Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Châu Văn Quan, Tỉnh Lạng Sơn Nửa Đầu Thế Kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.02 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CHÂU VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CHÂU VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đàm Thị Uyên

Thái Nguyên, năm 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin, tài liệu trình bày trong
luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Thủy

i


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - PGS.TS Đàm Thị Uyên người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy giáo, cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp
Cao học Lịch sử Việt Nam, những người thầy đã trang bị cho tôi tri thức và kinh
nghiệm quý báu trong lĩnh vực khoa học giáo dục.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo phòng Đào tạo sau đại học, khoa
Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các bạn bè đồng nghiệp đã
động viên, nhiệt tình giúp đỡ tôi và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong khóa học.
Tôi xin cảm ơn UBND huyện Văn Quan, Phòng Văn hoá Thông tin huyện, Sở
Văn hoá Thông tin tỉnh Lạng Sơn; các cơ quan ban ngành, đoàn thể trong huyện Văn
Quan, các già làng, trưởng thôn và các gia đình ở Văn Quan đã cung cấp tư liệu, giúp
đỡ tôi trong quá trình đi thực tế ở địa phương.
Trong quá trình thực hiện, do còn hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ
chuyên môn nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được

những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học cùng bạn bè, đồng nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Thủy

ii


Trang

Trang bìa phụ
L i cam đoan ...................................................................................................................... i
L

m ơn .........................................................................................................................ii

Mục lục ........................................................................................................................... iii
Danh mục các từ viết tắt ................................................................................................... iv
Danh mục các bảng, biểu đồ ............................................................................................. v
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 4
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................................. 5
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN ..................... 9

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ............................................................................... 9
1.2. Lịch sử hành chính của Văn Quan qua các thời kỳ lịch sử ...................................... 15
1.3. Các thành phần dân tộc ............................................................................................ 18
1.3.1. Dân tộc Nùng ......................................................................................................... 19
1.3.2. Dân tộc Tày ........................................................................................................... 20
1.3.3. Dân tộc Kinh.......................................................................................................... 22
1.3.4. Dân tộc Hoa ........................................................................................................... 23
1.4.5. Khái quát tình hình chính trị - xã hội .................................................................... 24
Tiểu kết ........................................................................................................................... 27
Chƣơng 2. RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ CHÂU VĂN QUAN NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XIX ........................................................................................................................... 28
2.1. Ruộng đất.................................................................................................................. 28
2.1.1. Tình hình ruộng đất ở miền núi phía Bắc trước thế kỷ XIX ................................. 28
2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất châu Văn Quan đầu thế kỷ XIX theo địa bạ Gia
Long 4 (1805) .................................................................................................................. 30
2.1.3. Tình hình sở hữu ruộng đất châu Văn Quan theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ............... 38

iii


2.1.4. So sánh tình hình sở hữu ruộng đất châu Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX theo
địa bạ Gia Long 4 (1805) và địa bạ Minh Mệnh 21 (1840). ........................................... 44
2.2. Hoạt động kinh tế ...................................................................................................... 51
2.2.1. Nông nghiệp .......................................................................................................... 51
2.2.2. Thủ công nghiệp .................................................................................................... 59
2.2.3. Thương nghiệp....................................................................................................... 62
2.3. Thuế khóa ................................................................................................................ 63
2.3.1. Thuế khóa thời Gia Long....................................................................................... 63
2.3.2. Thuế khóa thời Minh Mệnh ................................................................................... 65
Tiểu kết: ........................................................................................................................... 67

Chƣơng 3. TÌNH HÌNH VĂN HÓA CHÂU VĂN QUAN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ..... 68
3.1. Làng bản, nhà cửa: ................................................................................................... 68
3.2. Ẩm thực .................................................................................................................... 72
3.3. Trang phục ................................................................................................................ 74
3.4. Phong tục tập quán ................................................................................................... 76
3.5. Lễ tết ......................................................................................................................... 81
3.6. Tín ngưỡng, tôn giáo ................................................................................................ 83
3.7. Lễ hội ........................................................................................................................ 88
3.8. Văn học và tri thức dân gian..................................................................................... 90
Tiểu kết: ........................................................................................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 100
PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP:

Đại học Sư phạm

H:

Hà Nội

KHXH:

Khoa học Xã hội


M.s.th.t:

Mẫu, sào, thước, tấc

10.1.3.5:

10 mẫu 1 sào 3 thước 5 tấc

Nxb:

Nhà xuất bản

GS:

Giáo sư

PGS:

Phó giáo sư

TS:

Tiến sĩ

TTLTQG I: Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
GD:
Giáo dục
Tr:
Trang
TCN:


Trước Công nguyên

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Thống kê địa danh các tổng, xã của châu Văn Quan thế kỷ XIX ............... 16
Bảng 1.2: Thống kê địa danh các xã, trị trấn, thôn, phố ..................................................
Bảng 1.3: Thống kê các dân tộc ở huyện Văn Quan .................................................... 18
Bảng 2.1. Thống kê tình hình ruộng đất châu Văn Quan theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ...... 31
Bảng 2.2: Sự phân hóa ruộng tư của châu Văn Quan theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ........... 32
Bảng 2.3: Bình quân sở hữu và bình quân thửa theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ......... 33
Bảng 2.4: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ..... 35
Bảng 2.5: Giới tính trong sở hữu tư nhân theo địa bạ Gia Long 4 (1805) .................. 36
Bảng 2.6: Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức dịch theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ....... 36
Bảng 2.7: Phân bố ruộng đất của chức sắc theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ................. 37
Bảng 2.8: Thống kê tình hình ruộng đất của châu Văn Quan theo địa bạ ................... 38
Bảng 2.9: Thống kê các loại ruộng phân theo đẳng hạng theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)... 39
Bảng 2.10: Quy mô sở hữu ruộng đất theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ................... 39
Bảng 2.11: Bình quân sở hữu và bình quân thửa theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) .. 40
Bảng 2.12: Giới tính trong sở hữu tư nhân theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ........... 41
Bảng 2.13: Sự phân bố ruộng đất theo nhóm họ theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) .. 42
Bảng 2.14: Phân bố ruộng đất của chức sắc theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840).......... 43
Bảng 2.15: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) .. 43
Bảng 2.16: So sánh sự phân bố các loại ruộng đất huyện Văn Quan .......................... 44
Bảng 2.18: So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ của 13 xã có địa bạ lập 2 thời
điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21. ........................................................ 47
Bảng 2.19: So sánh quy mô sở hữu của các chức sắc .................................................. 49
Bảng 3.1: Thuế ruộng đất công, tư khu vực 3 thời Gia Long (1805) ........................... 64

