THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CHO CNNT Ở NƯỚC TA
I. THỰC TRẠNG TTSP Ở THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI.
Theo báo cáo tổng cục hải quan tính đến ngày 20/11/99 tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của việt nam là 19,945 tr USD nhập siêu 1,4% tổng tiêu ngạch.
Trong đó xuất khẩu 9,903tr USD, nhập khẩu 10,042 tr USD
BIỂU 2: CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM - 1999
STT Mặt hàng XK
Khối lượng
(triệu tấn)
Trị giá
(triệu
USD)
1
2
3
4
Gạo
Cà phê
Cao su
Dệt may
4,23
0,3787
0,210
965
477
114,9
1.489
Trên cơ sở tổng hợp và phân tich tình hình dự báo, các chuyên gia bộ
thương mại báo cáo tổng kim ngạch xuất khẩu 1999 ước11ty USD, tăng
17,5% so với 1998, vượt 10,5% so với kế hoạch. Trong đó DNVN 8,55 ty USD,
chiếm 77,7%, tăng 15,8%, dn có vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 ty USD chiếm
22,3%, tăng 23,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: gạo, dệt may, cà phê. Tính
đến tháng 11/99 4 mặt hàng công nghiệp đạt giá trị KNXK trên 1ty USD là:
dầu thô,dệt may,da giầy, gạo. Một số mặt hàng tuy KN chưa lớn nhưng có mức
tăng cao: máy động lực, máy công nghiệp, sữa bột,dầu thực vật. Cơ cấu xuất
khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực hơn: tỷ trọng nguyên liệu thô và sơ chế
giảm.
BIỂU 3: TỶ TRỌNG NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU
STT Ngành Tỷ lệ %
Giá trị
(triệu
USD)
1
2
3
4
5
Nông lâm sản
Hải sản
Dệt may+Da giầy
Thủ công mỹ nghệ
Lĩnh vực khác
18,2
8,6
28
1,5
19,4
2000
950
3100
180
2130
1. Ngành cà phê
Theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) niên vụ cà
phê 1998-1999 Việt Nam XK 404.206 tấn cà phê nhân, tăng so với 97/98
khoảng 10.000 tấn.
BIỂU 4: DANH SÁCH 10 CÔNG TY XK CÀ PHÊ LỚN NHẤT VIỆT NAM
STT Doanh nghiệp
Khối
lượng
(tấn)
Giá trị
(triệu USD)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
VINA cà phê
Công ty 2/9
Enxim Đắc Lắc
Công ty TM du lịch Hiệp Phước
Công ty XNK Gia Lai
Công ty Tín Nghĩa
Công ty cà phê Phước An
Công ty PETEC
Công ty Thắng Lợi
Công ty TM XNK Gia Lai
52.300
51.789
46.184
28.740
26.044
20.268
17.131
13.027
9.880
9.803
72,277
70,509
64,174
40,7
34,2
27,1
24,036
17,853
14,194
13,18
Những cây cà phê đầu tiên được trồng trên đất Việt Nam là do các giáo sỹ
truyền giáo đưa vào trồng từ năm 1857 ở khu vực các nhà thờ tu viện thiên
chúa giáo thuộc 2 tỉnh Quảng Bình,Quảng Trị. Đến cuối thế kỷ 19 các đồn điền
trồng cà phê đầu tiên là ở các tỉnh miền bắc: Hà Nam,Sơn Tây, Hoà Bình, Tuyên
Quang, Phú Thọ, Phủ Quỳ. Vào những năm 1920-1925 khi phát hiện ra vùng
cao nguyên Bazan ở miền trung.Người ta mới mở ra các đồn điền cà phê ở Tây
Nguyên. Nhưng cả một thời gian dài diện tích trồng cà phê chưa được mở
rộng,đến trước năm 1995 miền bắc có 14000 ha miền nam có 14.420 ha,cả
nước25.420ha
Sau ngày đất nươc thống nhất 1975, ngang cà phê Việt Nam đi vào thơi kì
phát triển,sản lượng sản xuất ra chủ yếu để XK thu ngoại tệ.theo số liệu tổng
cục thống kê và ngành Cà phê thì sản xuất Cà phê của ta mỗi năm một tăng.
