BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN NGỌC BÍCH
TÁC ĐỘNG CỦA QUY MÔ ĐẾN KHẢ NĂNG
CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan Luận văn Thạc sĩ với đề tài: “Tác động của quy mô đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam” là công trình nghiên
cứu độc lập của riêng tác giả, với sự hướng dẫn và hỗ trợ chuyên môn từ PGS.TS.
Nguyễn Khắc Quốc Bảo. Trong bài nghiên cứu này về mặt số liệu, tác giả thu thập từ
báo cáo tài chính, báo cáo thường niên từ các nguồn dữ liệu của bên thứ ba độc lập,
được công nhận trong nước và đáng tin cậy như: /> Ngoài ra, tác giả còn thu thập một vài số liệu và chỉ tiêu
được công bố chính thức trên các trang thông tin điện tử của những ngân hàng thương
mại đang hoạt động tại Việt Nam. Do đó, số liệu trong Luận văn được xem là trung
thực.
Đồng thời, tác giả cam đoan các số liệu này chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Tất cả những tham khảo cũng như các kế
thừa từ những nghiên cứu trước đều được tác giả trích dẫn đầy đủ.
Học viên
Trần Ngọc Bích
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
TÓM TẮT
ABSTRACT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1
1.1.
Đặt vấn đề ......................................................................................................1
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ..................................................3
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................3
1.4.
Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4
1.5.
Ý nghĩa thực tiễn và tính mới của đề tài ........................................................4
1.6.
Cấu trúc của Luận văn ...................................................................................5
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY .............................................................................6
2.1.
Khung lý thuyết .............................................................................................6
2.2.
Tổng quan các nghiên cứu – Giả thuyết nghiên cứu .....................................7
2.2.1.
Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến tương quan dương giữa quy
mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng .......................................7
2.2.2.
Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến tương quan âm giữa quy mô
và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng..............................................8
2.2.3.
Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến các yếu tố khác ảnh hưởng
đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng..........................................10
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................16
3.1. Mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu ..........................................................16
3.1.1. Mẫu nghiên cứu ........................................................................................16
3.1.2. Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................18
3.2. Phương pháp và mô hình nghiên cứu .............................................................18
3.2.1. Mô hình cơ sở .......................................................................................18
3.2.2. Kiểm tra tính vững ................................................................................28
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................29
4.1. Thống kê mô tả và ma trận hệ số tương quan của các biến trong mô hình ....29
4.1.1. Thống kê mô tả .....................................................................................29
4.1.2. Ma trận hệ số tương quan......................................................................33
4.2. Kết quả hồi quy ...............................................................................................36
4.2.1. Kết quả hồi quy chính ...........................................................................36
4.2.1. Kết quả kiểm tra tính vững ...................................................................38
4.2.3. Kết quả phân rã các thành phần đo lường rủi ro của ngân hàng ...........40
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HÀM Ý CHÍNH SÁCH VÀ HẠN CHẾ CỦA BÀI
NGHIÊN CỨU .........................................................................................................44
5.1. Kết luận ...........................................................................................................44
5.2. Hạn chế của đề tài ...........................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG TRONG MẪU NGHIÊN CỨU
PHỤ LỤC 2: ĐO LƯỜNG CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH
PHỤ LỤC 3: PHÂN TÍCH MA TRẬN HỆ SỐ TƯƠNG QUAN
PHỤ LỤC 4: THỐNG KÊ F ĐỂ KIỂM ĐỊNH HIỆN TƯỢNG NỘI SINH
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ HỒI QUY
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nghĩa Tiếng Anh
STT
Từ viết tắt
1
CRSP
2
FEM
3
HNX
4
HOSE
5
OLS
Ordinary Least Square
6
OTC
Over-The-Counter
7
REM
Random Effect Model
8
UpCOM
9
2SLS
Center for Research in
Security Prices
Fixed Effect Model
Hanoi Stock Exchange
Commission
Nghĩa Tiếng Việt
Cơ sở dữ liệu CRSP
Phương pháp hồi quy hiệu ứng cố
định
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Ho Chi Minh Stock
Sở giao dịch chứng khoán Thành
Exchange Commission
phố Hồ Chí Minh
Phương pháp hồi quy bình phương
bé nhất
Sở giao dịch chứng khoán phi tập
trung
Phương pháp hồi quy hiệu ứng ngẫu
nhiên
Unlisted Public
Sở giao dịch chứng khoán các công
Company Market
ty đại chúng chưa niêm yết
Two-Stage Least Square
Phương pháp hồi quy hai giai đoạn
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2. 1. Bảng tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ...........................13
Bảng 3. 1. Danh sách các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu ....................................16
Bảng 3. 2. Tỷ trọng tích lũy các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu ..........................18
Bảng 3. 3. Đo lường các biến trong mô hình cơ bản ................................................25
Bảng 3. 4. Bảng tổng hợp kỳ vọng về dấu của các biến trong mô hình ...................26
Bảng 4. 1. Thống kê mô tả của các biến trong mô hình............................................30
Bảng 4. 2. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ..........................35
Bảng 4. 3. Kết quả hồi quy tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của
các ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................................36
Bảng 4. 4. Kết quả hồi quy kiểm tra tính vững tác động của quy mô đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam bằng cách thay biến quy
mô bằng logarit của tổng doanh thu ..........................................................................38
Bảng 4. 5. Kết quả hồi quy kiểm tra tính vững tác động của quy mô đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam bằng cách thay biến quy
mô bằng logarit của giá trị vốn hóa thị trường..........................................................39
Bảng 4. 6. Kết quả hồi quy kiểm tra tính vững tác động của quy mô đến tỷ suất sinh
lợi trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam .................................40
Bảng 4. 7. Kết quả hồi quy kiểm tra tính vững tác động của quy mô đến độ lệch tiêu
chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam
...................................................................................................................................41
Bảng 4. 8. Kết quả hồi quy kiểm tra tính vững tác động của quy mô đến tỷ lệ vốn chủ
sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam...........................41
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Quy trình nghiên cứu tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro
của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam ............................................................19
TÓM TẮT
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, các ngân hàng thương mại đóng vai trò quan
trọng, từ đó hoạt động của các ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường tài
chính và nền kinh tế Việt Nam. Do đó, bài nghiên cứu này được thực hiện để kiểm
định tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương
mại Việt Nam. Bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy hai giai đoạn (2SLS) với
mẫu là các ngân hàng thương mại đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 2008 – 2018, tác giả đã trưng ra bằng chứng cho thấy rằng quy
mô có tương quan dương đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương
mại Việt Nam. Hay nói cách khác, các ngân hàng có quy mô càng lớn càng có xu
hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong hoạt động kinh doanh so với các ngân hàng
có quy mô nhỏ. Trong phần kiểm tra tính vững, tác giả một lần nữa trưng ra bằng
chứng cho thấy rằng quy mô có tương quan dương đến khả năng chấp nhận rủi ro của
các ngân hàng thương mại Việt Nam. Với phát hiện này, các ngân hàng thương mại
có thể điều chỉnh các chiến lược kinh doanh để có thể hạn chế tác động của quy mô
đến khả năng chấp nhận rủi ro, từ đó không đưa ra các chính sách liên quan đến quy
mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng làm ảnh hưởng đáng kể đến rủi
ro của ngân hàng.
Từ khóa: ngân hàng thương mại Việt Nam, quy mô, rủi ro ngân hàng, phương pháp
hồi quy hai giai đoạn (2SLS)
ABSTRACT
In the context of Vietnamese economy, commercial banks play important role in the
financial market. As such, the purpose of this paper is to test the relationship of size
and risk-taking of Vietnamese commercial banks. By using Two-Stage Least Square
(2SLS) method with sample of the Vietnamese commercial banks listed on stock
exchange commission in the 2008 – 2018 period, I state that the size of Vietnamese
commercial banks has positive impact on risk-taking. In particular, the more sizable
Vietnamese commercial banks is, the more risk-taking the ones is. In the robust test,
I also show that size has positive impact on risk-taking of Vietnamese commercial
banks. In this regard, the Vietnamese commercial banks can give the proper policies
to conduct business operation, without affecting significant the relationship between
size and risk-taking of Vietnamese commercial banks.
Keywords: Vietnamese commercial banks, size, risk-taking, Two-Stage Least Square
(2SLS) method
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1.
Đặt vấn đề
Về mặt thực tiễn, chủ đề tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện trên thế giới. Tuy nhiên, các bài
nghiên cứu trước đây vẫn chưa có kết luận thống nhất về tác động của quy mô đến
khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Cụ thể, có nghiên cứu tìm ra tương
quan dương giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng (Saunders,
Strock & Travlos, 1990; Brewer III & Jagtiani, 2009; Afonso, Santos & Traina; 2014)
và cũng có nghiên cứu tìm ra tương quan âm giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi
ro của các ngân hàng (Boyd & Runkle, 1993; Demsetz & Strahan, 1997; De Nicolo,
2000; Laeven & Levine, 2009; Houston và cộng sự, 2010). Gần đây, Bhagat, Bolton
& Lu (2015) đã thực hiện nghiên cứu về chủ đề này với mẫu là các định chế tài chính
hoạt động ở Mỹ trong giai đoạn 2002 – 2012, bao gồm các ngân hàng thương mại,
ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm. Nhóm tác giả đã phát hiện ra rằng quy mô của
các định chế tài chính có tương quan âm đến khả năng chấp nhận rủi ro. Hay nói cách
khác, các định chế tài chính có quy mô càng lớn chàng chấp nhận ít rủi ro và ngược
lại.
Đối với nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu kiểm
định tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam. Tuy nhiên gần đây, Nguyễn Thị Liên Hoa & cộng sự (2019) đã
nghiên cứu mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro của 23 ngân hàng
thương mại cổ phần đang hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2017, và
nhóm tác giả đã phát hiện ra rằng mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi
ro của các ngân hàng là mối quan hệ cùng chiều.
Về lý thuyết, lý thuyết “Quá lớn để sụp đổ - Too big to fail” đã chỉ ra mối tương quan
giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng là tương quan dương và
bắt nguồn từ rủi ro đạo đức. Cụ thể, rủi ro đạo đức trên thị trường tiền tệ là loại rủi ro
mà các định chế tài chính lớn trên thị trường có thể chấp nhận các hoạt động rủi ro
hơn do Chính phủ hay Ngân hàng trung ương sẽ hỗ trợ các định chế tài chính này
2
thoát khỏi tình trạng khó khăn khi hoạt động có vấn đề thông qua các gói cứu trợ an
toàn hoặc các khoản vay trực tiếp từ Chính phủ hay Ngân hàng trung ương. Với các
gói hỗ trợ an toàn hoặc các khoản vay trực tiếp này, các định chế tài chính sẽ không
gánh chịu các khoản lỗ nếu hoạt động của các tổ chức này có vấn đề. Chính điều đó
đã làm cho các định chế tài chính lớn chấp nhận các quyết định rủi ro hơn để tìm kiếm
tỷ suất sinh lời cao hơn.