Bảng 3.2: Thuế ruộng đất công, tư khu vực 3 thời Gia Long (1805) ........................... 65
Bảng 3.3: Thuế ruộng của vùng dân tộc thiểu số phía Bắc năm 1843 ......................... 66
Biểu đồ 2.1: Mối tương quan giữa số chủ và diện tích sở hữu ruộng tư (1805) .......... 32
Biểu đồ 2.2: So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ của 13 xã có địa bạ lập 2
thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21 ................................................ 46

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, cách thủ
đô Hà Nội 154 km đường bộ và 165 km đường sắt; phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía
đông bắc giáp Trung quốc, phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía nam giáp tỉnh
Bắc Giang, phía tây nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía tây giáp tỉnh Bắc Kạn. Là nơi cư
trú của 7 dân tộc anh em, trong đó người dân tộc Nùng chiếm 42,97%, Tày chiếm
35,92%, Kinh 16,5%, còn lại là các dân tộc Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, H'Mông.... Từ
buổi sơ khai của lịch sử, nơi đây đã có người nguyên thủy sinh sống. Đất lành chim
đậu, mảnh đất này đã thu hút cư dân từ bốn phương tìm về hội tụ.
Văn Quan là một huyện miền núi có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy
núi đá, núi đất xen kẽ các thung lũng nhỏ và nghiêng theo hướng Tây Nam - Đông Bắc.
Trên địa bàn Văn Quan có 2 con sông Kỳ Cùng và sông Mò Phia cùng nhiều khe, suối
chảy qua. Văn Quan là huyện nằm ở trung tâm tỉnh Lạng Sơn, Văn Quan cách thành
phố tỉnh lỵ khoảng 45 km về phía Tây Nam. Đây là vùng đất có điều kiện tự nhiên
tương đối thuận lợi. Đây là nơi sinh sống của nhiều tộc người, có tộc người là cư dân bản
địa, có tộc người từ miền xuôi di cư lên, có những tộc người từ Trung Quốc di cư tới do
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng khi đã nhập cư và định cư tại địa phương, họ đã
tích cực khai phá, mở mang ruộng đồng, xây dựng làng bản làm nơi sinh cơ, lập nghiệp.
Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình phát
triển lâu dài của đất nước. Việc xây dựng cộng đồng chính trị, xã hội trong lịch sử

không tách rời với việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc gồm nhiều thành phần
dân tộc. Tình hình đó luôn gắn liền và bị chi phối bởi yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước nói chung, từng vùng miền nói riêng và bởi yêu cầu chống ngoại xâm, bảo
vệ biên cương của Tổ quốc.
Trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc miền núi nói
chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng
và phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số. Việc phân bố lại dân cư gắn với xây
dựng các vùng kinh tế nhằm khắc phục dần sự cách biệt về kinh tế xã hội giữa các dân
tộc, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng, đồng thời góp
phần bảo vệ môi trường sinh thái.
1


Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là sự
nghiệp của toàn xã hội, toàn dân tộc trong đó có nhân dân các dân tộc Văn Quan.
Bản thân tác giả là người dân ở địa phương khác, cũng như bao người dân khác
sinh sống trên đất nước Việt Nam đều mong muốn hiểu biết thêm về một thời kỳ lịch
sử: Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cũng như đời sống tinh thần phong phú của nhân
dân các dân tộc Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX.
Vì thế tôi lựa chọn đề tài “Châu Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỉ
XIX” làm luận văn nghiên cứu khoa học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tiếp cận được với một số tác
phẩm của các tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu, trong đó có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu sau:
Trước hết là cuốn: “Đất nước Việt Nam qua các đời” của tác giả Đào Duy
Anh, Nxb Thuận Hóa, Huế, xuất bản năm 1994. Đây là tác phẩm tập trung nghiên cứu
địa lý hành chính, cương vực của nước Việt Nam và vị trí các khu vực hành chính trải

qua các đời, từ thời Văn Lang – Âu Lạc, qua thời kỳ Bắc thuộc, trải đến thời tự chủ và
cho đến thời nhà Nguyễn. Với công tác nghiên cứu công phu, khối lượng sách tham
khảo đồ sộ, Đào Duy Anh đã vẽ nên bức tranh rộng lớn, mô tả sự phát triển và biến đổi
của lãnh thổ Việt Nam kéo dài suốt gần hai thiên niên kỷ, là công trình nghiên cứu đầy
đủ , hệ thống về lãnh thổ Việt Nam.
Cuốn Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, đại cương lịch sử Việt Nam đã đề
cập khái quát về chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của mỗi triều đại trong
từng thời kì lịch sử, đồng thời đưa ra những hệ quả của chính sách đó đối với tình hình
nước ta.
Tác phẩm Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn xuất bản năm 1997, tại Nxb Thuận Hóa (Huế) do Trương Hữu Quýnh và Đỗ
Bang chủ biên đã nghiên cứu một cách sâu sắc về vấn đề ruộng đất và đời sống nông
dân dưới triều Nguyễn.
Cuốn Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (thế kỉ XI đến
giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đàm Thị Uyên xuất bản năm 2007, Nxb Văn hóa dân tộc,
2


Hà Nội là công trình nghiên cứu khá đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa của
các dân tộc ít người trên đất nước ta cũng như những chính sách của các triều đại phong
kiến Việt Nam đối với các dân tộc thiểu số.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ Huyện Văn Quan 1930 – 1954 xuất bản năm 1994, Lịch
sử Đảng bộ Huyện Văn Quan 1955 – 1985 xuất bản năm 1998, Lịch sử Đảng bộ Huyện
Văn Quan 1986 – 2005 xuất bản năm 2013 của Ban Thường vụ Huyện ủy Văn Quan,
là các công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và có hệ thống về huyện Văn Quan trong
thời kì kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tác phẩm “Dân tộc Nùng ở Việt Nam” của Hoàng Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, xuất bản năm 1992. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến những kinh nghiệm
trong sản và xuất, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần, với những nghi lễ trong tang
ma, cưới gả cũng như các phong tục tập quán từ xa xưa của đồng bào Nùng nói chung.

Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể về văn hóa của dân tộc Nùng ở Lạng Sơn nói
chung và châu Văn Quan nói riêng.
Cuốn “Thổ Ty Lạng Sơn trong lịch sử” của tác giả Nguyễn Quang Huynh, do Nxb
Văn hóa dân tộc xuất bản năm 2011, đã khái quát về chế độ thổ ty trong lịch sử, vai trò, vị trí
của các dòng họ phiên thần, thổ ty ở Lạng Sơn đối với quê hương, đất nước.
Cuốn “Địa chí Lạng Sơn”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản năm
1999 đã có nhiều trang viết về kinh tế, văn hóa, xã hội của cả tỉnh Lạng Sơn cũng như
các huyện trên địa bàn tỉnh.
Luận văn thạc sĩ “Huyện Thất Khê (Lạng Sơn) thế kỷ XIX” của tác giả Lục Thị
Thùy, bảo vệ tại Đại học Sư phạm Thái Nguyên năm 2014. Luận văn đã trình bày đặc
điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất, sự phát triển kinh tế, đặc điểm
văn hóa của huyện Thất Khê.
Như vậy, đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách toàn diện về châu Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX. Chính vì thế, tác giả quyết định
chọn đề tài “Châu Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX” với mong muốn góp
phần thiết thực vào khôi phục diện mạo lịch sử của địa phương, phát huy những giá trị
vốn có của lịch sử văn hóa của các dân tộc tại Văn Quan nói riêng và của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam nói chung.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Trước hết, bản thân không phải là người địa phương nhưng tôi có mong muốn
tìm hiểu thêm về các vùng đất khác của Việt Nam trong lịch sử và nhằm góp thêm cơ
sở khoa học về cư dân miền núi nói chung và phía Bắc nói riêng mà lâu nay còn ít
người quan tâm.
Đồng thời, việc tìm hiểu nghiên cứu này mong muốn góp phần nêu lên một
cách chân thực, khoa học về một thời kỳ lịch sử trong quá khứ cũng như con người trên

mảnh đất Lạng Sơn. Bổ sung thêm nguồn tư liệu góp phần lí giải một số vấn đề lịch sử
Việt Nam trung đại: chính sách về kinh tế của triều đình nhà Nguyễn trong tiến trình
phát triển của lịch sử, mối quan hệ giữa các dân tộc trong quá trình tồn tại và phát trển
của đất nước ta hiện nay, góp phần lí giải về cơ sở xuất phát cho những chính sách của
Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ hiện đại. Ngoài ra, còn bổ sung thêm tư liệu lịch sử
địa phương cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ tình hình kinh tế - văn hóa của châu Văn Quan - tỉnh Lạng Sơn nửa đầu
thế kỷ XIX để khôi phục lại bức tranh của một thời kỳ lịch sử đầy biến động trên mảnh
đất Văn Quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Bao gồm các chính sách về kinh tế, chế độ sở hữu ruộng đất, kinh tế nông
nghiệp, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, văn học dân gian của các dân tộc cùng
sinh sống trên mảnh đất Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về kinh tế và văn
hóa châu Văn Quan.
- Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỷ XIX.
- Phạm vi không gian: Tác giả tập trung nghiên cứu châu Văn Quan theo địa
giới lãnh thổ nửa đầu thế kỷ XIX với 3 tổng 14 xã.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu:
- Nguồn tư liệu chung: Bao gồm một số sử sách và địa chí cổ: Đại Việt sử kí
toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, Đồng Khánh

4


địa dư chí, Kiến Văn tiểu lục, Đại Nam nhất thống chí. Các sách chuyên khảo và các

bài viết đề cập đến lịch sử, văn hóa người Tày, Nùng, Kinh… Của các cơ quan nghiên cứu
và các nhà khoa học.
+ Nguồn tư liệu địa bạ: Luận văn sử dụng 27 đơn vị địa bạ. Trong đó có 14 đơn
vị địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805), 13 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh
(1840). Có 13 xã có địa bạ ở hai thời điểm 1805 và 1840. Các bản địa bạ đều là bản chính
hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội, hầu như tất cả các xã của châu
Văn Quan đều có địa bạ, đó là cơ sở để cho chúng tôi khôi phục lại tổ chức làng xã, kết
cấu kinh tế -xã hội của châu Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
+ Nguồn tư liệu điền dã: Tác giả đã thu thập được một số tài liệu do người dân
trên địa bàn huyện Văn Quan cung cấp, đến những bản làng của đồng bào dân tộc thiểu
số để quan sát, ghi chép về phong tục tập quán của họ. Thu thập các câu truyện dân
gian, ca dao, thơ … để bóc tách những vấn đề lịch sử có thật trong quá khứ.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp logic và phương pháp lịch
sử. Đặc biệt chúng tôi chú trọng phương pháp giám định tư liệu bằng chữ Hán để
thấy được mức độ chính xác của nó. Đồng thời chúng tôi kết hợp chặt chẽ các nguồn tư
liệu khác với nguồn tư liệu địa bạ, sử dụng phương pháp phân tích định lượng để xử lý
nguồn tư liệu địa bạ.
Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp mô hình hoá lịch sử, phương pháp thống
kê, tổng hợp, hệ thống hóa bằng hệ thống bảng, biểu được sử dụng. Chúng tôi cũng đã
sử dụng phương pháp liên ngành như điều tra, điền dã lịch sử; đồng thời so sánh, đối
chiếu với các nguồn tư liệu khác có liên quan nhằm rút ra sự tương đồng hay khác biệt
về sở hữu ruộng đất của địa bàn nghiên cứu qua các thời điểm cũng như giữa địa bàn
với các nơi khác.
Mặt khác, chúng tôi cũng đặt việc nghiên cứu châu Văn Quan nửa đầu thế kỷ
XIX trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc để thấy được những tác động và ảnh hưởng
giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về kinh tế và văn hóa của châu Văn
Quan, tỉnh Lạng Sơn trong nửa đầu thế kỷ XIX. Dựa vào nguồn tài liệu khai thác được,


5


luận văn bước đầu khôi phục một cách có hệ thống bức tranh về kinh tế, mối quan hệ
tộc người, những bản sắc văn hóa của cộng đồng cư dân, gắn với môi trường sinh thái
địa phương, vùng miền, những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi kinh tế xã hội của địa
phương trong thời kì lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.
Lần đầu tiên công bố 27 tập địa bạ của châu Văn Quan được khai thác tại Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia I Hà Nội. Trên cơ sở khai thác hầu hết các thông tin trên
các địa bạ đó, so sánh đối chiếu về ruộng đất công, tư qua hai thời điểm Gia Long
(1805), Minh Mệnh (1840) rút ra một số nhận xét bước đầu về tình hình văn hóa kinh tế - xã hội và ruộng đất của Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về châu Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
Chương 2: Ruộng đất và kinh tế châu Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương 3: Văn hóa châu Văn Quan nửa đầu thế kỷ XIX.