BIỂU 5: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, XK CÀ PHÊ QUA CÁC NĂM
Năm
Diện tích
(ha)
Sản
lượng
sản suất
Khối lượng XK
theo niên vụ (tấn)
Kim ngạch
(Triệu USD)
1995
1996
1997
1998
1999
175.000
230.000
250.000
320.000
240.000
350.000
360.000
410.530
233.000
246.000
350.000
390.000
360.000
520
420
400
600
540
Sản xuât Cà phê Việt Nam có những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất
đai, tập chung ở Tây Nguyên, Dông Nam Bộ, các tỉnh miền trung và miền núi
phía bắc (Sơn La, Lai châu, Yên Bái, Hà Giang),điều kiện thổ nhưỡng khí hậu ở
vùng này thích hợp với loại Cà phê Arabica nên năng xuất khá cao. Tây nguyên
với bốn tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum là khu vực chủ lực của
ngành Cà phê Việt Nam. Diện tích Cà phê của khu vực này lên tới 180.000 ha
chiếm hơn 78% tổng diện tích trồng Cà phê cả nước trong đó Đắc Lắc với diện
tích và sản lượng Cà phê là lớn nhất, chiếm 60% của cả khu Tây Nguyên. sự
mở rộng của chính sách XNK theo nghị định số 57/1998/ND – CP của chính
phủ đã tạo nhiều thuận lợi cho các DN có thể tham gia xuất khẩu Cà phê. Từ 30
DN XK Cà phê vụt tăng lên 100 DN. Riêng Đắc Lắc từ 16 DN tăng lên 26 DN.
Hiẹn nay sản lượng sản xuất Cà phê của Đắc Lắc chiếm 60% tổng sản lượng Cà
phê cả nước. Theo thống kê của sở thương mại Đắc Lắc. Sản lượng Cà phê xuất
khẩu niên vụ 98 / 99 (1/10/98 – 30/9/99) đạt 218.596 tấn, tăng 3,5% so với
niên vụ 97/98, kim ngạch khoảng 300 triệu USD, giảm 7,2%. Sản lượng tăng,
kim ngạch giảm là do giá giảm, giá XK bình quân khoảng 1.372 USD/tấn, giảm
10% so với 97/98 đây là lần đầu tiên sau nhiều năm KNXK Cà phê Đắc Lắc
giảm do giá thế giới giảm. tỷ lệ Cà phê R1 của Đắc Lắc vùa qua đạt thấp,
khoảng 18000 tấn, chiếm 8% tổng lượng xuất khẩu thấp hơn tỷ lệ R1 chung
của cả nước 11% làm giảm KNXK. (Chỉ riêng hai loại Cà phê chất lượng R1,R2
chênh lệch 100 USD/tấn, giữa R2 –5% và R2 -8% chênh lệch 40 đến 60
USD/tấn).
Điều đáng mừng là chất lượng Cà phê xuất khẩu của Việt Nam ngày càng
có uy tín trên thị trường Thế giới:
BIỂU 6: CHẤT LƯỢNG XUẤT KHẨU TĂNG HÀNG NĂM(ĐƠN VỊ:%).
Cấp hạng chất lượng 94/95 95/96 96/97 97/98
Loại I
Loại II A
Loại II B
Tiêu thụ nội bộ
2
15
80
3
6
45
44
5
7
60
27
6
16
72
5
7
Thị trường XK ngày nay càng được mở rộng. Trước năm 90 khoảng 50%
khối lượng cà phê XK của Việt Nam là sang thị trường Liên Xô và Đông Âu,50%
còn lại là sang thị trường Singapore thực chất là một thị trường trung chuyển.