Do đó chủ đề tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng
thương mại vẫn còn là một câu hỏi cần được giải quyết. Ngoài ra, đối với nền kinh tế
Việt Nam thì các ngân hàng thương mại là những tổ chức kinh doanh tiền tệ có tầm
ảnh hưởng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể, các ngân hàng thương mại là những
định chế tài chính trung gian cung cấp đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính so với
các định chế tài chính khác, trong đó các dịch vụ của ngân hàng chủ yếu là huy động
tiền gửi, cho vay, chiết khấu và trung gian thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh
tế. Đặc biệt, hoạt động của các ngân hàng thương mại giúp ổn định nền kinh tế thông
qua việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia nhằm ổn định tiền tệ, tạo dòng lưu thông
tiền tệ giúp tăng trưởng kinh tế, ổn định sức mua đồng tiền… Tuy nhiên, hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro nguồn vốn, rủi ro thanh khoản, rủi
ro hoạt động và nhiều loại rủi ro khác. Do đó, hoạt động ngân hàng cần được kiểm
soát theo định hướng để tránh tạo ra các ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế. Thực tế,
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam có xu hướng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận để
mở rộng quy mô. Hoạt động này có thể tạo ra rủi ro cho các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam hay không?
Từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên cùng với thực tiễn hoạt động các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam, tác giả tiến hành lựa chọn nghiên cứu chủ đề: “Tác
động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam” cho Luận văn Thạc sĩ của mình. Qua đó, tác giả sẽ trưng ra bằng chứng
cho thấy quy mô có tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương
mại hoạt động tại Việt Nam hay không? Từ đó có thể giúp cho những nhà hoạch định
3
chính sách đề ra chính sách phù hợp để điều chỉnh các chiến lược hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại.
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu này tác giả thực hiện với mục tiêu kiểm định tác động của quy mô
đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai
đoạn 2008 – 2018. Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu này, tác giả sẽ trả lời cho các
câu hỏi nghiên cứu sau:
❖
Thứ nhất, liệu rằng quy mô của ngân hàng có tác động đến khả năng chấp nhận
rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hay không?
❖
Thứ hai, nếu quy mô có tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam thì tương quan giữa quy mô và khả năng chấp nhận
rủi ro của các ngân hàng là tương quan âm hay dương?
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong bài nghiên cứu này là mối tương quan giữa quy mô và
khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Hay nói cách
khác, tác giả muốn thực hiện bài nghiên cứu này để phát hiện ra mối tương quan giữa
quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại đang hoạt động
tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2018. Tuy nhiên, mối tương quan này chỉ áp
dụng cho toàn mẫu nghiên cứu của tác giả mà không áp dụng cho từng ngân hàng
thương mại cụ thể nào. Đồng thời, tác giả không chỉ ra giá trị ngưỡng của quy mô để
làm thay đổi khẩu vị rủi ro của các ngân hàng.
Với đối tượng nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của tác giả là các ngân hàng
thương mại hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2018. Các ngân hàng hoạt
động tại Việt Nam bao gồm các ngân hàng niêm yết trên bốn Sở giao dịch chứng
khoán bao gồm: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), Sở giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) và
Sở giao dịch chứng khoán các công ty đại chúng chưa niêm yết (UpCOM). Tuy nhiên,
tác giả đã loại các ngân hàng không công bố thông tin hoặc không đầy đủ dữ liệu
trong giai đoạn 05 năm liên tục. Tác giả tiến hành chọn giai đoạn nghiên cứu là giai
4
đoạn 2008 – 2018 là do các ngân hàng thương mại Việt Nam mới bắt đầu công bố
đầy đủ dữ liệu từ năm 2008 trở đi và dữ liệu trong giai đoạn này được kiểm toán một
cách đầy đủ. Ngoài ra, thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu phát triển từ năm
2008 số lượng các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều
hơn đáng kể so với giai đoạn trước đó.
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
Do hầu hết những biến mà tác giả sử dụng trong các mô hình nghiên cứu là các biến
sử dụng dữ liệu về kế toán, trong đó các dữ liệu này được tác giả thu thập từ các chỉ
tiêu trên báo cáo tài chính kiểm toán của các ngân hàng thương mại. Với chuỗi dữ
liệu này và sau khi tác giả thực hiện các kiểm định có liên quan thì chuỗi dữ liệu của
tác giả xảy ra vấn đề nội sinh1, do đó phương pháp hồi quy định lượng mà tác giả sử
dụng là phương pháp hồi quy hai giai đoạn (Two-Stage Least Square – 2SLS). Do dữ
liệu của tác giả là dữ liệu bảng và phương pháp hồi quy bình phương bé nhất (OLS),
phương pháp hồi quy hiệu ứng cố định (FEM) và phương pháp hồi quy hiệu ứng ngẫu
nhiên (REM) không phù hợp với dữ liệu bị nội sinh nên phương pháp hồi quy 2SLS
được xem là phù hợp để ước lượng các mô hình.
Trong phần kiểm tra tính vững, do chuỗi dữ liệu của tác giả tiếp tục bị nội sinh do đó
tác giả sẽ vẫn sử dụng phương pháp hồi quy 2SLS để tìm kiếm kết quả hồi quy không
chệch và đáng tin cậy nhất.
1.5.