6


(Nguồn: Địa chí Lạng Sơn)

7

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH LẠNG SƠN


(Nguồn: Địa chí Lạng Sơn)


8


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Châu Văn Quan (nay là huyện Văn Quan) cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 45km về phía
Tây Nam, trên trục đường quốc lộ 1B từ Lạng Sơn đi Thái Nguyên, có địa giới phía
Bắc giáp huyện Văn Lãng, nam giáp huyện Chi Lăng và Hữu Lũng, đông giáp huyện
Cao Lộc, tây giáp huyện Bình Gia và Bắc Sơn. Đó là khu vực giới hạn từ vĩ tuyến
21044 đến 210 vĩ Bắc và 106024 đến 106043 kinh Đông.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Huyện Văn Quan thuộc tỉnh Lạng Sơn, cách
phủ 41 dặm về phía Bắc, đông tây cách nhau 53 dặm, nam bắc cách nhau 131 dặm, phía
đông đến địa giới châu Văn Uyên 25 dặm, phía tây đến địa giới huyện Vũ Nhai tỉnh
Thái Nguyên 28 dặm, phía nam đến địa giới châu Ôn và huyện Hữu Lũng, tỉnh Bắc
Ninh 52 dặm, phía Bắc đến địa giới các huyện Thoát Lãng và Thất Khê và địa giới
huyện Thạch Lâm tỉnh Cao Bằng 79 dặm. Xưa là châu Yên Lan (theo Dư địa chí của
Nguyễn Trãi), thời thuộc Minh là đất huyện Bôi Lan thuộc châu Thượng Văn. Đầu đời
Lê là châu Văn Lan. Phiên thần (không rõ họ) thế tập. Đời Gia Long đổi thành châu
Văn Quan, vẫn cho phiên thần thế tập. Đầu đời Minh Mệnh đổi đặt thổ mục làm phó tri
châu, sau lại lấy thổ tri châu. Năm thứ 15 đổi làm huyện. Năm thứ 16 bắt đầu đặt lưu
quan. Lãnh 9 tổng, 56 xã phố” [32, tr. 431- 432].
Sau này, Sách Đồng Khánh địa dư chí miêu tả chi tiết về vị trí xưa của châu Văn
Quan: “Huyện hạt phía Nam giáp huyện Võ Nhai tỉnh Thái nguyên và huyện Hữu Lũng
tỉnh Bắc Ninh. Phía Bắc giáp huyện Thất Khê và châu Thoát Lãng. Phía Đông giáp châu
Ôn và châu Văn Uyên. Phía Tây giáp châu Văn Uyên và huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Từ địa giới phía Đông ở các xã Khâu Mông, Phồn Mậu đến địa giới phía Tây ở xã Phụng
Cống đi đường hết chừng 2 ngày rưỡi. Từ địa giới phía nam ở xã Huân Phong đến địa giới
phía bắc xã Hội Hoan, đi đường hết chừng 1 ngày rưỡi” [49, tr. 604].

Tổng diện tích Văn Quan hiện nay là 557,46km2. Về cơ bản Văn Quan là một
huyện vùng cao, địa hình phức tạp, núi đất và núi đá vôi xen kẽ, có nhiều thung lũng
thuận tiện cho việc làm ruộng và nương rẫy. Địa hình có độ cao trung bình 400m so với
mực nước biển, thấp dần từ Tây Nam xuống Đông Bắc. Núi đá chủ yếu tập trung ở phía
tây nam của huyện, thuộc các xã Bình Phúc, Yên Phúc, Xuân Mai, Tràng Phái, Lương
Năng, Tri Lễ, Hữu Lễ, Tú Xuyên. Các xã còn lại chủ yếu là núi đất.

9


Văn Quan thuộc vùng núi trung bình của tỉnh Lạng Sơn, có độ cao trung bình
khoảng 400m so với mực nước biển. Địa hình tương đối phức tạp, bị chia cắt bởi các
dãy núi đá, núi đất xen kẽ các thung lũng nhỏ và nghiêng theo hướng Tây Nam - Đông
Bắc. Điểm cao nhất của huyện là đỉnh núi Khau Phai. Địa thế hiểm trở được tạo ra bởi
những dãy núi đá vôi dốc đứng, hang động và khe suối ngang dọc gây khó khăn đến
quá trình sản xuất và đi lại của nhân dân trong huyện, nhưng đó cũng là một trong
những điều kiện thuận lợi trong phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...
Địa hình vùng núi đá bị cắt xẻ vô định hình, được hình thành chủ yếu vào kỷ
Đêvôn Pécmi. Quá trình xâm thực đã tạo ra các hang động cácxtơ và đất cácxtơ hóa.
Trong các thung lũng đá vôi trồng trọt rất tốt như Lùng Thúm, Lùng Cà, Lùng Yên,
Lùng Tàu, Lùng Hàng, Lùng Khoọc, …
Các vùng đất bị chia cắt bởi những khe rạch có nước, những con suối và sông.
Dọc thung lũng và khe lạch cũng như những triền núi đất là đất lateritich hóa của núi trẻ
được hình thành từ kỷ đệ tứ chủ yếu trên thềm đá bazan, rất tốt cho trồng trọt và phát
triển cây lấy gỗ, cây công nghiệp dài ngày, chủ yếu là hồi và các loại cây ăn quả. Có
những thung lũng rộng được nông dân khai phát thành ruộng lúa như cánh đồng Bình
Phúc, Yên Phúc, Vân Mộng, Trấn Ninh, Tân Đoàn, Tràng Phái. Ngoài ra là ruộng bậc
thang và nương rẫy được nhân dân trồng trọt quanh năm.
Xen kẽ giữa vùng núi đất là những đỉnh núi cao, đỉnh cao nhất là đỉnh núi Khau
Phai cao 868m, Khau Ràng cao 768m, tiếp đến là đỉnh Khau Nham thuộc địa phận các xã

