Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VI QUANG HUY

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG
KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VI QUANG HUY

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG
KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Thị Kim Dung

HÀ NỘI – 2020




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.................................6
1.1.

Khái quát về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng

khoán ...........................................................................................................6
1.1.1. Vài nét cơ bản về công ty chứng khoán .................................................6
1.1.2. Khái quát về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán ......................................................................................................... 10
1.2.

Khát quát pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng

khoán của công ty chứng khoán .................................................................. 22
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
của công ty chứng khoán ................................................................................ 22
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán của công ty chứng khoán ........................................................... 23
1.2.3. Nội dung pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của
công ty chứng khoán ...................................................................................... 26

Kết luận chương 1........................................................................................ 28

i


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG
KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM ...................... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
của công ty chứng khoán ............................................................................. 29
2.1.1. Thực trạng pháp luật quy định về chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán ......................................................................................................... 29
2.1.2. Thực trạng pháp luật quy định về điều kiện để được bảo lãnh phát hành
chứng khoán và các hạn chế bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
chứng khoán .................................................................................................. 35
2.1.3. Thực trạng pháp luật quy định về hình thức bảo lãnh phát hành chứng
khoán của công ty chứng khoán...................................................................... 42
2.1.4. Thực trạng pháp luật quy định về quy trình bảo lãnh phát hành chứng
khoán của công ty chứng khoán...................................................................... 43
2.1.5. Thực trạng pháp luật quy định về hợp đồng và phí bảo lãnh trong hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán...................... 51
2.1.6. Thực trạng pháp luật quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
chứng khoán .................................................................................................. 53
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam và một số vướng mắc đặt ra .. 64
2.2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam ................................................... 64


ii


2.2.2. Một số vướng mắc đặt ra trong thi hành pháp luật về hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam .................. 68
Kết luận chương 2........................................................................................ 72
Chương 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM .................................................................................................. 74
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động
bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam .... 74
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt
Nam

......................................................................................................... 76

3.2.1. Đề xuất sửa đổi một số quy định pháp luật hiện hành về hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán ........................................................................... 77
3.2.2. Đề xuất bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán ........................................................................... 78
3.2.3. Đề xuất nâng cao vị trí của Ủy ban chứng khoán Nhà nước .................... 81
Kết luận chương 3........................................................................................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 85

iii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế.
Đây là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. Việc mua
bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng
khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi
có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ
thể nắm giữ chứng khoán. Việc phát hành các loại chứng khoán nhằm mục
đích huy động vốn. Tuy nhiên, việc phát hành chứng khoán không phải dễ
dàng tới các nhà đầu tư khi chủ thể phát hành chưa đủ uy tín trong huy động
vốn, do vậy, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có vai trò quan trọng
giúp cho tổ chức phát hành đạt được mục đích phân phối chứng khoán.
Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
chứng khoán dần trở nên phổ biến, nhiều tổ chức phát hành tìm đến các công
ty chứng khoán – với vai trò là trung gian giúp hoạt động phát hành chứng
khoán được hiệu quả. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã điều chỉnh hoạt động
bảo lãnh phát hành chứng khoán khá đầy đủ, với vai trò là “người” định
hướng, pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán đã làm tốt nhiệm vụ của
mình. Tuy nhiên, thực tế hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại công
ty chứng khoán còn gặp vướng mắc, trong quá trình diễn ra nghiệp vụ bảo
lãnh còn gặp không ít những khó khăn liên quan tới thực hiện pháp luật về
bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Từ những lý do trên, tác giả nhận thấy rằng việc nghiên cứu, đánh giá
pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán là cần thiết. Qua đó, làm rõ các vấn đề xung quanh hoạt động bảo lãnh

1



phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán. Việc nghiên cứu với ý
nghĩa đem lại nhận thức cơ bản về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
và những quy định điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động này, trên cơ sở
đó đề xuất hoàn thiện pháp luật để tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp. Do đó,
tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công
ty chứng khoán theo pháp luật Việt Nam hiện nay”. Những kết quả nghiên
cứu hy vọng sẽ đóng góp phần nào vào việc hoàn thiện các quy định điều
chỉnh hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán tại
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã trải qua lịch sử phát triển hơn
20 năm, đang và sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Các
chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói chung mục đích cuối cùng là tìm
kiếm phần lợi ích; đối với nhà phát hành chứng khoán họ mong muốn huy
động được nguồn vốn để sử dụng vào mục đích kinh doanh, đối với nhà đầu
tư họ có số tiền rảnh rỗi mong muốn tìm kiếm lợi nhuận trong thời gian chưa
dùng đến số tiền đó. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là một trong những
nghiệp vụ của công ty chứng khoán, đóng vai trò quan trọng trong quá trình
huy động vốn, là một bước quan trọng khi phát hành chứng khoán. Nhận thấy
tầm quan trọng đó, một số nghiên cứu khoa học đã phần nào đề cập đến nội
dung bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán.
Một số tác phẩm sách chuyên khảo như: Nguyễn Văn Tuyến, Lê Đình
Vinh (2011), Giáo trình luật chứng khoán, NXB Giáo dục Việt Nam; Trường
Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật chứng khoán, NXB Công an
Nhân dân; Phương Tùng, Nguyễn Hiếu (1997), Luật pháp về chứng khoán và
công ty chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia; Lê Thị Thu Thủy (2011),
Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam, NBX Tư pháp. Trong các tác

