chủ yếu
làm việc trên lĩnh vực luật học) viết về vấn đề này. Hầu hết những công trình
nghiên cứu đề cập gián tiếp đến vấn đề công lý qua các phạm trù có liên
quan nhƣ pháp quyền, dân chủ, nhân quyền, tƣ pháp độc lập, chủ nghĩa hợp

hiến. Mới chỉ có một vài nghiên cứu trực tiếp về công lý nhƣng chƣa có
công trình nào đề cập toàn diện và chuyên sâu về vấn đề này. Nói cách khác,
có thể khẳng định có một khoảng cách rất lớn trong nghiên cứu lý luận về
công lý và tiếp cận công lý giữa Việt Nam và các nƣớc khác trên thế giới.
Thêm vào đó, có một khoảng trống rất lớn trong nhận thức lý luận về pháp
luật về quyền tiếp cận công lý ở nƣớc ta. Vì vậy, luận văn này vẫn có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam, qua đó chỉ ra những
khoảng trống trong nhận thức và pháp luật hiện hành về vấn đề này ở nƣớc ta
và đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền
tiếp cận công lý ở Việt Nam trong thời gian tới.

8


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn phải giải quyết
đƣợc các nhiệm vụ cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về quyền tiếp cận công lý
và bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở trên thế giới và Việt Nam.
Thứ hai, phân tích quy định về bảo đảm quyền tiếp cận công lý trong
pháp luật Việt Nam từ trƣớc tới nay, đặc biệt là trong pháp luật hiện hành, chỉ
ra những điểm tƣơng thích và chƣa tƣơng thích với quan điểm và tiêu chuẩn
quốc tế và lý giải những nguyên nhân.
Thứ ba, trên cơ sở giải quyết hai nhiệm vụ cụ thể nêu trên, luận văn đƣa
ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về
quyền tiếp cận công lý trong pháp luật hiện hành của Việt Nam phù hợp với

các tiêu chuẩn quốc tế, xu hƣớng trên thế giới và những yêu cầu thực tiễn về
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, hội nhập quốc tế của nƣớc ta.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bảo đảm
quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, do giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả chủ
yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng chính sách,pháp luật
về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. Những vấn đề thực tiễn thực thi
pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận công lý cũng đƣợc đề cập, nhƣng chỉ ở mức
độ khái quát, để làm cơ sở đánh giá khung khổ pháp luật về vấn đề này.
- Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu khuôn khổ pháp luật hiện hành
về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam (trong khoảng 5 năm gần đây).
- Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về bảo đảm

9


quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên
quan trên thế giới cũng đƣợc đề cập nhƣng chỉ ở mức độ khái quát, để thực
hiện phân tích so sánh.
5. Cơ sở lý luận phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác –Lê nin. Tác giả đồng thời vận dụng các lý thuyết
về công lý, pháp quyền và nhân quyền của nhiều nhà tƣ tƣởng khác trên thế
giới để làm nền tảng cho việc phân tích làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận nói trên, tác giả kết hợp sử dụng các

phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu:
- Các phƣơng pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
tiếp cận công lý ở Việt Nam (ở Chƣơng 1).
- Các phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các văn bản
pháp luật, tài liệu chuyên môn để đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận
công lý ở nƣớc ta hiện nay (ở Chƣơng 2).
- Các phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp thúc đẩy quyền tiếp cận công lý ở nƣớc ta trong thời gian tới
(ở Chƣơng 3).
6.

nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là nghiên cứu tƣơng đối toàn diện về bảo đảm quyền tiếp
cận công lý ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn
góp phần củng cố những tri thức khoa học về bảo đảm quyền tiếp cận công
lý ở Việt Nam, đặc biệt là việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về vấn đề này
ở nƣớc ta.