Ý nghĩa thực tiễn và tính mới của đề tài
Thông qua các kết quả ước lượng, tác giả trưng ra bằng chứng cho thấy quy mô tương
quan dương đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Cụ thể, ngân hàng có quy mô càng lớn thì càng có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro
hơn trong hoạt động kinh doanh so với các ngân hàng có quy mô nhỏ.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu đã trưng ra một số điểm mới so với các bài nghiên cứu
thực nghiệm trước đó như sau:
❖
Thứ nhất, nghiên cứu được thực hiện trong bối cảnh mới. Liên quan đến vấn
đề này, đa số các bài nghiên cứu thực nghiệm trước đây về chủ đề này được thực hiện
1
Thông qua kiểm định F (F-statistic) và được trình bày chi tiết trong Phụ lục 4.
5
với mẫu là các định chế tài chính ở các thị trường phát triển như các nghiên cứu của
Boyd & Runkle (1993); Demsetz & Strahan (1997); De Nicolo (2000); Laeven &
Levine (2009); Houston và cộng sự (2010); Bhagat, Bolton & Lu (2015). Trong khi
đó, tác giả thực hiện nghiên cứu này ở Việt Nam, với mẫu là ngân hàng thương mại
đang niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2018. Đây
được xem là một trong số các điểm mới vì ngân hàng niêm yết ở Việt Nam có nhiều
đặc điểm riêng biệt và bị chi phối bởi các đặc điểm của một nền kinh tế đang phát
triển.
❖
Thứ hai, các phát hiện và hàm ý mới của đề tài. Bên cạnh kết quả nghiên cứu
chính là quy mô có tương quan dương đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng thương mại Việt Nam, tác giả còn trưng ra bằng chứng cho thấy rằng, tuổi của
các ngân hàng càng lớn thì các ngân hàng càng có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro
hơn do ngân hàng có bề dày kinh nghiệm tốt trong quản trị rủi ro. Ngoài ra trong phần
kiểm tra tính vững, tác giả còn trưng ra bằng chứng cho thấy quy mô tác động đến tỷ
suất sinh lợi trên tổng tài sản và độ lệch tiêu chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài
sản. Với những phát hiện trên, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể đưa ra các
chính sách phù hợp về tương quan giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.6.
Cấu trúc của Luận văn
Bài nghiên cứu này được thực hiện theo bố cục sau: Chương 1 trình bày Giới thiệu,
trong chương này tác giả sẽ đưa ra lý do tại sao tác giả lại lựa chọn nghiên cứu chủ
đề này; tổng quan về mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý
nghĩa thực tiễn của đề tài. Chương 2 trình bày khung lý thuyết và tổng quan các
nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Trong chương 2, tác giả sẽ đưa ra cơ sở lý thuyết
tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các định chế tài chính, đồng
thời tác giả sẽ trình bày các phát hiện trước đó liên quan đến chủ đề này và giả thuyết
có liên quan. Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu; cho thấy dữ liệu, mẫu,
mô hình và phương pháp định lượng được sử dụng. Chương 4 và chương 5 lần lượt
là kết quả và kết luận của bài nghiên cứu.
6
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY
2.1.
Khung lý thuyết
Lý thuyết nền tảng nghiên cứu tác động của quy mô đến khả năng chấp nhận rủi ro
của các ngân hàng thương mại là lý thuyết “Quá lớn để sụp đổ - Too big to fail”. Theo
lập luận của Mishkin trong quyển sách “Kinh tế học về Tiền tệ, Ngân hàng và Các
thị trường tài chính” – Tái bản lần thứ 10, tác giả đã đề cập đến khái niệm quá lớn để
sụp đổ của các ngân hàng thương mại bắt nguồn từ rủi ro đạo đức. Cụ thể, rủi ro đạo
đức trên thị trường tiền tệ là loại rủi ro mà các định chế tài chính lớn trên thị trường
có thể chấp nhận các hoạt động rủi ro hơn do Chính phủ hay Ngân hàng trung ương
sẽ hỗ trợ các định chế tài chính này thoát khỏi tình trạng khó khăn khi hoạt động có
vấn đề thông qua các gói cứu trợ an toàn hoặc các khoản vay trực tiếp từ Chính phủ
hay Ngân hàng trung ương. Với các gói hỗ trợ an toàn hoặc các khoản vay trực tiếp
này, các định chế tài chính sẽ không gánh chịu các khoản lỗ nếu hoạt động của các tổ
chức này có vấn đề. Chính điều đó đã làm cho các định chế tài chính lớn chấp nhận
các quyết định rủi ro hơn để tìm kiếm tỷ suất sinh lời cao hơn.
Rủi ro đạo đức được tạo ra do các khoản hỗ trợ an toàn và mong muốn không để cho
các định chế tài chính lớn rơi vào tình trạng phá sản, bởi vì khi một định chế tài chính
lớn phá sản có thể dẫn đến sự sụp đổ của các định chế tài chính khác và thậm chế là
hệ thống tài chính của một quốc gia. Do đó, rất ít các trường hợp mà Chính phủ hay
Ngân hàng trung ương cho phép một định chế tài chính lớn đi đến con đường phá
sản. Do đó, Mishkin đã trưng ra bằng chứng cho thấy rằng các định chế có quy mô
càng lớn sẽ càng có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động.
Tóm lại, chính các khoản hỗ trợ an toàn từ Chính phủ hay Ngân hàng trung ương đã
tạo ra rủi ro đạo đức và cuối cùng tạo ra tâm lý ỷ lại của các định chế tài chính lớn
trong các hoạt động kinh doanh, từ đó làm cho các định chế tài chính lớn chấp nhận
rủi ro hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
7
2.2.