2



phẩm sách chuyên khảo nêu trên đã đề cập một phần tới hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán với tư cách là một nghiệp vụ kinh doanh của công ty
chứng khoán.
Tại một số bài báo, tạp chí có đề cập tới hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán như: tạp chí luật học – trường Đại học Luật Hà Nội, số 1/2000,
trang 50 – 54, “Bàn về bảo lãnh phát hành trong thị trường chứng khoán”, tác
giả Phạm Thị Giang Thu. Đây là một bài viết đề cập một cách tổng quan về
hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, hiện nay một số nội
dung đã không còn phù hợp với tình hình về hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán hiện tại.
Một số luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học đã đề cập phần
nào tới hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán như: Ths. Vũ Kim Liên
(2002), đề tài nghiên cứu khoa học “Các giải pháp nâng cao vai trò của các
tổ chức trung gian trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành chứng
khoán ra công chúng”, Vụ Quản lý Phát hành Chứng khoán; Luận văn Ths
luật học của Nguyễn Hồng Nhung (2009), Pháp luật về công ty chứng khoán
ở Việt Nam, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội; Luận văn Ths luật học của
Lê Anh Đức (2009), Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư,
Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu này đã ít
nhiều đề cập tới hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Luận văn với ý nghĩa nghiên cứu xung quanh vấn đề bảo lãnh phát
hành chứng khoán của công ty chứng khoán, thực trạng pháp luật Việt Nam
và những yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật tại thời điểm hiện tại. Từ đó,
khẳng định vai trò của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, cần thiết
phải có cơ chế quản lý Nhà nước về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán hữu hiệu.


3


3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành điều
chỉnh hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán
gồm: quy định về hình thức bảo lãnh, nội dung bảo lãnh, quyền và nghĩa vụ
của chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh, xử lý vi phạm trong hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán.
Pháp luật Việt Nam quy định hai chủ thể được quyền thực hiện bảo
lãnh phát hành là: công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại. Luận văn
chỉ xem xét khía cạnh hoạt động bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán,
nghiên cứu các quy định pháp luật có liên quan tới hoạt động bảo lãnh của
công ty chứng khoán; từ đó rút ra các vấn đề còn thiếu sót của pháp luật, đồng
thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành đối với hoạt
động trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn là:
- Phương pháp thống kê nhằm liệt kê những quy định về bảo lãnh phát
hành chứng khoán của công ty chứng khoán;
- Phương pháp so sánh để hiểu rõ hơn các quy định về bảo lãnh phát
hành chứng khoán của công ty chứng khoán giữa các hệ thống pháp
luật;
- Phương pháp phân tích tổng hợp dựa trên các nghiên cứu đã có, quy
định pháp luật hiện hành nhằm rút ra những vấn đề pháp lý cơ bản về
bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Với tư cách là công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề bảo lãnh phát
hành của công ty chứng khoán theo pháp luật Việt Nam hiện hành, luận văn


4


đưa ra một cách nhìn tổng quan về một trong những nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán của công ty chứng khoán – nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, những
vấn đề pháp lý tổng quát đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty
chứng khoán.
6. Kết cấu của luận văn
Bài luận văn được kết cấu bởi 3 chương ngoài phần mở đầu và kết luận.
Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo lãnh phát hành chứng khoán và pháp
luật bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về hoạt động
bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán
ở Việt Nam

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.