10


Với những điểm mới nhƣ vậy, luận văn là một tài liệu tham khảo tốt
cho các cơ quan nhà nƣớc có liên quan trong quá trình hoàn thiện và thực thi
pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận công lý trong những năm tới. Luận văn
đồng thời là một học liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy các ngành luật hiến
pháp và luật nhân quyền ở Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ
sở đào tạo, nghiên cứu luật khác ở nƣớc ta.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Thực trạng chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận
công lý ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay.

11


Chƣơng 1
NH NG VẤN Đ L LUẬN CƠ CH V

ẢO ĐẢM QUY N TI P

CẬN CÔNG L Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm công lý và quyền tiếp cận công lý
1.1.1. Khái niệm công lý
Ngay từ thời kỳ cổ đại, cả ở phƣơng Đông và phƣơng Tây, công lý
(justice) thƣờng đƣợc đồng nghĩa với khát vọng về tự do và công bằng. Ứớc
nguyện về công lý đƣợc thể hiện qua nhiều câu chuyện thần thoại và những
bộ sách kinh điển nổi tiếng để lại trong lịch sử. Ví dụ, thần thoại Hy Lạp ra
đời khoảng từ 2000 - 1100 TCN đã khắc họa hình tƣợng nữ thần công lý
Thémix một tay cầm cân, một tay cầm thanh kiếm, mắt bịt một băng vải để
chứng tỏ sự vô tƣ, không thiên vị, xử lý nghiêm khắc đối với các hành động
gian tà để đem lại sự ổn định và phát triển hài hòa của thế gian. Bộ luật
Hammurabi, bộ luật thành văn cổ xƣa nhất của nhân loại ra đời khoảng từ 1792
- 1750 TCN đã nói đến công lý và coi công lý là cơ sở của nền cai trị nhân từ,

công bằng nhằm đem lại sự thái bình và hạnh phúc cho ngƣời dân. Công lý
cũng đƣợc minh họa trong vở kịch Antigone của Sophocle (496-406 TCN),
trong đó nàng Antigone vì tình thƣơng, lẽ phải và đạo lý đã chống lại cƣờng
quyền của vua Creon.
Nhà triết học Hy lạp Plato (428- 348 TCN) cho rằng, công lý là một
khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của con ngƣời với cộng đồng.
Trong khi đó, theo Aristotle (384-322 TCN), công lý cốt ở việc đối xử bình
đẳng với những ngƣời ngang nhau và bất bình đẳng với những ngƣời không
ngang hàng, tƣơng xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Công lý đƣợc chia
thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án sửa chữa lỗi lầm do một bên phạm đối
với bên khác và “công lý phân phối” – tức là cách thức, nỗ lực cố gắng để

12


công bằng với mỗi ngƣời, đúng theo những gì mà ngƣời đó xứng đáng. Cicero
(144-46 TCN) cho rằng, công lý là một phẩm hạnh quan trọng nhằm giữ xã
hội thắt chặt bên nhau, nó cho phép chúng ta theo đuổi những điều tốt đẹp
chung vì sự tồn tại của xã hội. Chức năng đầu tiên của công lý là giữ cho mỗi
ngƣời khỏi làm những điều ác, có hại cho ngƣời khác [5, tr.129].
Trong thời trung cổ, công lý cũng thu hút sự chú ý của nhiều nhà tƣ
tƣởng. St.Augustine (354-420) cho rằng công lý cao hơn nhà nƣớc và là vĩnh
cửu. Ông coi công lý là điểm tựa chính trị, đạo lý trong mỗi thể chế: Nếu
không có công lý, nhà nước chỉ là một băng cướp có tổ chức mà thôi. Trong
khi đó, Thomas Aquinas (1225- 1274) cho rằng, công lý cung cấp những tiêu
chí quan trọng và cơ bản để đánh giá hiệu lực của các đạo luật thực định.
Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp, luật pháp không công bằng thì không
phải là luật pháp (Unjust laws are not laws). Luật, theo Thomas Aquinas, là
bất kỳ mệnh lệnh nào của lý tính do ngƣời cai quản xã hội đề ra vì hạnh phúc
chung. Luật vĩnh cửu là luật của Chúa mà thông qua đó Chúa điều khiển thế