Tổng quan các nghiên cứu – Giả thuyết nghiên cứu
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã cho thấy rằng quy mô vừa có tương quan
dương, vừa có tương quan âm đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Do
đó ở phần này, tác giả tiến hành tổng quan hóa các phát hiện cùng với các hàm ý của
các bài nghiên cứu trước đây theo hai mối tương quan âm và dương.
2.2.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến tương quan dương giữa quy mô
và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng
Saunder, Strock & Travlos (1990) đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa quy mô,
cấu trúc sở hữu và quyết định bãi bỏ các quy định đến khả năng chấp nhận rủi ro của
các ngân hàng niêm yết ở Mỹ trong giai đoạn 1978 – 1985. Nhóm tác giả đã phát hiện
ra rằng quy mô có tương quan dương đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng trong giai đoạn này. Nguyên nhân được nhóm tác giả lý giải là do đa phần các
ngân hàng trong mẫu là các ngân hàng lớn và đã hoạt động lâu năm và các quy định
ở Mỹ trong giai đoạn này vẫn không cho phép phá sản ngân hàng. Do đó, các ngân
hàng có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong các quyết định kinh doanh do nếu
các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn tài chính hoặc thậm chí lâm vào tình trạng
phá sản thì ngân hàng có khả năng nhận được sự hỗ trợ tài chính từ ngân hàng trung
ương. Chính hành động này của các cơ quan quản lý đã tạo ra tâm lý ỷ lại của các
ngân hàng. Ngoài ra, nhóm tác giả còn trưng ra bằng chứng cho thấy rằng các ngân
hàng có cấu trúc sở hữu là cổ đông nắm quyền kinh doanh sẽ chấp nhận nhiều rủi ro
hơn so với các ngân hàng có cổ đông không nắm quyền kinh doanh.
Afonso, Santos & Traina (2014) đã nghiên cứu chủ đề này với mẫu là 224 ngân hàng
ở 45 quốc gia phát triển trong giai đoạn 2007 – 2013. Cuối cùng, nhóm tác giả đã
trưng ra bằng chứng ủng hộ rằng ngân hàng càng lớn sẽ càng chấp nhận nhiều rủi ro
và phát hiện này được nhóm tác giả giải thích dựa vào lập luận “too big to fail”. Theo
đó, ngân hàng có quy mô càng lớn sẽ càng có tâm lý chủ quan, ỷ lại khi có thể nhận
được các hỗ trợ từ chính phủ khi lâm vào tình trạng khó khăn tài chính, từ đó các
ngân hàng có xu hướng chấp nhận các quyết định rủi ro hơn.
8
Một trong những cách tiếp cận khác khi nghiên cứu tác động của quy mô đến khả
năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng là cách tiếp cận trong bài nghiên cứu của
Brewer III & Jagtiani (2009). Theo nghiên cứu này, nhóm tác giả đã nghiên cứu các
thương vụ thâu tóm và sáp nhập của các ngân hàng đang niêm yết công khai trong
giai đoạn 1991 – 2004 từ cơ sở dữ liệu Center for Research in Security Prices (CRSP).
Cuối cùng, nhóm tác giả trưng ra bằng chứng thấy rằng các ngân hàng có xu hướng
chấp nhận nhiều rủi ro hơn bằng cách trả nhiều tiền hơn để thâu tóm các ngân hàng
mục tiêu, từ đó làm tăng quy mô ngân hàng. Sau khi tăng quy mô, các ngân hàng này
lại có xu hướng đi thâu tóm ngân hàng khác để tiếp tục tăng quy mô. Cụ thể, nhóm
tác giả nhận thấy rằng ngân hàng trả ít nhất 14 tỷ Đô la Mỹ trong tám thương vụ thâu
tóm lớn nhất trong mẫu quan sát của nhóm tác giả để làm tăng trên 100 tỷ Đô la Mỹ
của tổng tài sản. Qua nghiên cứu này, các ngân hàng có xu hướng chấp nhận nhiều
rủi ro hơn để làm tăng tổng tài sản của ngân hàng, và sau đó các ngân hàng lại có xu
hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn.
2.2.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến tương quan âm giữa quy mô và
khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng
Nghiên cứu mở đầu cho thấy tương quan âm giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi
ro của các ngân hàng là nghiên cứu của Boyd & Runkle (1993). Với mẫu là các ngân
hàng cổ phần lớn đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1980 –
1993, bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm có
quy mô lớn, nhóm tác giả đã phát hiện ra rằng quy mô có tương quan âm với mức ý
nghĩa thống kê đáng kể đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại.
Nói cách khác, các ngân hàng thương mại càng lớn sẽ càng có xu hướng chấp nhận
ít rủi ro do các ngân hàng này có khả năng quản trị rủi ro tốt hơn so với ngân hàng có
quy mô nhỏ.