Khái quát về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán


1.1.1. Vài nét cơ bản về công ty chứng khoán
Trong nền kinh tế vấn đề huy động vốn luôn được quan tâm hàng đầu.
Tuy nhiên, để “người sử dụng vốn” và “người góp vốn” tìm được đến với
nhau và tin tưởng trao vốn cho nhau lại là một nút thắt cần tháo gỡ. Trong thị
trường chứng khoán công ty chứng khoán đóng vai trò như một trung gian
tháo gỡ nút thắt đó. Công ty chứng khoán đã và luôn đồng hành cùng các chủ
thể tham gia thị trường chứng khoán.
Công ty chứng khoán được pháp luật các nước định nghĩa khác nhau,
tuy nhiên điểm chung giữa pháp luật các nước quy định công ty chứng khoán
là một tổ chức được cấp phép thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, công ty chứng
khoán là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần làm nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán được thành lập theo quy định luật công ty Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Luật chứng khoán [34, Điều 123]. Theo quy định của pháp luật
Nhật Bản, công ty chứng khoán là công ty cổ phần được cấp giấy phép hoạt
động kinh doanh chứng khoán [39, Điều 2]. Theo quy định của pháp luật các
nước Châu Âu, công ty chứng khoán là pháp nhân thực hiện các dịch vụ kinh
doanh chứng khoán cho bên thứ ba như là nghiệp vụ chính của mình [37,
Điều 1].
Pháp luật Việt Nam quy định: “Công ty chứng khoán là doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các

6


nghiệp vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán” [18, Điều 2].
Như vậy, phần lớn pháp luật các quốc gia đều quy định công ty chứng
khoán là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, bởi những lý do sau đây: việc

tổ chức dưới hai hình thức nêu trên góp phần bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh
tình trạng thao túng doanh nghiệp; đảm bảo chế độ thông tin, quản lý hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp (do đặc thù tổ chức hoạt động của công ty TNHH
và công ty cổ phần); ngoài ra việc quy định hai loại hình nêu trên còn đảm
bảo tính ổn định của công ty chứng khoán khi có sự thay đổi về nhân sự (đa
phần các công ty chứng khoán là công ty TNHH/công ty cổ phần có số lượng
lớn các thành viên góp vốn/cổ đông do đó khi một hoặc một số thành viên có
nhu cầu rút khỏi công ty hay chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần sẽ không
ảnh hưởng nhiều tới hoạt động của công ty).
Từ những quy định pháp luật một số nước trên thế giới và Việt Nam có
thể khái quát đặc điểm cơ bản của công ty chứng khoán như sau:
Một là, công ty chứng khoán là một doanh nghiệp (phổ biến là công ty
TNHH và công ty cổ phần) hoạt động theo quy định của pháp luật.
Hai là, công ty chứng khoán thực hiện một hoặc một số hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm: môi
giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký
chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, các dịch vụ tư vấn khác.
Ba là, công ty chứng khoán để được hoạt động cần phải đáp ứng điều
kiện nhất định. Tùy thuộc vào quy định pháp luật mỗi quốc gia mà công ty
chứng khoán phải đáp ứng những điều kiện bắt buộc để được cấp phép hoạt
động. Có thể tóm tắt điều kiện cơ bản gồm: điều kiện về hình thức pháp lý,
điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện về vốn, điều kiện về nhân sự.

7


Bốn là, công ty chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc nhất định. Tổ
chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán – IOSCO (International Organization
Of Securities Commisims) đã đưa ra khuyến nghị gồm 09 (chín) nguyên tắc
cơ bản với các nước thành viên trong việc quy định các nguyên tắc tổ chức và

hoạt động của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường
chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các
nhà phát hành, đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường
chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện thông qua các
nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán.
Ở Việt Nam, mỗi công ty chứng khoán khi thành lập và đi vào hoạt
động phải đảm bảo có ít nhất một trong bốn nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán gồm: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Đây là bốn nghiệp vụ chính
của công ty chứng khoán, cũng là một trong những điểm để phân biệt giữa
công ty chứng khoán với các loại hình công ty khác.
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là hoạt động
trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, làm
dịch vụ nhận các lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng chuyển cách
lệnh mua bán chứng khoán vào sở giao dịch chứng khoán và hưởng hoa hồng
môi giới. Hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán phải tuân
thủ một số nguyên tắc nhất định như: ký kết hợp đồng dịch vụ môi giới với
khách hàng, mở tài khoản chứng khoán cho khách hàng, thanh toán và quyết
toán các doanh vụ, cung cấp các giấy chứng nhận chứng khoán cho khách
hàng.
- Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: Tự doanh là việc công ty dùng tiền
của chính mình tham gia vào hoạt động mua bán chứng khoán cho chính công

