Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CHUAN lồng ghép giáo dục giới tính trong dạy học sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.78 KB, 15 trang )

Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

A - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
1. Khách quan
Giáo dục giới tính cho lứa tuổi vị thành niên đang là vấn đề được quan
tâm hàng đầu của xã hội. Tuy nhiên trong chương trình của trường trung học cơ
sở (THCS) chưa có môn học giáo dục giới tính mà chỉ được lồng ghép, tích hợp
vào các môn như: sinh học, giáo dục công dân ,địa lí ...với thời lượng ít ỏi chỉ
vài tiết trên năm. Vì vậy hiệu quả thực hiện phương thức này chưa cao mặt khác
giáo viên thiếu kiến thức và còn có thái độ e ngại khi nói về các vấn đề giới tính,
sức khỏe sinh sản.
Các em trong giai đoạn dậy thì có sự thay đổi lớn về cơ quan sinh dục, tâm
sinh lí, tình cảm. Xuất hiện cảm xúc với bạn khác giới. Các em tò mò về những
thay đổi đó và bắt đầu tìm hiểu. Tuy nhiên với sự phát triển của công nghệ thông
tin, có nhiều thông tin ảo gây nhiễu, làm cho các em còn lúng túng khi đối mặt
với vấn đề. Vì vậy các em cần được bố mẹ hay thầy cô có kiến thức chuyên môn
khái quát lại ,tổng hợp lại thông tin, từ đó có cái nhìn đúng đắn về giới tính.
Trên thực tế, giáo dục giới tính chứa đựng rất nhiều vấn đề nhạy cảm ,tế
nhị khiến các em khó trình bày trao đổi cụ thể trong môi trường lớp học, trước
thầy cô và các bạn khác giới, vì vậy cần có một môi trường phù hợp để các em
tin tưởng bày tỏ, trao đổi quan điểm, khúc mắc của mình. Vấn đề đáng báo động
khác của xã hội là tình trạng dâm ô, quấy rối tình dục, xâm hại tình dục mà đa số
nạn nhân là các em gái đang gây bức xúc cho dư luận, là nỗi lo của cha mẹ học
sinh. Vì vậy bản thân các em cần được trang bị các kĩ năng để phòng tránh ,bảo
vệ cho chính mình, đồng thời có thêm kiến thức về sức khỏe sinh sản.
2. Chủ quan
Là một giáo viên trẻ, được giao nhiệm vụ giảng dạy môn sinh học 8 trong
một vài năm, trong thời gian đó tôi đã bắt gặp những câu hỏi ngô nghê của học
sinh như “Tại sao lại sinh ra con vậy cô?”, “Nếu nam mà ngủ chung với nữ thì
sẽ có thai cô nhỉ ?” Có em khác lại hỏi “ nếu nam và nữ cầm tay nhau thì sẽ bị


sao ạ”…Từ thực trạng này cho thấy kiến thức về giới tính của các em còn rất
nghèo nàn ,ít ỏi. Khi có nhu cầu tìm hiểu thì đôi khi cha mẹ cũng trả lời qua loa,
đại khái cho xong càng làm các em hiểu sai lệch về giới tính.
Trong quá trình dạy học, khi dạy đến bài giới tính, hầu hết các em nữ đều
tỏ ra ngượng ngùng, còn các em nam lại cười, nhưng khi hỏi đến bài thì các em
đều không trả lời được. Ngoài ra, trong quá trình dạy học, tôi cũng được nghe
nhiều trường hợp các em “yêu” nhau, ảnh hưởng tới việc học hành xảy ra không
chỉ tại địa phương mà còn cả trên địa bàn huyện. Có thể thấy các em chưa có
Trang 1/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

nhận thức đúng đắn về giới, chưa phân biệt rõ giữa tình yêu và tình bạn. Do vậy,
việc giáo dục giới tính và cách ứng xử trong giao tiếp với bạn khác giới cho học
sinh THCS là một việc cần thiết và cấp bách.
Trong các bộ môn được giảng dạy ở trường THCS, Sinh học là bộ môn
tương đối phù hợp để giáo viên lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh, đặc
biệt là chương trình Sinh học 8, khi các em được tìm hiểu kiến thức về giải phẫu
sinh lý người. Học sinh sẽ có điều kiện khám phá các hoạt sinh lý của cơ thể,
giải thích một số hiện tượng tâm sinh lý lứa tuổi, biết cách vệ sinh thân thể, giữ
gìn sức khỏe bản thân...Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn trình bày ý
tưởng thông qua đề tài: “Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính
trong môn sinh học ở trường trung học cơ sở”.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những biện pháp để nâng cao hiệu quả và phát huy tích cực
việc lồng ghép nội dung giáo dục giới tính trong bài dạy sinh học lớp 8. Từ đó
góp phần hạn chế tình trạng mang thai ngoài ý muốn, có ý thức vệ sinh thân thể
và có cái nhìn đúng đắn về giới tính, về sinh sản.
Giúp cho học sinh hiểu rõ được mối quan hệ giữa kiến thức sinh học với