Một trong những nghiên cứu điển hình khác về tương quan âm giữa quy mô và khả
năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng là nghiên cứu của Demsetz & Strahan
(1997). Nhóm tác giả lập luận rằng các ngân hàng có quy mô càng lớn sẽ là các ngân
hàng đa dạng hóa tốt nên sẽ gánh chịu ít rủi ro hơn so với các ngân hàng có quy mô
9
nhỏ. Tiếp đó, Demsetz, Saidenberg & Strahan (1997) đã thực hiện nghiên cứu với
mẫu 350 ngân hàng niêm yết công khai trên cơ sở dữ liệu CRSP trong giai đoạn 1991
– 1995. Bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy FEM và REM, nhóm tác giả đã phát
hiện ra rằng quy mô có tương quan âm đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng. Nhóm tác giả lý giải phát hiện này là do các ngân hàng có quy mô càng lớn thì
thường là các ngân hàng có các hoạt động kinh doanh đa dạng hóa tốt hơn so với các
ngân hàng nhỏ. Ngoài ra, quy mô ngân hàng càng lớn càng làm giảm thiểu mức độ
tập trung trong cơ cấu sở hữu, thông qua đó làm giảm vấn đề đại diện2. Do vấn đề đại
diện mà các nhà quản lý ngân hàng có thể theo đuổi các quyết định vì lợi ích cá nhân
hơn là vì mục tiêu tối đa hóa thu nhập của chủ sở hữu. Dẫn đến, chính vấn đề đại diện
làm cho các cổ đông ngân hàng phải gánh chịu nhiều rủi ro hơn so với ngân hàng
gánh chịu ít chi phí đại diện.
Cùng phát hiện đó, Kunt & Huizinga (2010) đã phát hiện ra rằng quy mô ngân hàng
có tương quan âm đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng do các ngân hàng
lớn là những ngân hàng có các hoạt động đa dạng hóa tốt hơn so với các ngân hàng
nhỏ. John, Litov & Yeung (2008) đã trưng ra bằng chứng cho thấy rằng quy mô của
ngân hàng có tương quan âm đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thông
qua mẫu là các ngân hàng hoạt động ở Mỹ trong giai đoạn 1992 – 2002 thông qua
phương pháp hồi quy 2SLS.
Laeven & Levine (2009) đã nghiên cứu chủ đề này với mẫu là 296 ngân hàng ở 48
quốc gia khác nhau trong giai đoạn 1996 – 2001. Cuối cùng, nhóm tác giả đã phát
hiện ra rằng mối tương quan giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng là tương quan âm. Qua đó hàm ý quy mô của ngân hàng càng lớn càng có xu
hướng chấp nhận ít rủi ro và ngược lại. Nguyên nhân được các tác giả lý giải là do đa
số các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu của nhóm tác giả là các ngân hàng đã hoạt
động lâu năm nên ngân hàng đã cóbề dày kinh nghiệm quản trị rủi ro và đa số các
ngân hàng đang ở giai đoạn bão hòa nên ít có các cơ hội đầu tư vào các dự án có
nhiều rủi ro.
2
Vấn đề đại diện là các thiệt hại tài chính do mâu thuẫn giữa cổ đông và nhà quản lý gây ra.
10
Demirguc-Kunt & Huizinga (2011) phát hiện ra mối quan hệ tương quan âm giữa quy
mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, do các ngân hàng lớn là các ngân
hàng thường hay quản trị tốt các rủi ro về các sự thay đổi trên thị trường so với các
ngân hàng có quy mô nhỏ. Phát hiện này của nhóm tác giả được đưa ra dựa trên các
kết quả ước lượng từ phương pháp hồi quy FEM với mẫu là các ngân hàng hoạt động
trên nhiều quốc gia giai đoạn 1991 – 2009.
Gần đây, cũng như các bài nghiên cứu trước đây, Bhagat, Bolton & Lu (2015) cũng
phát hiện ra mối tương quan âm giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng thương mại tại Mỹ, bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư
và công ty bảo hiểm trong giai đoạn 2002 – 2012.
Do đó, liên quan đến tương quan âm giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của
các ngân hàng thì đa phần các bài nghiên cứu trước đây đã giải thích mối tương quan
âm này là do sự đa dạng hóa, quản trị rủi ro tốt. Ngoài quy mô, theo những bài nghiên
cứu trên, có nhiều yếu tố khác tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng. Vì thế phần tiếp theo, tác giả sẽ tiến hành tổng quan các yếu tố khác ảnh hưởng
đến hoạt động chấp nhận rủi ro của ngân hàng như sau:
2.2.3. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến các yếu tố khác ảnh hưởng đến
khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng
❖
Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của
tổng tài sản được xác định là nhân tố quan trọng để xác định rủi ro của ngân hàng
trong các bài nghiên cứu trước đây. Cụ thể, Fama & French (1992) đã trưng ra bằng
chứng cho thấy rằng nếu giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của một ngân hàng càng
cao thì ngân hàng đó càng ít có khả năng rơi vào tình trạng khó khăn tài chính và các
ngân hàng khác càng khó trong việc thâm nhập vào thị trường. Nguyên nhân là do
khi giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của ngân hàng càng cao thì ngân hàng càng
có khả năng huy động được nhiều tiền mặt từ các nhà đầu tư nên ít có khả năng rơi
vào tình trạng khó khăn tài chính. Ngoài ra, giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của
ngân hàng còn đại diện cho giá trị vốn điều lệ của các ngân hàng (Demsetz,
Saidenberg & Strahan, 1997; Goyal, 2005). Với giá trị của vốn điều lệ càng cao, càng
11
cho thấy các ngân hàng có khả năng chấp nhận nhiều rủi ro hơn để gia tăng lợi nhuận
hơn. Tuy nhiên, Demsetz, Saidenberg & Strahan (1997) đã phát hiện ra rằng biến giá
trị thị trường trên giá trị sổ sách của vốn cổ phần có tương quan âm đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Bên cạnh đó, Galloway, Lee & Roden (1997) đã
trưng ra bằng chứng cho thấy rằng các ngân hàng có giá trị thị trường trên giá trị sổ
sách càng thấp thì càng chấp nhận nhiều rủi ro hơn.