Đến năm 1996 XK cà phê Việt Nam đã sang tới 30 quốc gia, chủ yếu là XK trực
tiếp. Đặc biệt cà phê Việt Nam đã được XKtrực tiếp sang các thị trường khó
tính như Đức, Anh,ý. Đáng lưu ý là Mỹ thị trường nổi tiếng là khó xâm nhập
nhưng năm 1996 đã tiêu thụ khoảng 1/3 khối lượng cà phê XK của Việt
Nam.Hiên nay Đức đă trở thành nhà nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt
Nam.Trong 11 tháng năm 99 vừa qua tổng lượng xuất khẩu : 362000 tấn kim
ngạch khoảng 500 triệu USD
BIỂU 7: THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt
Nam
Tỷ lệ %
Đức
Mỹ
Italia
Tây Ban Nha
Anh
Bỉ
16,5
15,5
10,6
8,8
7,7
6,3
Cà phê đặc sản (Gounmet coffee) được quảng cáo bằng tên hấp dẫn: Cà
phê trăng rằm (full moon coffee) hay cà phê gã chăn bò thứ thiệt (real
Cowboy coffee)... tiêu thụ đang tăng nhanh chóng trên thế giới, các cửa hiệu
chuyên bán cà phê đặc sản đang mọc lên như nấm tại Mỹ,các thành phố lớn ở
Châu Âu và Nhật Bản nhưng mức tiêu thụ của Mỹ giảm từ 10kg/người/năm
nay chỉ ở mức 4kg. Nguyên nhân của tình trạng này là phần lớn cà phê tiêu thụ
ở Mỹ không phải là loại có phẩm chất cao nhất nên hiện nay Mỹ đang tích cực
quảng cáo, khuyến trương cho loại cà phê này người tiêu dùng Mỹ thích loại cà
phê này và thị trường tăng tốc độ 30%/năm. đây là một thị trường đầy hứa
hẹn cho xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Mỹ, nếu chất lượng cà phê của Việt
Nam đạt được tiêu chuẩn quốc tế về độ axit, mùi quả và các mùi vị khác
Theo dự đoán mới nhất của Bộ nông nghiệp Mỹ sản lượng cà phê thế giới
99/2000 giảm 20%(2,13tr bao)so vụ trước còn 104,5 tr bao:
BIỂU 8: SẢN LƯỢNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI
Niên Vụ 97/98 98/99 99/2000
Sản Lượng (tr bao) 97,67 106,63 104,50
Brazin
Côlômbia
Indônêxia
Việt Nam
Mêxicô
23,5
12,03
7,2
6,67
4,97
34,7
11
6,85
6,33
4,95
26,5
12,7
7,2
6,45
5,3
Tiêu thụ 101,86 103,2 104,30
Sau niên vụ cà phê 97/98 bội thu,KNXK đạt khoảng 600 tr USD,thì niên vụ
98/99 lại chịu nhều biến đọng.Sản lượng cà phê quả năm nay giảm không
nhiều,nhưng sản lượng cà phê hạt đạt thấp 394.000 tấn cà phê nhân,bằng 90-
98% so vụ trước.Chất lượng cà phê không được cải thiện: cỡ hạt nhỏ, tỉ lệ hạt
đen,vỡ nhiều do thời tiết khô hạn,ở giữa năm rồi mưa kéo dài cuối năm
98,mưa cuối vụ ở Tây Nguyên gây ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc,thu
hoạch,bảo quản,phơi sây.Trong khi đó cà phê thế giới lại được mùa lớn ước
đạt 106,8tr bao(1 bao=60kg) tăng khoảng 9,1tr bao so vụ trước,riêng Brazin
đạt trên 3tr bao.Mặt khác nhu cầu tiêu thụ càphê trên thế giới có phần giảm
sút do khủng hoảng tài chính khu vực
Tình hình đó làm giá càphê giảm nhanh chóng ở mức 1305USD/tấn,giảm
khảng 250USD/tấn so với cùng kì năm ngoái,giảm 200USd/tânso với đầu năm
nay.Giá cà phê Rôbusta loạI 2 có 5% hạt đen vỡ đã xuống ở mức 1280-
1290USD/tấn,giảm 18% so với tháng 1 năm 99(1567USD/tấn).Sáu tháng đầu
năm 99, khó khăn đang chồng chất thì các DNXK cà phê lại phải chịu thêm giá
cước vận chuyển tăng.Từ ngày 1/4/99 giá cước tăng thêm 150USD đi các
nước Châu Âu và 750USD đi các nước Băc Mỹ trên mỗi container 20 feet.Năm
1998 Việt Nam xuất khẩu cà phê vào 36 thị trường nước ngoài,nhưng riêng 4
tháng đầu năm 99,12 thị trường giảm tỉ trọng nhâp khẩu.Các thị trường có tỉ
trọng giảm mạnh đáng lưu ý là Mỹ giảm 9,5% Thái Lan giảm 2,5%, Pháp –
1,6%, Iran năm 98 nhập khẩu 2% thì bốn tháng đầu năm chưa nhập nhưng
cũng có một số thị trường tăng tỉ trọng nhập khẩu cà phê Việt Nam. Trong 4
tháng đầu năm 99 Thuỵ Sĩ tăng 5% Italia tăng 2,1% so cùng kỳ.