Bác La, Tịnh Sóc, Huân Phong; sao đó là các đỉnh Khau Diêu, Khau Đăng, Khau Thán,…
Chính vì địa hình phức tạp nên việc đi lại rất khó khăn, thường phải vượt nhiều suối, lắm
đèo như Lùng Pa, Hin Lăn, Kéo Đeng, Cầu Tập, Kéo Cáy,…
Ở Văn Quan, rừng chiếm 38,773 ha, bằng 71,2% tổng diện tích toàn huyện, cung
cấp cho cư dân địa phương nhiều lâm sản quý. Có hai loại rừng, rừng núi đất và rừng
núi đá. Thảm thực vật điển hình của miền nhiệt đới và Á nhiệt đới, có nhiều loại gỗ
quý: đinh, nghiến, lý, lát,… Cây Á nhiệt đới có thông lá kim, thông tre, hoàng đàn và
rất nhiều loại cây rừng khác nhau; các loại tre, mây, song và cây lấy sợi. Nhiều loại cây
ăn quả và cây thuốc chữa một số bệnh.
Trong rừng còn có nhiều loại động vật quý như: các loại thú hươu, nai, hổ, cáo,
cầy, lợn lòi, khỉ. Các loại chim: trĩ, gà gô, bìm bịp, cút, phượng hoàng đất. Các loại bò
sát: trăn, rắn, kỳ đà, thằn lằn, …
Thủy văn – sông ngòi: Văn Quan có hai con sông chảy qua là sông Kỳ Cùng và
sông Thà Lải.
10


Sông Kỳ Cùng, có chiều dài 35 km. Sông này bắt nguồn từ xã Bát Xa cao
1.166m thuộc huyện Đình Lập, chảy qua huyện Cao Lộc, qua thị xã Lạng Sơn vào địa
phận huyện Văn Quan qua 5 xã: Đồng Giáp, Khánh Khê, Văn An, Song Giang, Trấn
Ninh, từ đó qua huyện Văn Lãng, Tràng Định đổ sang Trung Quốc. Từ Nà Kiểng đến
Điềm He sông chảy theo hướng Đông Tây. Từ Điềm He sông chảy đến hết ranh giới
huyện, sông chảy theo hướng Nam Bắc. Đây là con sông lớn chảy dọc theo ranh giới tự
nhiên giữa huyện Văn Quan và huyện Cao Lộc.
Chi lưu của sông Kỳ Cùng ở Văn Quan là sông Tu Đồn (bản đồ ghi là Mỏ Phia
hoặc Mỏ Pia). Sông Tu Đồn có hai nhánh chính: một nhánh bắt nguồn từ các xã Tri Lễ,
Lương Năng, Tú Xuyên và một phần của xã Hòa Bình; một nhánh bắt nguồn từ xã Yên
Phúc, Bình Phúc rồi hợp lưu ở Đức Hinh chảy qua Bản Lải xã Vĩnh Lại (còn gọi là Tả
Lải – Sông Lải) rồi đổ vào sông Kỳ Cùng ở địa phận xã Song Giang. Ngoài ra, còn một
hệ thống khe suối ở khắp các xã như suối Việt Yên, Đồng Giáp, Tràng Các, Tràng Sơn,

Đại An, Chu Túc – Văn An, Tân Đoàn – Tràng Phái, … đều là nguồn cung cấp nước
quan trọng, phục vụ cho đời sống và phát triển nông lâm nghiệp, nhưng lượng nước ít và
thường khô cạn về mùa đông. Chế độ dòng chảy của sông biến động rất lớn về mùa mưa,
các cơn lũ thường xuất hiện vào tháng 6, tháng 7 và tháng 8. Nhưng nhìn chung lũ trên
sông Kỳ Cùng có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào tùy theo lượng mưa mà mức độ lớn bé
của lũ xảy ra khác nhau. Về mùa khô, dòng chảy nhỏ và lưu lượng bé nhất xuất hiện vào
tháng 12, tháng 1. Nhiều đoạn lòng sông hẹp, nông, người và gia súc dễ dàng vượt qua.
Sông Thà Lải: bắt nguồn từ vùng núi phía nam của huyện ở độ cao 523m, chảy
theo hướng Tây Nam – Đông Bắc qua các xã Tri Lễ, Lương Năng, Xuân Mai, Vĩnh Lại,
Song Giang và hợp lưu với sông Kỳ Cùng ở Pắc Làng với chiều dài khoảng 50km. Sông
Thà Lải uốn khúc quanh co trong các thung lũng hẹp, xen kẽ vùng núi đất, đá. Ngoài ra
còn có một hệ thống sông suối nhỏ khác chảy theo hướng Nam Bắc bắt nguồn từ xã Ên
Phúc chảy qua xã Bình Phúc lên xã Xuân Mai gặp sông Thà Lải ở thị trấn Văn Quan.
Ở các xã Vân Mộng, Việt Yên, Tân Đoàn… cũng có một mạng lưới khe suối
nhỏ, kiệt nước về mùa khô, chảy len lỏi trong các khe đá, thung lũng nhỏ và vùng núi
nhấp nhô. Mật độ khe suối của Văn Quan khoảng 0,6 đến 1,2km/km2. Nhưng do địa
hình phức tạp, dòng chảy nhỏ và biến động lớn nên hiệu ích sử dụng nước, lũ lụt, hạn
hán đã gây những tác hại thường xuyên và cục bộ ở mức độ khác nhau của từng vùng.
Hệ thống hồ đập, dự trữ nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp như: đập
Bản Quyền, hồ Bản Nầng, hồ Suối Mơ…là nguồn nước chủ yếu cung cấp nước cho sản

11


xuất nông nghiệp. Ngoài ra, còn có một số hồ đập chứa nước nhỏ được xây dựng trên
các khe suối. Do có hệ thống sông suối, hồ đập phân bố khá đồng đều nên thuận lợi cho
công tác thủy lợi.
Văn Quan là châu - huyện miền núi, có địa hình phức tạp, không thuận lợi cho
phát triển mạng lưới giao thông: sách Đồng Khánh địa dư chí ghi chép về tình hình giao
thông của châu Văn Quan như sau:

“Một đường nhỏ đi từ đông bắc huyện qua các tổng Chu Túc, Tú Xuyên, Huân
Phong, Bình Gia, Cam Thủy đến giáp giới huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, đi hết
khoảng 2 ngày rưỡi.
Một đường nhỏ đi từ huyện lỵ đi về phía tây bắc, rồi chuyển về phía đông nam
qua tổng Quang Bí châu Văn Uyên, đi đến các xã Hữu Đễ, Cử Xá đến giáp địa giới
châu Ôn phủ Tràng Khánh, đi hết khoảng nửa ngày.
Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía tây nam đến xã Cam Thủy, qua các xã Định
Bảo, Vân Mạc, đến giáp giới huyện Thất Khê, đi hết khoảng 2 ngày” [49, tr.607].
Các tuyến đường này giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương đi lại của cư
dân Văn Quan cũng như trao đổi buôn bán hàng hóa, tiếp xúc và giao lưu văn hóa của
cư dân địa phương với các địa phương lân cận. Tuy nhiên các tuyến đường này đều là
đường đất nhỏ hẹp.
Hiện nay, từ trung tâm huyện, có các trục đường giao thông chạy qua các xã
trong huyện khá thuận tiện, có hai tuyến quốc lộ đi qua. Quốc lộ 1B nối liền từ Đồng
Đăng – Lạng Sơn và Bình Gia, Bắc Sơn, Thái Nguyên. Quốc lộ 279 chạy từ Bắc xuống
Nam là tuyến giao lưu với Đồng Mỏ - Chi Lăng, và các tỉnh miền xuôi. Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, mở mang phát triển kinh tế và phát triển du
lịch sinh thái giữa các vùng trong và ngoài huyện.
Khí hậu huyện Văn Quan thuộc vùng khí hậu nhiệt đới và Á nhiệt đới, có hai
mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.
Về mùa này, khí hậu chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc từ Trung Quốc thổi vào. Thời
tiết thường khô hanh, có những đợt rét đậm kéo dài. Sương muối thường xuất hiện vào
tháng 11, 12, 1, thỉnh thoảng có năm có mưa đá, gió xoáy, làm ảnh hưởng không ít đến
cây cối, hoa màu, súc vật và cuộc sống sinh hoạt của nhân dân.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, thời tiết trở nên nóng và ẩm. Lượng
mưa trung bình hàng năm là 1400mm. Cao nhất là 2029mm, thấp nhất là 765mm, lượng
mưa phân bố trong năm không đều, thường mưa tập trung vào các tháng 6, tháng 7 và

12



tháng 8 do ảnh hưởng gió mùa đông nam từ biển thổi vào, thỉnh thoảng chịu ảnh hưởng
của những cơn bão.
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Trong huyện núi non trùng điệp. Ban ngày
thường có mây mù khí núi, mãi đến trưa mới tan. Cuối thu đầu đông nhiều gió đông bắc
lạnh buốt. Mùa xuân vẫn còn lạnh, vào hè tiết trời mới ấm áp. Tháng 6, 7 thường có
mưa dầm. Sau tháng 9 phần nhiều có sương muối. Nông lịch cấy vào tháng 4 đầu
tháng 5 xuống cấy để lúa chín sớm, không nên cấy muộn” [49, tr. 606].
Nhiệt độ ở Văn Quan trung bình 220C, cao nhất 39,80C vào mùa hè; thấp nhất
00C đến 30C vào mùa đông. Từ những đặc điểm trên phần nào ảnh hưởng đến tiến độ
sản xuất ngành nghề.
Độ ẩm không khí bình quân 82,5%. Lượng mưa bình quân năm là 1.500 mm. Do
lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa nên gây khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp và giao thông đi lại. Hướng gió thịnh hành là hướng Đông Bắc và Tây Nam.
Huyện Văn Quan ít bị ảnh hưởng của gió bão nên thích hợp cho phát triển cây trồng dài
ngày. Với nền nhiệt độ và số giờ nắng trung bình trong năm là 1.466 giờ rất thuận lợi
cho việc bố trí mùa vụ, bố trí cơ cấu các loại cây trồng, là điều kiện để phát triển đa
dạng, phong phú các loại cây trồng ôn đới, Á nhiệt đới. Ngoài ra, huyện còn có tiềm
năng về nước ngầm chưa được đầu tư khai thác.
Thổ nhưỡng Văn Quan đất đai màu mỡ, phù hợp phát triển nông nghiệp. Trong
Đồng Khánh địa dư chí có chép: “Ruộng phần nhiều cấy lúa vụ thu, đất thích hợp các loại
bông, đậu, cùng là khoai, sắn, ngô, kê. Các xã Phú Xá, Vân Mộng, Hữu Đễ, Hữu Lương có
các núi đất thích hợp trồng cây hoa hồi. Xã Bác Lãng trồng nhiều mía. Xã Phú Vượng và
xã Hội Hoan có mỏ vàng. Đến những năm trước đây chất vàng suy hao khai thác cạn kiệt
nên đã lâu cũng bỏ không khai thác nữa. Sông Vân Mạc có cá anh vũ, nhưng thịt nhạt
không được như giống cá này ở sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây” [49, tr. 606].
Theo số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất tính đến năm 2010 của phòng
Thống kê huyện Văn Quan thì tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 55.028,23 ha.
Huyện Văn Quan có những vùng núi đất và núi đá vôi xen kẽ, diện tích núi đá có
11.619 ha, trong đó diện tích núi đá không có rừng cây có 5.084,84 ha; diện tích núi đất

có 49.843 ha. Đất của Văn Quan thuộc loại địa hình bằng và sườn thoải (51,0% diện
tích có độ dốc nhỏ hơn 150). Cụ thể diện tích các loại đất như sau:
Đất Nông nghiệp:

45.981,62 ha.

Đất phi Nông nghiệp:

1.954,61 ha.

13


Đất ở đô thị:

40,93 ha.

Đất ở nông thôn:

543,31 ha.

Đất chưa sử dụng:

6.507,76 ha.