giới, không làm cho các luật khác bắt nguồn từ nó trở nên thừa. Luật phải
phản ánh nguyên lý của Đạo đức và luật tự nhiên. Loài ngƣời cụ thể hóa các
nguyên lý, định đề của luật tự nhiên cần hƣớng đến cái thiện, làm việc thiện,
tránh cái ác, bị lƣơng tâm hạn chế, và chống bất công [29, tr.248].
Trong thời cận hiện đại, những lý luận về tự do và công lý tiếp tục đƣợc
thảo luận một cách sôi nổi và có hệ thống bởi các học giả nhƣ Montesquieu
(1689-1755), Voltaire (1694-1778), Jean Jacques Rousseau (1712-1778),
Thomas Jefferson (1743-1826) ... Tuy nhiên, phải đến thời hiện đại, nhiều vấn
đề của công lý mới đƣợc làm sáng tỏ. Ngƣời có nhiều công lao trong việc
nghiên cứu về công lý trong thời hiện đại là J. Rawls (1921-2002). Công trình
nghiên cứu đầu tiên của ông đƣợc xuất bản năm 1971 đã chỉ ra rằng, khái
niệm về tự do và bình đẳng có thể đƣợc thống nhất lại với nhau trong cái mà

13


ông gọi là công lý - công bằng. Rawls gọi lý thuyết của ông là lý thuyết công
lý như là sự công bằng. Câu hỏi công lý là gì đƣợc ông định nghĩa ngắn gọn
trong mệnh đề “justice as fairness” (công lý là sự công bằng). Công lý nhƣ là
sự công bằng là tâm điểm của toàn bộ học thuyết của Rawls. Trƣớc hết,
Rawls quan tâm đến mối quan hệ giữa cái đúng - cái thiện và cái công bằng.
Giữa chúng phải có sự sắp xếp theo một thứ tự nhất định: cái đúng (right)
trƣớc cái thiện (good), rồi đến cái công lí nhƣ là cái công bằng. Đã là cái công
bằng thì phải vừa là cái đúng và vừa phải là cái thiện. Điều ngƣợc lại thì chƣa
chắc là công lý. Đó là theo cách lý giải của Rawls. Có cái đúng chƣa chắc đã
là cái thiện và cái thiện chƣa chắc đã là cái đúng. Trong trƣờng hợp này chúng
ta không có công bằng, tức là chúng ta không có công lý. Cái thiện trƣớc hết
phải là cái đúng. Cũng nhƣ thế, cái công lý phải là cái đúng và phải là cái
thiện. Chúng phải là một. Là một sự hoàn thiện tối cao trong những trật tự
khác nhau của nhận thức. Chúng giúp cho mỗi ngƣời nhận thấy một cách

chính xác lợi ích riêng của mình trong mọi tình huống, chúng bổ sung cho
nhau, tôn vinh nhau và là điều kiện không thể thiếu đƣợc của cuộc sống của
con ngƣời. Rawls cho rằng, công lý là mẫu mực của cuộc sống, là mục đích
của cuộc sống, là cái tiên thiên của luật pháp, nó giúp cho luật pháp gìn giữ sự
thanh bình của cuộc sống, đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế. Công lý nhƣ
là cái thế thăng bằng của xã hội. Bản thân công lý, chính là nhƣ ở giữa, nếu
thái quá sẽ là bất công, thiếu sót sẽ làm tổn hại xã hội. Công lý còn là bình
đẳng, có khoảng cách nhƣ nhau giữa lợi ích và sự mất mát hay thua thiệt
trong các quan hệ xã hội. Cho nên công lý nhƣ là sự công bằng. Đây cũng là
lý lẽ làm căn cứ để Rawls bác bỏ lại thuyết vị lợi và vƣợt qua các lý thuyết
kinh tế học đƣơng thời để kéo con ngƣời về với một đòi hỏi chính đáng và
cao cả là cuộc sống của con ngƣời phải có công lý nhƣ là công bằng và dứt
khoát phải có sự phân biệt giữa cái đúng, cái thiện và cái công bằng, để có