❖
Quản trị ngân hàng. John, Litov & Yeung (2008) đã thực hiện nghiên cứu về
mối quan hệ giữa quản trị ngân hàng và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng
và trưng ra bằng chứng cho thấy khả năng quản trị thấp có ảnh hưởng đến khả năng
chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Phát hiện này của tác giả cũng phù hợp với các
nghiên cứu của Prowse (1992), Berglof & Perotti (1994), Edwards & Fischer (1996).
Do vấn đề đại diện nên các ngân hàng có khả năng quản trị yếu kém sẽ làm cho các
ngân hàng có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn so với các ngân hàng có khả năng
quản trị tốt. Tuy nhiên, Burkart, Panunzi & Shleifer (2003) lại chỉ ra rằng khả năng
quản trị tốt sẽ làm cho các ngân hàng chấp nhận nhiều rủi ro hơn do khi đó các nhà
quản trị ngân hàng tự tin rằng họ có thể kiểm soát tốt rủi ro. Do đó, tác động của quản
trị ngân hàng đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng vẫn chưa có kết luận
thống nhất giữa các bài nghiên cứu trước đây.
❖
Cấu trúc sở hữu của ngân hàng. Yếu tố này đại diện cho việc đánh giá vấn đề
đại diện đến hành động chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Theo nghiên cứu của
Demsetz, Saidenberg & Strahan (1997), tương quan giữa cấu trúc sở hữu và khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng có ý nghĩa về mặt thống kê. Theo đó, các ngân
hàng với Giám đốc điều hành là người sở hữu ngân hàng3 sẽ có mức chấp nhận rủi ro
thấp hơn so với Giám đốc điều hành là người không sở hữu ngân hàng. Ngoài ra,
nhóm tác giả còn chỉ ra rằng các ngân hàng có xu hướng gia tăng tỷ lệ sở hữu ngân
hàng của Giám đốc điều hành theo thời gian để hạn chế rủi ro. Nguyên nhân được
nhóm tác giả lý giải là do Giám đốc điều hành có thể theo đuổi các quyết định vì lợi
Theo nghiên cứu của Demsetz, Saidenberg & Strahan (1997), Giám đốc điều hành sở hữu ngân hàng được
định nghĩa là Giám đốc điều hành có nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng.
3
12
ích cá nhân mà không vì mục tiêu tối đa hóa lợi ích của các cổ đông ngân hàng. Do
đó, để làm giảm thiểu làm thiệt hại về tài chính, cổ đông sẽ khuyến khích Giám đốc
điều hành sở hữu ngân hàng để gắn liền lợi ích của cá nhân của Giám đốc điều hành
với lợi ích của cổ đông. Từ đây, có thể thấy rằng cấu trúc sở hữu của Giám đốc điều
hành có tương quan âm với khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Tuy nhiên,
Laeven & Levine (2009) lại trưng ra bằng chứng cho rằng rủi ro của ngân hàng chịu
tác động của cấu trúc sở hữu của ngân hàng, tuy nhiên mối tương quan này là tương
quan dương. Nguyên nhân được các tác giả lý giải là do các Giám đốc điều hành của
các ngân hàng là các giám đốc chấp nhận rủi ro. Do đó, dựa theo nghiên cứu thực
nghiệm trước, vẫn chưa có kết luận thống nhất giữa cấu trúc sở hữu và khả năng chấp
nhận rủi ro của các ngân hàng.
❖
Tuổi ngân hàng. Bhagat, Bolton & Lu (2015) đã sử dụng biến tuổi ngân hàng
nhằm đo lường kinh nghiệm của ngân hàng trong vấn đề kiểm soát rủi ro. Theo đó,
các ngân hàng được thành lập lâu năm là các ngân hàng có nhiều kinh nghiệm và
kiểm soát rủi ro tốt nên các ngân hàng lâu năm sẽ có xu hướng chấp nhận nhiều rủi
ro hơn so với các ngân hàng mới thành lập.
❖
Giai đoạn khủng hoảng tài chính. Theo nghiên cứu của Bhagat, Bolton & Lu
(2015), giai đoạn khủng hoảng có ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng thương mại. Cụ thể, các ngân hàng hoạt động trong giai đoạn khủng hoảng
có xu hướng e ngại rủi ro hơn so với giai đoạn trước đó do giai đoạn này các ngân
hàng đã phải gánh chịu nhiều cú sốc từ thị trường tài chính. Do đó, để giảm bớt rủi
ro gánh chịu thì các ngân hàng thường không chấp nhận thêm các quyết định quá rủi
ro trong giai đoạn này, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng 2007 – 2009.
13
Bảng 2. 1. Bảng tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Giai đoạn nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu
Dấu/Tương quan
Saunder, Strock & Travlos
Afonso, Santos & Traina
1978 – 1985
2007 – 2013
+
Brewer III & Jagtiani
1991 – 2004
Các ngân hàng niêm yết ở Mỹ
224 ngân hàng ở 45 quốc gia phát
triển
Các thương vụ thâu tóm và sáp
nhập của các ngân hàng đang niêm
yết công khai từ cơ sở dữ liệu
CRSP
Các ngân hàng cổ phần lớn đang
niêm yết trên thị trường chứng
khoán Mỹ
Các ngân hàng trên cơ sở dữ liệu
CRSP
350 ngân hàng niêm yết công khai
trên cơ sở dữ liệu CRSP
Các ngân hàng quốc tế từ cơ sở dữ
liệu Bankscope
Các ngân hàng hoạt động ở Mỹ
296 ngân hàng ở 48 quốc gia khác
nhau
Các ngân hàng quốc tế
Các ngân hàng thương mại tại Mỹ
Nghiên cứu
Boyd and Runkle
1980 – 1993
Demsetz & Strahan
1980 – 1993
Demsetz, Saidenberg & Strahan
1991 – 1995
Kunt & Huizinga
1991 – 2008
John, Litov & Yeung
Laeven & Levine
1992 – 2002
1996 – 2001
Demirguc-Kunt & Huizinga
Bhagat, Bolton & Lu
1991 – 2009
2002 – 2012
+
+
Nguồn: Tác giả tổng hợp
14
Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trên, tác giả nhận thấy rằng tác động của quy
mô đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng vẫn còn là một câu hỏi và vẫn
chưa có kết luận thống nhất trong nghiên cứu trước đây. Theo đó, có nghiên cứu tìm
ra tương quan dương giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng.