Đánh giá chung các loại đất đồi núi của Văn Quan thuộc loại đất tương đối màu
mỡ, đa số đất có tầng dày trên 50 cm, hàm lượng các chất dinh dưỡng từ trung bình tới
khá. Đất thích hợp với các loại cây trồng dài ngày có giá trị, mặc dù thảm thực vật che
phủ không đều, cho nên đất ở một số nơi đã bị xói mòn, suy thoái. Tuy vậy quỹ đất còn
khá lớn. Theo kết quả đánh giá về đất đai huyện Văn Quan thì đất thích hợp cho phát

triển cây ăn quả lên tới 3.500 ha, đất thích hợp cho cây Hồi lên tới 13.680ha.
Đất chưa sử dụng còn 6.507,76 ha, chiếm 11,81% diện tích tự nhiên toàn huyện,
trong đó chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng. Đặc điểm thổ nhưỡng của huyện chủ yếu là:
Đất feralit nâu đỏ hoặc màu vàng phát triển trên đá vôi hoặc bồn địa phù sa. Đây là tiềm
năng và cũng là thế mạnh để phát triển lâm nghiệp, phát triển các loại nông sản đặc sản xứ
lạnh có giá trị kinh tế cao như: hoa, quả, thảo dược,... [3, tr. 10-11].
Nhìn chung, đặc điểm, vị trí địa lý của Văn Quan tạo ra những thế mạnh cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của huyện từ xưa đến nay về các ngành: nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và du lịch sinh thái…
Vị trí địa lý của Văn Quan khá thuận lợi, có quốc lộ 1B chạy qua nối thành phố
Lạng Sơn qua huyện Bình Gia - Bắc Sơn xuống thành phố Thái Nguyên. Quốc lộ 279
nối thị trấn Văn Quan với thị trấn Đồng Mỏ và quốc lộ 1A về thủ đô Hà Nội. Trong
điều kiện hội nhập kinh tế thế giới sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho Văn Quan đẩy mạnh kinh
tế thương mại, du lịch và dịch vụ, đồng thời mở mang phát triển công nghiệp, đặc biệt
là công nghiệp công nghệ cao (lắp ráp điện tử), công nghiêp chế biến thực phẩm, chế
biến đóng gói phục vụ xuất khẩu...
Tuy nhiên, thời tiết Văn Quan khá khắc nghiệt làm ảnh hưởng không ít đến cây
cối, hoa màu, súc vật và cuộc sống sinh hoạt của nhân dân. Khí hậu Văn Quan khá
khắc nghiệt, do nằm trong lòng máng trũng đón gió mùa đông bắc nên mùa đông
thường lạnh và khô, ảnh hưởng khá lớn đến cơ cấu mùa vụ và sự sinh trưởng của các
loại cây trồng, khá nhiều diện tích đất nông nghiệp của huyện chỉ sản xuất được 1-2 vụ
lúa, khó tăng vụ.
Diện tích đất chưa sử dụng của huyện tuy lớn nhưng đo đặc điểm đất đai manh
mún dẫn đến hệ số sử dụng đất còn ở mức thấp, chủ yếu là đất đồi, đất rừng tạp, nhiều
diện tích đất không thể sử dụng được cho sản xuất nông, lâm nghiệp.

14


Trữ lượng nước của huyện thuộc loại trung bình thấp của cả nước, lượng mưa

trung bình hàng năm chỉ đạt từ 1.200-1.600 mm/năm và phân bố không đều giữa các
tháng trong năm. Hệ thống sông ngòi của huyện tuy nhiều nhưng hầu hết đều là những
sông suối có lưu vực nhỏ và trung bình, nhiều thác gềnh, mùa lũ nước dâng rất nhanh
nhưng vào mùa khô nước cạn kiệt do đó việc tích nước, điều tiết nguồn nước cho sản
xuất rất khó khăn.
1.2. Lịch sử hành chính của Văn Quan qua các thời kỳ lịch sử
Căn cứ vào tư liệu lịch sử, danh xưng Văn Quan có từ cuối đời Lê. Cuốn Lạng
Sơn Đoàn Thành đồ của Nguyễn Nghiễm viết năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) cho biết
đồn Bình Gia xã Bình Gia, đồn Pác Khuông xã Định Bảo, đồn Tri Lễ xã Tri Lễ thuộc
châu Văn Quan (bây giờ một phần thuộc huyện Bình Gia). Cuốn Bắc Kỳ lược tỉnh toàn
đồ ghi huyện Văn Quan thuộc phủ Tràng Định. Theo tác giả Đào Duy Anh trong “Đất
nước Việt Nam qua các đời” thì thừa tuyên Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu. Năm 1831,
trấn Lạng Sơn đổi thành tỉnh. Năm 1834, đổi ba châu Yên Bác, Văn Quan, Thất Tuyền
làm huyện. Năm 1836, phủ mới – phủ Tràng Định được thành lập do tách ra từ phủ
Tràng Khánh, gồm 4 châu, huyện phía Bắc là: Châu Văn Uyên, châu Thoát Lãng,
huyện Văn Quan, huyện Thất Khê [1, tr. 148]. Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX ghi châu Văn Quan có 9 tổng. Cũng trong khoảng thời gian 1770 – 1780 trong hai
văn bia hiện nay còn giữ được là Bia Cầu Đá, xã Dã Nham (1771), nay là xã Xuân Mai,
nói đến châu Văn Lan và bài thơ khắc trên đá của Ngô Thì Sĩ ở Khánh Khê đề “Kinh
lược đáo Văn Lan”. Có thể trong khoảng thời gian này có hai tên gọi Văn Lan và Văn
Quan đã cùng tồn tại. Tên Văn Lan đã có từ trước đó rất lâu, còn tên Văn Quan mới
xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, nhưng đến cuối thế kỷ XIX do tách huyện nên tên
Văn Quan đã không còn. Đến tháng 8-1964, sáp nhập huyện Bằng Mạc và huyện Điềm
He thành huyện mới, lấy lại tên Văn Quan làm tên huyện.
Thời Bắc thuộc là đất châu Văn. Trong danh sách các châu “Ki mi” của An Nam
đô hộ phủ mà các sách Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều nhắc đến châu Văn.
Thời kỳ nước nhà độc lập Đinh – Lê – Lý vẫn là đất châu Văn, dựa trên địa giới hành
chính thời An Nam đô hộ phủ. Thời Trần chia thành châu Thượng Văn và Hạ Văn, dưới
châu là huyện. Châu Thượng Văn có các huyện Bôi Lan, huyện Khố và huyện Khánh
Viễn. Vua Trần Hiến Tông (1329 – 1341) đã sai quan võ là Nguyên Công Ngân lên cai

trị châu Thất Nguyên và châu Văn Lan (theo sách Tìm hiểu về chế độ thổ ty Lạng Sơn
do Lã Văn Lô sưu tầm) và lấy đó làm đất thế tập phiên thần.