14


những lựa chọn hợp lý nhất [7, tr.69]. Quan điểm của Rawls khá tƣơng đồng
với khái niệm về công lý trong cuốn Từ điển Luật Black, trong đó “công lý”
đã đƣợc định nghĩa là “sự công bằng và hợp lý, với ba ý niệm cơ bản: sự nhấn
mạnh về tầm quan trọng cá nhân, yêu cầu các cá nhân phải được đối xử một
cách phù hợp, không thiên vị và bình đẳng” [34, tr. 447].
Ở Việt Nam, khái niệm công lý đã đƣợc nhắc đến trong một số công
trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả nhƣ: Nguyễn Đăng Dung (Tòa án
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền); Nguyễn Văn Hiển
(Bàn về hệ thống pháp luật), Viện khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp (Đề tài
nghiên cứu cấp cơ sở “Mối quan hệ giữa pháp luật và công lý – Lý luận và
thực tiễn”), Vũ Công Giao (Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước
pháp quyền) …Tuy nhiên, ngƣời đƣa ra định nghĩa cụ thể nhất về công lý có
lẽ là tác giả Nguyễn Xuân Tùng, trong đó nêu rằng:

Công lý là một hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp và lịch sử, là
phẩm hạnh xã hội mang tính chính trị sâu sắc, là giá trị giúp mỗi
hành viên xã hội không làm phƣơng hại đến ngƣời khác và là căn
cứ để tòa án giải quyết các xung đột, tranh chấp, vi phạm trên cơ sở
đạo lý, lẽ phải, lẽ công bằng, qua đó, tạo dựng sự đồng thuận, ổn
định và trật tự xã hội [27].
Bên cạnh đó, khái niệm công lý cũng đã xuất hiện trong một số từ điển
của Việt Nam, ví dụ nhƣ:
Công lý là lẽ phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đƣơng thời,
không thiên lệch, không tƣ vị. Chế độ nào cũng coi tòa án là tƣợng
trƣng cho công lý, là cơ quan công lý của chế độ ấy[31].
Hay công lý là:
Sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải. Thƣờng đƣợc dùng
trong đời sống pháp lý và đặc biệt là trong hoạt động tƣ pháp [31]; Công

15


lý là sự nhận biết đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các quyền lợi
ích chính đáng của mọi ngƣời [31].
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy có rất nhiều định nghĩa về công
lý, tuy nhiên trong phạm vi luận văn này, tác giả tán thành và sử dụng định
nghĩa của J. Rawls, trong đó xem công lý như là sự công bằng. Theo tác giả,
những lý giải về tính hợp lý của định nghĩa này nhƣ nêu ở mục trên là thuyết
phục, và định nghĩa rất ngắn gọn, rõ ràng, có tính khái quát lý luận cao.
1.1.2. Nhận định của học viên về quyền tiếp cận công lý
Trên phƣơng diện quốc tế, có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền tiếp
cận công lý (the right of access to justice, hay còn đƣợc gọi tắt là tiếp cận công
lý - access to justice), nhƣng tựu trung có thể quy vào hai cách hiểu chính:
- Thứ nhất: Access to justice đƣợc hiểu nhƣ là quyền được xét xử công