8


ty, hoạt động tự doanh thực chất là hoạt động mua đi bán lại chứng khoán nói
cách khác là hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm chênh lệch lợi nhuận từ
việc mua giá thấp bán giá cao của một hoặc nhiều loại chứng khoán trên thị

trường sơ cấp hoặc thứ cấp.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán: Nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành là hoạt động mà công ty chứng khoán thực hiện một, một số hành vi:
thực hiện các thủ tục trước khi chào bán; nhận mua một phần hay toàn bộ
chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại; mua số chứng khoán còn lại
chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành; hỗ trợ tổ chức phát hành
trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng. Tổ chức phát hành chứng
khoán ra công chúng trong một số trường hợp bắt buộc phải có một tổ chức
bảo lãnh phát hành – bao gồm: chào bán cổ phiếu ra công chúng để thành lập
mới doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng; chào bán cổ phiếu ra công
chúng để thành lập mới doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao và chào
bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam của tổ chức nước ngoài. Ngoài
ra, khi các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng dù là lần đầu
hay lần phát hành thêm cũng khuyến nghị nên có một tổ chức bảo lãnh phát
hành. Như vậy nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là khâu thiết yếu trong quá trình
huy động vốn của tổ chức phát hành.
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán: Là hoạt động mà công ty dựa
trên những kết quả phân tích để đưa ra lời khuyên cho nhà đầu tư, cũng giống
các nghiệp vụ khác hoạt động tư vấn cũng đem lại doanh thu cho công ty
bằng cách thu phí tư vấn, trong mọi trường hợp lỗ hay lãi thì khách hàng phải
tự chịu trách nhiệm.
Ngoài các nghiệp vụ chính nêu trên công ty chứng khoán còn thực hiện
một số hoạt động dịch vụ tài chính khác như: lưu ký chứng khoán (nhận ký
gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng

9


thực hiện các quyền liên quan tới sở hữu chứng khoán) và tư vấn tài chính (tư
vấn tái cơ cấu tái chính doanh nghiệp, tư vấn quản trị công ty, tư vấn các hoạt

động niêm yết, chào bán chứng khoán, …).
1.1.2. Khái quát về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán
1.1.2.1. Khái niệm về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng
khoán
Trong ngôn ngữ hằng ngày, khi nhắc tới “bảo lãnh” người ta thường
nghĩ tới việc một người cam kết với người khác nhận trách nhiệm về mình để
thực hiện công việc nào đó trên cơ sở có thù lao hoặc không có thù lao. Trong
quan hệ dân sự, bảo lãnh được định nghĩa là hành vi của một người cam kết
với người khác thực hiện nghĩa vụ dân sự thay cho người thứ ba. Kể từ khi thị
trường chứng khoán ra đời, một thuật ngữ mới xuất hiện là “bảo lãnh phát
hành”. Quan niệm về bảo lãnh trong hoàn cảnh này lại hiểu theo ý nghĩa khác
với bảo lãnh trong dân sự.
Trên thế giới pháp luật một số nước ban hành quy định kèm theo định
nghĩa bảo lãnh phát hành, cũng có một số hệ thống pháp luật không có một
định nghĩa cụ thể trong văn bản pháp luật. Nhưng đều mang ý nghĩa chung
được hiểu là bảo lãnh phát hành là việc công ty kinh doanh chứng khoán cam
kết thực hiện việc phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành trong một
thời hạn nhất định, và tổ chức phát hành phải trả thù lao theo thỏa thuận khi
đợt phát hành chứng khoán kết thúc.
Một số quốc gia không đưa ra định nghĩa như: Trung Quốc, Mỹ. Mà
định nghĩa được rút ra từ tổng hợp những quy định pháp luật có liên quan.
Theo từ điển quản lý, nhà xuất bản từ điển Thượng Hải, Trung Quốc, bảo lãnh
phát hành được định nghĩa là một hành vi có tính hệ thống theo đó tổ chức
phát hành chứng khoán ủy thác cho một tổ chức tài chính có trình độ phân

10


phối chứng khoán để huy động vốn và giao chứng khoán cho các nhà đầu tư

theo thỏa thuận, là một nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của tổ chức kinh doanh
chứng khoán, các tổ chức kinh doanh chứng khoán có trách nhiệm và rủi ro
khác nhau trong quá trình bảo lãnh, bảo lãnh phát hành có thể được chia
thành hai hình thức: bảo lãnh và ký gửi (Pháp luật Trung Quốc không có điều
khoản định nghĩa bảo lãnh phát hành). Tại Mỹ, định nghĩa bảo lãnh phát hành
được phát triển từ việc pháp luật quy định hành vi của bảo lãnh phát hành,
theo Luật chứng khoán Mỹ năm 1934 các hành vi này gồm: mua chứng khoán
từ tổ chức phát hành nhằm thực hiện một trong các hành vi: phân phối lại;
thực hiện việc phát hành; bán chứng khoán giúp cho tổ chức phát hành; tham
gia vào việc thực hiện phân phối; trợ giúp phát hành, bán chứng khoán.
Một số quốc gia định nghĩa bảo lãnh phát hành ngay trong văn bản
pháp luật, tiêu biểu như Việt Nam. Theo quy định tại Luật chứng khoán Việt
Nam bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành
cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành
để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ
chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng
khoán ra công chúng [3, Điều 6]. Ngoài ra định nghĩa bảo lãnh phát hành còn
được nêu ra tại từ điển Luật học Việt Nam, theo đó bảo lãnh phát hành là
cam kết bao tiêu một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành
khi phát hành chứng khoán [7, Trang 44].
Như vậy, chủ thể bảo lãnh phát hành thực hiện những công việc sau:
 Thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán.
 Cam kết nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát
hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối

11


hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc

phân phối chứng khoán ra công chúng.
Có thể thấy rằng hoạt động bảo lãnh phát hành chỉ có nghĩa là tổ chức
bảo lãnh phát hành cam kết bao tiêu chứng khoán cho tổ chức phát hành,
không bao gồm thực hiện các nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu
tư.
Hầu hết pháp luật các quốc gia quy định tổ chức bảo lãnh phát hành
phải là một tổ chức kinh doanh chứng khoán và được đăng ký tại cơ quản lý
nhà nước. Các tổ chức bảo lãnh phát hành này phải đáp ứng những điều kiện
nhất định để được cấp phép hoạt động, tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia
mà đặt ra những điều kiện khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung giữa pháp luật
các nước là phải đảm bảo những điều kiện cơ bản sau: đảm bảo về tài chính,
đảm bảo về cơ sở vật chất và đảm bảo về nhân sự.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát
hành cần phải được sự bảo lãnh phát hành. Nếu số lượng phát hành không lớn
thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn và
số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh
thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ
chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí bảo lãnh
nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh cao hay thấp là
tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó
khăn). Đối với trái phiếu, phí bảo lãnh phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi
suất trái phiếu thấp thì phí bảo lãnh phát hành cao và ngược lại).
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra quan điểm định nghĩa bảo
lãnh phát hành chứng khoán như sau: Bảo lãnh phát hành chứng khoán là
việc tổ chức bảo lãnh thực một trong những hành vi: cam kết với tổ chức phát

12



hành nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành
để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết hoặc
cố gắng tối đa để phân phối số chứng khoán cần phát hành của tổ chức phát
hành.
1.1.2.2. Đặc điểm bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán
Về bản chất hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là dịch vụ
thương mại với mục đích cuối cùng là nhận tiền phí dịch vụ. Hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán có những đặc điểm cơ bản gồm:
Thứ nhất, về mục đích bảo lãnh phát hành
Mục đích của bảo lãnh phát hành là “tính hiệu quả” của đợt phát hành
chứng khoán. Theo đó, mục tiêu cuối cùng mà bảo lãnh phát hành nhắm tới là
thực hiện được cam kết bảo lãnh phát hành.
Đặc điểm này làm nên sự khác biệt với bảo lãnh trong quan hệ dân sự.
Theo đó, tại Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Điều 335. Bảo
lãnh
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Mục đích mà bảo lãnh dân sự hướng tới là đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự bởi nội dung của bảo lãnh trong quan hệ dân sự là cam kết thực hiện
nghĩa vụ thay cho một chủ thể có nghĩa vụ. Như vậy, cùng một thuật ngữ

13



“bảo lãnh” nhưng lại có sự khác biệt rất lớn giữa bảo lãnh phát hành và bảo
lãnh dân sự.
Đặc điểm này còn giúp ta phân biệt với đại lý phát hành chứng khoán,
khi mục đích hoạt động của đại lý phát hành là bán chứng khoán và hưởng
hoa hồng dựa trên giá chênh lệch khi phân phối tới nhà đầu tư, hoặc hưởng
hoa hồng dựa trên khối lượng chứng khoán bán được, mà không quan tâm tới
việc kết quả phân phối chứng khoán cuối cùng. Như vậy, đại lý phát hành
chứng khoán chỉ tham gia vào công đoạn phân phối và hưởng hoa hồng dựa
trên số chứng khoán phân phối được mà không tham gia vào việc xác nhận
kết quả chào bán chứng khoán.
Thứ hai, về chủ thể trong quan hệ bảo lãnh phát hành
Trong quan hệ bảo lãnh phát hành gồm có hai loại chủ thể tham gia đó
là chủ thể bảo lãnh phát hành đóng vai trò “bên bảo lãnh” và chủ thể phát
hành đóng vai trò “bên được bảo lãnh”.
Chủ thể bảo lãnh phát hành chứng khoán là tổ chức chuyên nghiệp là
công ty chứng khoán hoặc chủ thể khác được phép cung ứng dịch vụ bảo lãnh
phát hành. Với tư cách chủ thể cung ứng dịch vụ hỗ trợ phát hành chứng
khoán một cách chuyên nghiệp để lấy phí, chủ thể bảo lãnh phải được cấp
giấy phép hoạt động bảo lãnh phát hành và phải đăng ký với cơ quan quản lý
Nhà nước về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Pháp luật các nước
thường có quy định giới hạn chủ thể được quyền thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh, ở Việt Nam chỉ có công ty chứng khoán hoặc ngân hàng thương mại
được quyền thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Chủ thể
được phép phát hành chứng khoán có thể là cơ quan Nhà nước (Chính phủ,
chính quyền địa phương) hoặc doanh nghiệp.
Đặc điểm này cũng khác hoàn toàn so với bảo lãnh trong quan hệ dân
sự. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 quy định bảo lãnh