Điều đáng quan tâm là năm nay do nắm được thông tin giá cả cho nên
người trồng cà phê đã không bán ồ ạt, khống chế số lượng nhằm giữ giá cà
phê. Hiện nay lượng lưu kho trong DN và trong dân còn khá lớn khỏng 65 đến
60000 tấn riêng các DN của VINACOFFE còn năm nghìn tấn.
2. Ngành dệt
2.1. Tình hình sản xuất.
Trong những năm của thập kỷ 90, ngành dệt có tốc độ phát triển không
ổn định, tốc độ tăng trưởng đạt 13% năm 1994, sau giảm xuống dưới 1% vào
năm 1995, và lại tăng lên 14% vào năm 1997. Tốc độ phát triển không đều nói
trên một phần là do sự yếu kém của ngành dệt trong việc chiếm lĩnh thị trường
trong nước của các sản phẩm dệt Việt Nam so với sản phẩm dệt ngoại, phần
khác là do thiếu nguồn vốn nhập trang thiết bị và nguyên liệu cho sản xuất vào
những năm 1995 và 1996 (Xem Vietnam Investment Review ngày 18/2/1996).
BẢNG 9: NHỮNG CHỈ TIÊU CƠ BẢN CỦA NGÀNH DỆT
TRONG NHỮNG NĂM 1990
Đơn vị: Tỷ đồng
1993 1994 1995 1996 1997
1998
(*)
GDP 36735 39982
19556
7
21383
3
23126
4
24467
6
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,80
Giá trị tổng sản lượng của ngành dệt 1438,3 1624,0 6176,2 6373,6 7261,2 7696,9
Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng ngành
dệt trong GDP (%)
3,92 4,06 3,16 2,98 1,87 1,87
Giá trị tổng sản lượng của ngành dệt -
may
1806 2180 9126 9774 11587 12282
Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng dệt trong
giá trị tổng sản lượng ngành dệt - may
79,6 74,5 67,7 64,2 62,7 62,7
Tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản
lượng của ngành dệt (%)
1,1 12,9 0,6 3,2 13,9 6,0
Nguồn: Niên giám thống kê
Ghi chú: số liệu của năm 1993 và 1994 tính theo giá cố định năm 1989, số
liệu của các năm khác tính theo giá cố định năm 1994.
* Số liệu năm 1998 là ước tính
Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng ngành dệt trong GDP có xu hướng giảm
dần, chiếm gần 4% GDP năm 1993 xuống còn gần 2% GDP năm 1998. Và ngay
trong ngành dệt - may cũng phản ánh xu hướng này. Mặc dù dệt vẫn chiếm tỷ
trọng cao trong ngành dệt - may, nhưng tỷ trọng của ngành dệt đã giảm đi rất
nhiều, từ gần 80% năm 1993, xuống còn hơn 6% năm 1998.
BẢNG 10: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG HÀNG NĂM CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG DỆT QUAN
TRỌNG TRONG NHỮNG NĂM 1994-1998 (TÍNH THEO HIỆN VẬT)
Đơn vị: %
1994 1995 1996 1997 1998 (*)
Sợi dệt 16 34 11 3 5
Vải lụa 6 15 8 5 6
Len dạ 50 7 36 7 -6
Hàng dệt kim -13 12 -16 -1 16
Nguồn: - Niên giám thống kê 1998
- Bộ công nghiệp.
Ghi chú: * số liệu năm 1998 là ước tính
2.2. Thực trạng công nghệ, trang thiết bị.
Thực trạng công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt rất khác nhau tuỳ
thuộc vào các lĩnh vực khác nhau của ngành như kéo sợi, dệt thoi, dệt kim,
nhuộm, in và hoàn tất. Mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới trang thiếtbị,
xong nhìn chung toàn ngành, công nghệ, trang thiết bị vẫn ở trong tình trạng
lạc hậu so với các nước trong khu vực.