bằng (the right to a fair trial) mà đƣợc ghi nhận và nhấn mạnh trong luật
quốc tế về quyền con ngƣời. Đây là cách hiểu mang tính truyền thống mà
ngoại diên của nó không vƣợt quá phạm vi hoạt động tố tụng hình sự, và nội
hàm của nó chỉ bao gồm các bảo đảm pháp lý về mặt tố tụng, chẳng hạn nhƣ
bình đẳng về tƣ cách trƣớc tòa án, quyền đƣợc xét xử công khai bởi một tòa
án không thiên vị, đƣợc lập ra theo đúng pháp luật; quyền đƣợc bào chữa;
quyền đƣợc kháng cáo...
• Thứ hai: Access to justice đƣợc hiểu nhƣ là quyền tìm kiếm sự đền bù
hoặc sự khắc phục (remedy) cho những bất công hay thiệt hại mà một cá nhân
hay một nhóm cá nhân, đặc biệt là cho những nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng
(ngƣời nghèo, ngƣời lao động nhập cƣ, ngƣời tị nạn, các nhóm thiểu số...),
phải gánh chịu. Những bất công/thiệt hại này có thể do cá nhân hay pháp nhân
gây ra, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không giới hạn ở
trong tố tụng hình sự, và việc tìm kiếm sự đền bù/khắc phục đƣợc thực hiện
thông qua việc tiếp cận với các thiết chế tƣ pháp chính thức (formal justice)

16


và không chính thức (informal justice). Đây là cách tiếp cận mới, đƣợc sử
dụng rộng rãi bởi nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNDP.
So sánh giữa hai quan điểm nêu trên, có thể thấy quan điểm thứ nhất
hẹp hơn quan điểm thứ hai. Quan điểm thứ nhất mới chỉ phản ánh một mặt
của quyền tiếp cận công lý khi mới chỉ dừng lại ở việc đƣợc tiếp cận công lý
trong hoạt động tố tụng, trong khi quyền tiếp cận công lý trong thực tế cần
phải đƣợc thực hiện sớm hơn và trong nhiều lĩnh vực hơn, chẳng hạn nhƣ việc
ngƣời dân có quyền đƣợc biết về pháp luật và về các quyền của mình…Quan
điểm thứ hai phản ánh nhận thức phổ biến trên thế giới hiện nay, trong đó
xem quyền tiếp cận công lý là một quyền con ngƣời, vì thế phải đƣợc tôn
trọng và bảo vệ, bảo đảm trong mọi thời điểm và ở mọi lĩnh vực, tất nhiên

trong đó hoạt động tƣ pháp là lĩnh vực thể hiện rõ nhất quyền này.
Từ những phân tích nhƣ vậy, trong luận văn này, học viên xác định:
Quyền tiếp cận công lý là một quyền con người, thể hiện qua khả năng của
chủ thể được yêu cầu nhà nước bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất để sử
dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ các quyền và lợi hợp pháp, chính đáng
của mình khi có tranh chấp hoặc bị vi phạm.
1.2. Chủ thể nội dung và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận
công lý
1.2.1. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý
Công lý là nền tảng cho một xã hội ổn định và thịnh vƣợng. Vì vậy, bảo
đảm quyền tiếp cận công lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các quốc gia.
Trƣớc hết, bảo đảm quyền tiếp cận công lý góp phần bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân, qua đó tạo ra sự công bằng và giải quyết những tranh
chấp trong xã hội một cách hoà bình. Đây là một tiền đề cho sự phát triển
thịnh vƣợng của các cộng đồng và các quốc gia.
Thêm vào đó, bảo đảm quyền tiếp cận công lý giúp nâng cao nhận thức

17


pháp luật cho ngƣời dân, từ đó thúc đẩy sự tuân thủ pháp luật trong xã hội.
Điều đó là bởi quá trình tiếp cận công lý không chỉ gắn liền với quá trình tìm
hiểu pháp luật của ngƣời dân mà còn gắn với công tác phổ biến, giáo dục và đào
tạo pháp luật của nhà nƣớc. Thông qua quá trình này, ngƣời dân sẽ có cơ hội
nâng cao hiểu biết về các quy định của pháp luật, nắm vững các quyền lợi, nghĩa
vụ của mình khi tham gia giải quyết tranh chấp tại các cơ quan có thẩm quyền.
Cuối cùng, bảo đảm quyền tiếp cận công lý còn góp phần nâng cao
năng lực và tính liêm chính của bộ máy nhà nƣớc. Điều đó là bởi quá trình
tiếp cận công lý là quá trình trao đổi, tranh luận mà đặt ra nhiều yêu cầu, đòi
hỏi với các cơ quan nhà nƣớc phải trực tiếp đáp ứng. Thông qua quá trình đó,