15


Thời Lê Sơ, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) Thừa Tuyên Lạng Sơn có 1 phủ
7 châu, trong đó châu Văn Lan gồm 34 xã (theo Hồng Đức bản đồ). Thời Nguyễn, lỵ sở
huyện Văn Quan đóng tại xã Phú Nhuận (nay thuộc khu vực xã Văn An). Tự Đức năm
thứ 20 (1867) rời về xã Chi Quan, năm thứ 25 chuyển về Nà Vài. Thành Thái năm thứ 5
(tháng 9-1894) lại chuyển huyện lỵ về Chi Quan.
Cương vực huyện Văn Quan thế kỷ XIX bao gồm một phần đất của huyện Văn
Quan ngày nay và toàn bộ huyện Bình Gia. Một phần đất của Văn Quan ngày nay lúc
bấy giờ thuộc hai châu Ôn và Văn Uyên. Thuộc châu Ôn có 2 tổng: Tràng Quế và Bằng
Mạc gồm 12 xã, thuộc châu Văn Uyên có tổng Quang Bí gồm 7 xã.
Theo cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh
trở ra), châu Văn Quan thuộc phủ Tràng Định, gồm 9 tổng, 41 xã và 8 phố khách (phố
người Hoa). Đó là:
Bảng 1.1: Thống kê địa danh các tổng, xã của châu Văn Quan thế kỷ XIX
STT

Tổng



1

Tổng Địa Linh
Có 3 xã


2

Tổng Mãnh Xá
có 3 xã

Mãnh Xá (Phú Xá), Khánh Khê, Sơn Tăng.

3

Tổng Chu Túc
có 7 xã

Chu Túc, Chu Quan, Phú Nhuận, Hữu Để, Vĩnh
Lại, Phồn Hoa, Cử Xã (Lữ Xá – Tràng Sơn).

4

Tổng Bằng Gia
có 3 xã

Bằng Gia, Hu Khê, Tinh Sóc (nay thuộc huyện
Bình Gia).

5

Tổng Uy Mãnh
có 5 xã

Uy Mãnh, Vân Mạc, Bằng Định, Tòng Lệnh,
Lãnh Dương (nay thuộc huyện Bình Gia).


6

Tổng Hội Hoan
có 4 xã

Hội Hoan, Hòa Quang, Gia Miễn, Bắc La (nay
thuộc huyện Văn Lãng).

7

Tổng Huân Phong
có 6 xã

Huân Phong, Mậu Nông, Phúc Vượng, Tri Lễ,
Phù Gia, Hữu Lương.

8

Tổng Nghĩa Liệt
có 5 xã

Nghĩa Liệt, Phú An, Vân Mộng, Phú Tảo, Bắc
Lãng (Pác Lãng).

9

Tổng Tuyền Cam
có 5 xã


Tuyền Cam, Thuần Như, Tòng Chu, Cúc Viên,
Định Bảo.

Ghi chú

Địa Linh, Lương Năng, Lục Kỳ.

8 phố khách gồm: Phố Nà He, phố Vân Mạc, phố Khương Bảo, phố Hội Hoan,
phố Nà Vài, phố Hiệu Ải, phố Uy Mãnh, phố Bằng Gia [4, tr. 772].
16


Tháng 8-1894 tách tổng Bằng Gia và Tuyền Cam lập thành châu Bằng Gia. Cùng
năm đó huyện Văn Quan bị bãi bỏ, sáp nhập vào châu Văn Uyên thuộc phủ Tràng Định.
Theo danh sách các tổng và xã thuộc các châu của Lạng Sơn (bản tiếng Pháp,
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Số KH:1-47-730 năm 1907) thì đất của huyện Văn Quan
ngày nay vào đầu thế kỷ XX ở vào các châu:
1. Thuộc châu Văn Uyên có các tổng: Quang Bí, Mỹ Liệt, Chu Túc, Dã Nham.
- Tổng Quang Bí có 7 xã: Quang Bí, Ích Hữu, Hà Quảng, Xuân Quang, Bình
Đãng, Việt Yên, Quảng Mạc.
- Tổng Mỹ Liệt có 5 xã: Mỹ Liệt, Vân Mộng, Bắc Lãng, Phù Hê, Phú Mỹ.
- Tổng Chu Túc có 7 xã: Chu Túc, Minh Lại, Hữu Lễ, Lữ Xá, Tri Quan, Phiền
Mậu, Phú Nhuận.
- Tổng Dã Nham có 5 xã: Dã Nham, Bình Phúc, Thu Cúc, Trực Tầm, Đức Hinh.
2. Thuộc châu Ôn có 1 tổng Tràng Quế gồm các xã: Tràng Quế, Vân Nham, Quy
Hậu, Tràng Các, Thượng Lạc, Kim Quan, Tràng Phái.
3. Thuộc châu Bằng Mạc có 2 tổng: Tri Lễ và Tú Xuyên.
- Tổng Tri Lễ có 2 xã: Tri Lễ, Phù Gia.

- Tổng Tú Xuyên có 3 xã: Tú Xuyên, Lương Năng, Na Hoắc.

Cuối năm 1917, theo Quyết định số 2505 ngày 19-12-1917 của quyền Thống sứ
Bắc Kỳ Le Gallen, châu Điềm He được thành lập. Theo Điều 2 của Quyết định này,
châu Điềm He gồm các phần đất:
1. Phần đất trước kia đã nhập vào châu Văn Uyên và xã Nhân Lý của châu Văn
Uyên trước đó.
2. Tổng Tràng Quế của châu Ôn nhập vào châu Điềm He.
3. Lập tổng mới là tổng Khánh Khê gồm các xã: Khánh Khê, Kỳ Mông, Văn
Giáp, Trung Giáp (trước đó thuộc châu Văn Uyên).
Sau ngày hòa bình lập lại (25/3/1948) ta cơ bản vẫn giữ địa giới hành chính cũ,
đổi châu thành huyện Điềm He. Huyện Điềm He khi đó gồm các xã: Phú Mỹ, Việt Yên,
Trấn Ninh, Vân Mộng, Vĩnh Lại, Song Giang, Văn An, Khánh Khê, Đồng Giáp, Tràng
Các, Chu Túc, Tràng Phái, Tân Đoàn, Tràng Khê, Đại An, Xuân Mai.
Huyện Bằng Mạc có 12 xã: Lương Năng, Bằng Mạc, Tú Xuyên, Bình Phúc, Yên
Phúc, Tri Lễ, Hữu Lễ, Gia Lộc, Thượng Cường, Y Tịch, Vạn Linh, Hữu Liên. Huyện lỵ
đóng ở xã Vạn Linh.
Tháng 8-1964, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 148/SL,
huyện Văn Quan được thành lập, bao gồm toàn bộ huyện Điềm He và 6 xã của huyện
17


×