14



gồm ba chủ thể: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh; nói
cách khác luôn luôn tồn tại quan hệ giữa ba chủ thể trong quan hệ bảo lãnh
dân sự.
Thứ ba, bảo lãnh phát hành là nghiệp vụ kinh doanh có mức độ rủi ro
cao
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán có mức độ rủi ro lớn, đặc
biệt là với bảo lãnh phát hành với cam kết chắc chắn. Rủi ro trong bảo lãnh
phát hành có thể xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân như: nguyên nhân từ phía
chủ thể bảo lãnh (xảy ra sai sót trong khi thực hiện nghiệp vụ, do biến cố
trong nội bộ, …), những nguyên nhân từ phía chủ thể khác (thị trường chứng
khoán biến động, chủ thể phát hành xảy ra biến cố lớn, thay đổi quy định của
pháp luật, …). Do vậy, để hạn chế rủi ro trong kinh doanh bảo lãnh phát hành
chứng khoán chủ thể bảo lãnh trước hết phải tự mình xây dựng nên những
quy tắc, nội dung để hạn chế rủi ro như: quy trình xem xét tổ chức phát hành
và nhận bảo lãnh, quy trình đánh giá chứng khoán nhận bảo lãnh, quy trình
bảo lãnh phát hành.
Mức độ rủi ro cao của hoạt động bảo lãnh phát hành cũng là một trong
những lý do giải thích cho việc pháp luật các nước đều đặt ra các điều kiện
chặt chẽ đối với tổ chức bảo lãnh phát hành: điều kiện về vốn, điều kiện về
nhân sự và điều kiện về cơ sở vật chất. Đây cũng là nghiệp vụ kinh doanh
mang tính rủi ro lớn hơn khi đặt đem lên bàn cân so sanh với các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán khác, bởi khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chủ thể
bảo lãnh không chỉ phải có nguồn vốn đầu tư ban đầu mà nguồn vốn này còn
phải rất lớn (mặc dù có thể trong một số trường hợp không phải đặt ra ngay
khi ký bảo lãnh nhưng luôn phải đảo bảo tồn tại khoản vốn đó và luôn luôn
sẵn sàng khi cần thiết, đặc biệt là đối với cam kết bảo lãnh chắc chắn), còn đối

15



với các nghiệp vụ khác như môi giới, các hoạt động tư vấn lại không đặt ra
vấn đề phải có khoản đầu tư ban đầu lớn.
Đặc điểm này cũng liên quan mật thiết tới lợi nhuận mà tổ chức bảo
lãnh thu được. Đối với hoạt động môi giới và tư vấn chứng khoán vì mức độ
thực hiện công việc có thể nói là đơn giản hơn nên chỉ có một khoản lợi
nhuận đến từ chi phí môi giới và phí tư vấn. Ngược lại, hoạt động bảo lãnh vì
phải đáp ứng nhiều điều kiện và quy trình thực hiện khắt khe nên lợi nhuận
thu được phải tương ứng với công việc mà tổ chức bảo lãnh đã làm. Trong
một số trường hợp lợi nhuận của hoạt động bảo lãnh còn có khả năng tăng lên
so với mức dự kiến ban đầu. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Mỹ thì chủ
thể bảo lãnh sẽ được mua lại số chứng khoán từ tổ chức phát hành và được
hưởng mức chiết khấu nhất định trên giá bán đã niêm yết. Mặt khác, trong
trường hợp chứng khoán được phân phối tại thị trường thứ cấp có giá cao hơn
rất nhiều so với định giá chứng khoán ban đầu thì chủ thể bảo lãnh còn có thể
nhận được lợi ích rất lớn.
Thứ tư, bảo lãnh phát hành thường xuất hiện ở hoạt động phát hành
chứng khoán ra công chúng trên thị trường sơ cấp
Thị trường chứng khoán gồm hai bộ phận là thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi chứng khoán được xuất hiện, là quá
trình phát hành chứng khoán của các tổ chức phát hành nhằm thực hiện nhu
cầu huy động vốn. Thị trường thứ cấp lại là nơi diễn ra các giao dịch chứng
khoán đã được hình thành ở thị trường sơ cấp bởi các nhà đầu tư chứng
khoán. Do đó, với đối tượng là việc hỗ trợ việc phát hành chứng khoán, hoạt
động bảo lãnh thường diễn ra trên thị trường sơ cấp.
Ngoài ra, bảo lãnh phát hành thường xuất hiện đối với đợt phát hành
chứng khoán ra công chúng bởi lẽ: hoạt động chào bán chứng khoán ra công
chúng là hoạt động chào bán chứng khoán rộng rãi cho các nhà đầu tư bao