Với phát hiện này, các tác giả trước đây lập luận rằng ngân hàng có tâm lý ỷ lại khi
có thể nhận được các hỗ trợ từ chính phủ hoặc ngân hàng trung ương khi lâm vào tình
trạng khó khăn tài chính. Trong khi đó, cũng có không ít các bài nghiên cứu tìm ra
mối tương quan âm giữa quy mô và khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng.
Với quan điểm này, các tác giả lập luận rằng các ngân hàng có quy mô lớn thường là
các ngân hàng hoạt động lâu năm, có các hoạt động đa dạng hóa và quản trị rủi ro tốt,
ngoài ra các ngân hàng này là các ngân hàng có cấu trúc sở hữu không tập trung nên
làm giảm được vấn đề chi phí đại diện. Từ đó, các ngân hàng này có xu hướng chấp
nhận ít rủi ro hơn so với các ngân hàng có quy mô nhỏ.
Từ các quan điểm nêu trên, tác giả nhận thấy rằng chủ đề này vẫn còn là một câu hỏi
lớn cần được giải quyết. Ngoài ra trong nghiên cứu này, tác giả còn kế thừa bài nghiên
cứu của Bhagat, Bolton & Lu (2015) để thêm biến cấu trúc sở hữu và quản trị của
ngân hàng để xem xét tác động của biến này đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân
hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2018.
Với mẫu là các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn
2008 – 2018, tác giả nhận thấy rằng các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam trong giai
đoạn này có xu hướng mở rộng hoạt động kinh doanh để thúc đẩy kinh tế phát triển
sau giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngoài ra, theo đề án “Cơ
cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020”
ban hành kèm quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng
chính phủ với chính mục tiêu là: tiếp tục tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng với
trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém; tiếp tục
lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị, xử lý tình trạng sở hữu
chéo; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương mại. Đến năm 2020,
các ngân hàng thương mại cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II. Và,
15
Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi chính thức có hiệu lực từ ngày 15/01/2018 được
kỳ vọng sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp của Đề án
cơ cấu lại hệ thống các Tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020.
Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi được thông qua tập trung vào 5 phương án để cơ
cấu lại các Tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt như phục hồi; sáp nhập, hợp
nhất, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; giải thể; chuyển giao bắt buộc
và phá sản. Đặc biệt, quyết định cho phép phá sản một tổ chức tín dụng để tái cấu
trúc hệ thống sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống ngân hàng.
Với thực tế tình hình thị trường, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam,
quy định của phát luật cũng như dựa vào khung lý thuyết “too big to fail”, tác giả kỳ
vọng rằng các ngân hàng thương mại Việt Nam càng có quy mô lớn sẽ có xu hướng
càng chấp nhận nhiều rủi ro trong giai đoạn 2008 – 2018. Từ đây, tác giả kỳ vọng
rằng:
Giả thuyết nghiên cứu. Mối quan hệ tương quan của quy mô đến khả năng chấp
nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam trong giai
đoạn 2008 – 2018 là tương quan dương.
16
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
3.1.1. Mẫu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này được thực hiện để kiểm định tác động của quy mô đến khả năng
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Với mục tiêu này, mẫu
nghiên cứu của tác giả là các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2018. Thông thường, các nghiên cứu thực
nghiệm trước đây đều nghiên cứu các ngân hàng niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX).
Tuy nhiên, sau khi xem xét các ngân hàng niêm yết trên hai Sở giao dịch chứng khoán
này trong giai đoạn mà tác giả thực hiện nghiên cứu thì chỉ có duy nhất 13 ngân hàng
niêm yết4. Liên quan đến vấn đề này, để kết quả nghiên cứu của tác giả là đáng tin
cậy, tác giả tiến hành nghiên cứu thêm các ngân hàng niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán phi tập trung (OTC) và Sở giao dịch chứng khoán các công ty đại chúng
chưa niêm yết (UpCOM).
Tuy nhiên, tác giả đã tiến hành loại ra khỏi mẫu các ngân hàng không công bố thông
tin hoặc không công bố đầy đủ dữ liệu trong giai đoạn mà tác giả thực hiện nghiên
cứu. Cụ thể là, các ngân hàng không có đủ dữ liệu trong năm năm liên tục sẽ bị tác
giả loại ra khỏi mẫu nghiên cứu. Danh sách các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu của
tác giả được trình bày trong các bảng sau.
Bảng 3. 1. Danh sách các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu
Ký tự viết tắt
Tên ngân hàng
Các ngân niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
ACB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu
4
BID
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đâug tư và Phát triển Việt Nam
CTG
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam
EIB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam
Thông tin chi tiết, vui lòng xem Phụ lục 1 đính kèm.