Đối với lĩnh vực kéo sợi: đến năm 1996 ngành có 800.124 suốt kéo sợi và
3.520 rô tơ kéo sợi. Trong số đó có 90.600 là suốt mới mua (chiếm 11,32%), với
55.960 suốt mua cũ của các nước Tây Âu; 107.000 suốt được cải tiến (chiếm
13,4%). Công suất kéo sợi hàng năm tăng lên 70.000 tấn, với chỉ số Nm là 61
(Báo cáo của VINATEX).
Đối với lĩnh vực dệt thoi: năm 1996 ngành có 10.500 máy dệt thoi. Máy
nhập mới chỉ chiếm 15%. Khoảng 50% máy dệt thoi là quá cũ và không còn
khả năng sản xuất.
Đối với lĩnh vực dệt kim: công nghệ dệt kim của ngành khá hiện đại so với
các công nghệ khác. Phần lớn các máy dệt kim nhập của Trung Quốc, Tiệp và
Đông Đức từ trước năm 1986 đều đã thanh lý và chuyển nhượng cho địa
phương. Hiện nay các doanh nghiệp dệt lớn của Nhà nước đều sử dụng máy
dệt kim nhập của các nước như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Đức từ sau năm
1996; 30% số máy này thuộc thế hệ mới, một số máy đã được vi tính hoá. Vì
chất lượng sợi bông kém nên hầu hết các doanh nghiệp chọn phương án sản
xuất sử dụng sợi Pe/Co để sản xuất những sản phẩm dệt đơn giản như vải
màn, vải valise, chưa quan tâm đến sản xuất các loại vải cao cấp như vải trang
trí, vải thảm, vải dùng trong xây dựng,...
Đối với lĩnh vực nhuộm, in và hoàn tất: Tất cả các thiết bị in, nhuộm và
hoàn tất là nhập từ nước ngoài. Hiện nay 35% thiết bị in và nhuộm trong
ngành nhập từ năm 1986 trở lại đây (khoảng 300 máy). Tất cả các thiết bị này
đều thuộc thế hệ A2, A3 và vẫn hoạt động tốt. Số còn lại nhập từ trước năm
1985, thậm chí có những máy nhập từ những năm 60. Theo chủ trương của
VINATEX những máy này cần phải giải quyết dần.
Năm 1997, công suất sử dụng máy móc, thiết bị của ngành là 75%. Năm
1998, tình hình còn xấu đi nhiều do tác động của khủng hoảng tài chính khu
vực.
Nhìn chung, tình trạng công nghệ lạc hậu đã làm cho ngành dệt không có
khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng của nguyên liệu đầu vào cho ngành
may, ngành may phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, và như vậy đất nước
mất đi nhiều cơ hội cho sản xuất thay thế nhập khẩu trong các khâu sử dụng
khá nhiều lao động của ngành dệt.
2.3. Thị trường các sản phẩm.
a. Thị trường trong nước:
Trên thị trường trong nước, các nhà sản xuất của ngành dệt phải cạnh
tranh với các đối thủ mạnh hơn trong khu vực. Là thành viên của ASEAN và
đang trong quá trình thực hiện AFTA, thị trường Việt Nam là sân chơi của các
nước trong khu vực. Do vậy chiếm lĩnh thị trường nội địa là một thách thức rất
lớn đối với các nhà sản xuất dệt Việt Nam.
Theo thống kê của VINATEX, trong những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ
nội địa trong tổng số hàng dệt sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55%.
Điều này chứng tỏ hàng dệt Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước
cả về chất lượng và số lượng.
b. Thị trường xuất nhập khẩu
Từ khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi mới (từ năm 1989), giá trị xuất
khẩu hàng dệt có tăng lên, tuy là mức tăng không bằng ngành may. Cũng như
ngành may, ngành dệt đã chuyển từ thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu sang thị
trường phương Tây và Châu Á. Thị trường xuất khẩu hàng dệt hiện nay của
Việt Nam bao gồm thị trường có quota và phi quota. Thị trường Eu là thị
trường xuất khẩu có quota. Dệt Việt Nam bắt đầu xâm nhập thị trường này từ
năm 1993 khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký
kết và có hiệu lực. Cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt vào thị trường
EU tăng lên hàng năm. Canada và NaUy cũng là thị trường có quota, nhưng
giá trị xuất khẩu sang hai thị trường này rất không đáng kể. Thị trường xuất
khẩu phi quota được mở rộng mạnh trong những năm gần đây. Nhật Bản là
thị trường phi quota lớn nhất về mặt hàng dệt. Hồng Công, Singapore, Đài
Loan, Hàn Quốc là những nước nhập khẩu khá nhiều hàng dệt của Việt Nam.
Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu hàng dệt sang Nga và các nước
Đông Âu, nhưng chủ yếu dưới hình thức đổi hàng và thanh toán nợ.
BẢNG 11: TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH DỆT - MAY VIỆT NAM
Đơn vị: (Triệu USD)
Nă
m
Ngành dệt Ngày may Ngành dệt - may
1985 6,5 21,1 27,5
1986 11,1 36,0 47,1
1987 13,3 27,4 40,6
1988 15,8 27,0 42,8
1989 25,1 68,1 93,1
1990 27,8 90,7 118,5
1991 29,4 142,9 172,3
1992 39,6 357,2 396,8
1993 61,7 521,0 582,7
1994 107,8 691,6 799,4
1995 147,8 878,8 1.026,6
1996 175,5 1.162,7 1.338,2
1997 - - 1.349
1998 - - 1.351
Nguồn: UNIDO, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Vietnam
Economic News số 6/1998, số 4/1999.
Việt Nam là một nước nhập khẩu ròng lớn về hàng dệt. Tỷ lệ thương mại ròng
âm ở mức cao trong suốt 10 năm vừa qua (UNIDO and DSI/MPI, 1998). Trong
khi đó các nước Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan đều có một ngành công
nghiệp dệt xuất khẩu khá lớn. Điều này cho thấy là trong một môi trường
chính sách thích hợp, Việt Nam có thể đi theo hướng của các nước kể trên.
Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với một số mặt hàng dệt sản xuất
được trong nước. Thuế xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm này tương đối
cao (40-50%). Tuy vậy ngành dệt Việt Nam vẫn chịu sự cạnh tranh rất mạnh
từ phía hàng ngoại. Hàng năm nhập khẩu các mặt hàng dệt (kể cả nguyên liệu
cho ngành dệt và sản phẩm dệt) chiếm 6-7% tổng giá trị nhập khẩu của cả
nước. Nhập khẩu hàng dệt cho mục đích tiêu dùng chiếm phần lớn số hàng dệt
nhập (4-5% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước).
Tóm lại, từ những trình bày trên cho thấy là ngành dệt Việt Nam trong những
năm 90 là ngành công nghiệp thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã
phấn đấu vươn lên xuất khẩu. Và ngành đã thu được những thành công nhất
định. Nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh còn yếu, chưa đủ mạnh để chiếm
lĩnh thị trường trong nước và tăng cường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng của
ngành không cao và không ổn định. Thực trạng này của ngành là do nhiều yếu
tố tác động. Có những yếu tố là khách quan, nhưng cũng có những yếu tố chủ
quan.
II. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
Thị trường trong nước số cung ngày càng vượt quá số cầu cạnh tranh
ngày càng gay gắt:
Số cung: thêm nhiều DN ra nhập thị trường, năng lực sản xuất của các DN
ngày càng ra tăng- sự hiện diện của các DN có vốn nước ngoài – hàng ngoại
nhập đặc biệt là hàng nhập lậu không ngừng tấn công vào thị trường nội địa.
Số cầu: gia tăng chậm hơn so với số cung – sức mua có khả năng thanh
toán còn hạn chế – nhu cầu ngày càng đa dạng và ngày càng trở nên khó tính.
Nền kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XX, sau
nhiều năm hoạt động mức tăng trưởng cao thì hiện nay tốc độ tăng trưởng đã
chậm lại và giảm sút. 6 tháng đầu năm 1999 GDP tăng 4,3% mức thấp nhất so
cùng kỳ 3 năm trước, cụ thể:
BIỂU 12: MỨC TĂNG TRƯỞNG GDP
6
th
/96 6
th
/97 6
th
/98 6
th
/99
GDP
Trong đó
Sản xuất CN
Sản xuất NN
+9,3
+13,2
+4,8
+9,1
+13,7
+2,0
+6,7
+12,6
+2,0
+4,3
+10,4