16



gồm cả những nhà đầu tư không chuyên nghiệp nên tổ chức phát hành chứng
khoán phải đáp ứng nhiều điều kiện như công bố thông tin, hiệu quả kinh
doanh và thực hiện nhiều thủ tục phức tạp nhằm bảo vệ quyền lợi của công
chúng đầu tư, vừa hay tổ chức bảo lãnh phát hành có năng lực và kinh nghiệm
trong việc hỗ trợ phát hành chứng khoán. Ngược lại, khi chào bán chứng
khoán riêng lẻ tổ chức phát hành thường sẽ tự thực hiện việc phân phối chứng
khoán, bởi việc chào bán chứng khoán riêng lẻ đã có đối tượng hướng đến và
thủ tục đăng ký chào bán cũng không quá phức tạp như chào bán chứng
khoán ra công chúng.
Thứ năm, bảo lãnh phát hành vừa là một dịch vụ thương mại vừa là
một hoạt động đầu tư.
Về bản chất, bảo lãnh phát hành là dịch vụ thương mại, theo đó bên bảo
lãnh cam kết thực hiện một hoặc một số công việc liên quan tới phát hành
chứng khoán cho chủ thể phát hành chứng khoán và nhận thù lao tương ứng
với công việc thực hiện. Tuy cùng có tính chất là dịch vụ thương mại như bảo
lãnh ngân hàng, tuy nhiên giữa bảo lãnh phát hành chứng khoán và bảo lãnh
ngân hàng có sự khác biệt rõ ràng ở chỗ: bảo lãnh ngân hàng vừa là dịch vụ
thương mại vừa là hình thức đảm bảo nghĩa vụ dân sự, còn bảo lãnh phát hành
chỉ đơn thuần là loại hình dịch vụ thương mại.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, chủ thể bảo
lãnh phát hành còn có quyền mua chứng khoán của chủ thể phát hành để đầu
tư. Do vậy, mỗi đợt bảo lãnh phát hành chứng khoán chủ thể bảo lãnh có thể
cân nhắc lựa chọn việc đầu tư vào loại chứng khoán bảo lãnh hay không, đây
cũng là một hình thức đầu tư đem lại lợi nhuận cao nếu có sự nghiên cứu đánh
giá đúng đắn tính sinh lời của loại chứng khoán. Chủ thể bảo lãnh phát hành
là người đầu tiên tiếp cận chứng khoán cho nên mức giá mua chứng khoán

17



nếu đầu tư được coi là rất tốt, do vậy khả năng đem lại lợi nhuận cao khi đầu
tư mua chứng khoán này là rất lớn.
1.1.2.3. Vai trò bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán
 Đối với tổ chức phát hành
Bảo lãnh phát hành xuất hiện như một cầu thiết yếu của tổ chức phát
hành chứng khoán:
Thứ nhất, về mặt pháp lý: pháp luật quy định tổ chức phát hành lần đầu
chứng khoán ra công chúng trong một số trường hợp phải có tổ chức bảo lãnh
phát hành. Như vậy, hiểu được vai trò của bảo lãnh phát hành khi phát hành
chứng khoán ra công chúng, các nhà làm luật nhận thấy cần thiết phải quy
định bắt buộc một số trường hợp khi phát hành chứng khoán ra công chúng
phải có tổ chức bảo lãnh. Sở dĩ quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền lợi tối
thiểu của công chúng đầu tư khi chứng khoán được đưa vào thị trường.
Thứ hai, về mặt thực tiễn: đối với một doanh nghiệp lần đầu chào bán
chứng khoán ra công chúng sẽ gặp nhiều khó khăn về trình tự thực hiện, tìm
kiếm nhà đầu tư, bởi việc phát hành lần đầu cũng đồng nghĩa với việc nhà đầu
tư lần đầu biết đến, nguy cơ đợt phát hành không thành công là hoàn toàn có
thể xảy ra. Đối với doanh nghiệp phát hành thêm chứng khoán, lựa chọn tổ
chức bảo lãnh phát hành là hành động khôn ngoan, bởi tính hiệu quả (hoàn
toàn có thể tin tưởng giao công ty chứng khoán thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán, tìm kiếm nhà đầu tư) khi giao nhiệm vụ phát hành chứng khoán cho
một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
 Đối với tổ chức bảo lãnh
Việc thực hiện bảo lãnh là một cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho tổ chức
bảo lãnh. Ngoài những chi phí bảo lãnh thông thường, tổ chức bảo lãnh còn
có thể tìm kiếm lợi nhuận từ việc mua lại đối chứng khoán do chính mình
thực hiện bảo lãnh. Tổ chức bảo lãnh nắm giữ hồ sơ năng lực của tổ chức phát