không chỉ năng lực mà cả kỹ năng của đội ngũ cán bộ cũng đƣợc tăng lên,
đồng thời những hạn chế, yếu kém và cả vi phạm của đội ngũ cán bộ cũng
đƣợc bộc lộ - từ đó nhà nƣớc có thể có phƣơng hƣớng, biện pháp giải quyết.
Ở Việt Nam, từ góc độ vĩ mô, bảo đảm quyền tiếp cận công lý giúp hiện
thực hoá các chính sách công bằng xã hội mà đã đƣợc nêu trong Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, theo đó:
Tăng trƣởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bƣớc cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, phấn đấu vì một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều
kiện phát triển toàn diện [2].
Việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý trực tiếp bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho ngƣời dân, đặc biệt là những ngƣời thuộc các nhóm yếu
thế, qua đó củng cố niềm tin của ngƣời dân vào chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nƣớc.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của ngƣời dân cũng
góp phần giúp chính quyền tháo gỡ những mâu thuẫn và tồn tại trong việc giải

18


quyết các công việc của địa phƣơng. Đặc biệt, việc này giúp cho các cơ quan
tiến hành tố tụng giải quyết các vụ việc một cách khách quan, công bằng và
đúng quy định của pháp luật vì quá trình tiếp cận công lý chính là quá trình
ngƣời dân và các tổ chức giám sát hoạt động công vụ.
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý
Bảo đảm quyền tiếp cận công lý trƣớc hết và trực tiếp là bảo đảm khả
năng của ngƣời dân đƣợc tiếp cận với các cơ chế giải quyết tranh chấp và vi
phạm các quyền và lợi ích chính đáng của họ, qua đó thực thi công bằng trong
xã hội. Nhƣ vậy nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý gắn rất nhiều với

các cơ chế tƣ pháp, hoà giải và trọng tài.
Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, bảo đảm quyền tiếp cận công lý còn
bao gồm việc tạo lập môi trƣờng chính trị, xã hội thuận lợi cho ngƣời dân
đƣợc đòi hỏi sự công bằng và tìm kiếm sự đền bù khi các quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của họ bị vi phạm. Điều này liên quan đến các vấn đề
khác ở tầm vĩ mô, chẳng hạn nhƣ dân chủ, pháp quyền, mối quan hệ giữa
nhà nƣớc và công dân…
Xét tổng quát, có ba nội dung bảo đảm quyền tiếp cận công lý đó là:
- Bảo đảm về mặt pháp lý: Đây là bảo đảm cơ bản, trực tiếp và quan trọng
nhất. Bảo đảm này gắn liền với khung khổ pháp luật về tố tụng tƣ pháp và về các
vấn đề khác có liên quan. Bảo đảm về mặt pháp lý tạo cơ sở cho ngƣời dân có
thể vận dụng các quy tắc cƣ xử chung do nhà nƣớc ban hành nhằm tìm kiếm
công bằng và sự đền bù cho các sự bất công mà mình phải gánh chịu.
- Bảo đảm về mặt chính trị: Đây là sự bảo đảm về mặt đƣờng lối, chính
sách, chủ yếu liên quan đến các vấn đề ở tầm vĩ mô, ví dụ nhƣ hệ thống trợ
giúp pháp lý hay các quyền về khiếu nại, tố cáo…Ở một số quốc gia, bảo đảm
về chính trị có vị trí cao hơn nhƣng không trực tiếp nhƣ bảo đảm về mặt pháp
lý. Bảo đảm về mặt chính trị nếu đƣợc xây dựng tốt sẽ giúp cho bảo đảm về

19


×