18


hành, do vậy việc đánh giá giá trị chứng khoán của tổ chức phát hành được
chính xác hơn, mức độ rủi ro đối với việc sở hữu chứng khoán phát hành chắc
chắn được giảm thiểu. Như vậy, đối với tổ chức bảo lãnh phát hành việc thực
hiện dịch vụ bảo lãnh phát hành có thể đem lại nguồn thu rất lớn.
 Vai trò khác
Đối với nhà đầu tư, khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh
nắm giữ thông tin trung thực về hồ sơ năng lực của tổ chức phát hành. Nhà
đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán họ được các tổ chức bảo lãnh phát
hành cung cấp những thông tin này, từ đó đưa ra những nhận định đầu tư
đúng đắn.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước, vì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là
một khâu quan trọng trong quá trình phát hành chứng khoán ra công chúng,
đây là một quy định của pháp luật đương nhiên việc kiểm soát của cơ quan
quản lý nhà nước là tất yếu. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, tổ chức bảo
lãnh phải thực hiện một số công việc tại cơ quan có thẩm quyền để được thực
hiện nghiệp vụ của mình.
1.1.2.4. Yêu cầu và điều kiện thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hầu hết các quốc gia đều ghi nhận kinh doanh chứng khoán là một
ngành nghề kinh doanh có điều kiện, mỗi dịch vụ kinh doanh chứng khoán để
được thực hiện đều phải đảm bảo những điều kiện nhất định, bảo lãnh phát
hành chứng khoán cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Chủ thể bảo
lãnh được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
Thứ nhất, bảo lãnh phát hành chứng khoán phải được thực hiện bởi chủ
thể có năng lực, đã được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cấp phép
hoạt động. Điều này thể hiện ở chỗ, chủ thể phát hành phải có năng lực thực
hiện nghiệp vụ gồm khả năng về vốn, năng lực nhân sự, điều kiện cơ sở vật


19


chất và quan trọng hơn cả là có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực bảo lãnh
phát hành chứng khoán.
Thứ hai, tồn tại nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh phát hành của tổ
chức phát hành. Nói cách khác, để tồn tại sự kiện bảo lãnh phát hành trước hết
phải có khách hàng có nhu cầu. Khi phát hành chứng khoán dù là phát hành ra
công chúng hay phát hành riêng lẻ, việc phân phối chứng khoán có thể tự tổ
chức phát hành thực hiện hoặc sử dụng dịch vụ trung gian – các tổ chức bảo
lãnh phát hành. Việc sử dụng trung gian để phân phối chứng khoán hay sử
dụng dịch vụ bảo lãnh phát hành xuất phát từ hai lý do: (1) chủ thể phát hành
tự nguyện tìm tới đơn vị bảo lãnh phát hành bởi nhiều lý do như chủ thể phát
hành không chuyên nghiệp trong vấn đề phân phối chứng khoán cần thiết phải
có đơn vị tư vấn hoặc thực hiện thay việc phân phối chứng khoán, chủ thể
phát hành mong muốn phát hành chứng khoán được thành công; (2) chủ thể
phát hành chứng khoán thuộc một trong những trường hợp luật pháp quy định
bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành khi phát hành chứng khoán, một
số trường hợp bắt buộc pháp luật đã quy định rất rõ ràng đương nhiên mọi
chủ thể phải tuân thủ.
Thứ ba, giữa chủ thể phát hành và chủ thể bảo lãnh phát hành ký hợp
đồng dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Căn cứ để sự kiện bảo lãnh
phát hành diễn ra, và cũng là căn cứ xuyên suốt quá trình thực hiện nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán là hợp đồng dịch vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán. Đây là một căn cứ quan trọng, theo đó khi xảy ra mẫu thuẫn
trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên phát hành sẽ là
căn cứ để giải quyết mâu thuẫn. Các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo
lãnh phát hành tự do thỏa thuận về các điều khoản cam kết trên cơ sở đảm bảo
quyền và lợi ích của mình, và không trái quy định của pháp luật có liên quan.


20


×