thực tiễn đời sống, từ đó khơi dậy sự hứng thú của học sinh trong mỗi tiết học,
nâng cao hiệu quả dạy- học.
III. Đối tượng nghiên cứu
1.Đối tượng
Tích hợp và lồng ghép các vấn đề liên quan tới giới tính vào các bài học
có liên quan trong chương trình sinh học lớp 8.
2. Khách thể
Học sinh lớp 8B, 8C của trường....
IV. Phạm vi, thời gian nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ chương trình sinh học lớp 8.
2. Thời gian nghiên cứu
Từ đầu năm học 2019 - 2020 đến tháng 3/2020
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu
có liên quan đến đề tài trên báo chí và nhiều tài liệu khác.
- Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành ở các giờ dạy trên lớp.
- Phương pháp điều tra học sinh: Qua bảng hỏi.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.
- Phương pháp thống kê toán học.
Trang 2/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Tổng quan
1.Một số khái niệm
a. Giới tính
Là những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh lí cơ thể và những đặc

trưng về tâm lí tạo nên sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới.
b. Giáo dục giới tính (GDGT)
Là “giáo dục chức năng làm một con người có giới tính, điều quan trọng là
đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ ở lớp từ nhà trẻ đến đại
học, giúp học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu hiện cảm xúc liên
quan đến đời sống giới tính” (theo Từ điển bách khoa về giáo dục).
Theo PGS.TS Bùi Ngọc Oánh- Trung tâm tư vấn tình yêu và giáo dục hôn
nhân gia đình, thực tế giáo dục giới tính là sự giáo dục toàn diện vào nhân cách
con người, đó là quá trình tác động vào con người, làm cho họ có nhận thức và
thái độ đúng đắn, đầy đủ về giới tính và quan hệ giới tính, hướng hoạt động của
họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới của họ,
chuẩn bị cho họ biết cách tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng
gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.
c. Phân chia giai đoạn trẻ vị thành niên .
Gồm 3 giai đoạn
+ Trước tuổi thành niên : Từ 10 đến 13 tuổi .
+ Giữa tuổi thành niên : Từ 14 đến 16 tuổi .
+ Sau tuổi thành niên : Từ 17 đến 19 tuổi .
2.Tích hợp lồng ghép giáo dục giới tính vào dạy học là một nhiệm vụ
quan trọng
Lứa tuổi của học sinh trung học cơ sở đa số từ 11 đến 15 tuổi đang trong
giai đoạn đầu và giữa của vị thành niên nên hiểu biết về các vấn đề giới tính đều
mù mờ, mông lung vì vậy giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan
điểm sống tích cực, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành
niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những
quyết định của mình. Các chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa
nhà trường, gia đình và xã hội.
Một số ý kiến lo ngại rằng nếu cung cấp cho các em những thông tin đó
sớm thì chẳng khác nào “ vẽ đường cho hươu chạy ”. Nhưng tôi thiết nghĩ chúng
ta thà vẽ đường cho “hươu” chạy đúng còn hơn để “hươu” chạy sai đường .

Thực tế cuộc sống đã cho thấy, vì thanh niên thiếu hiểu biết và không
được giáo dục để có hành vi đúng, nên mới dẫn đến những quan hệ thiếu trách
Trang 3/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

nhiệm, thiếu văn hóa trong quan hệ giới tính. Đã đến lúc chúng ta không thể né
tránh, mà phải chủ động trong việc giáo dục giới tính để con em chúng ta phát
triển đúng hướng và toàn diện.
3.Tại sao lại chọn môn Sinh học, đặc biệt là Sinh học 8 để lồng ghép GDGT
Thực ra vấn đề này có thể lồng ghép hay tích hợp ở một số môn học khác
như Đạo đức, giáo dục công dân, công nghệ, thể dục, thậm chí là văn học....Tuy
nhiên, đề cập rõ nhất, gần gũi nhất với học sinh, theo tôi chỉ có môn Sinh học ở
trường phổ thông. Bởi thông qua học tập môn Sinh học, đặc biệt là Sinh học 8,
các em mới có điều kiện được tìm hiểu về chính cơ thể mình, giải thích được
một số hiện tượng tâm sinh lý của con người và các vấn đề có liên quan trong
đời sống xã hội. Đồng thời chương trình Sinh học 8 mới tập trung nghiên cứu về
giải phẫu sinh lý người, sách giáo khoa có nhiều kênh hình đẹp, có thể liên hệ
thực tế nhiều, nên đây là môn học có nhiều ưu điểm để thực hiện lồng ghép
GDGT. Mặt khác giáo viên Sinh học cũng được trang bị một số kiến thức
chuyên môn, sẽ thuận lợi hơn trong việc cung cấp cho học sinh.
4.Thực tế quá trình giáo dục giới tính tại thế giới và Việt Nam
a.Giáo dục giới tính trên thế giới
Nhiều nước trên thế giới, giáo dục giới tính đã trở thành một môn học
được đưa vào giảng dạy ở nhà trường với các tên gọi khác nhau: như ở Thái Lan
gọi là giáo dục đời sống gia đình, Thụy Điển gọi là Vệ sinh tình dục, Tại
Malaysia, bộ giáo dục cũng đã đưa vấn đề này vào trường học từ 1967, 1968.
Sách giáo khoa cũng được biên soạn theo từng cấp với những hình vẽ minh họa
rất phù hợp. Tại Nhật Bản, giáo dục giới tính là bắt buộc từ 10 hay 11 tuổi, chủ

yếu đề cập tới các chủ đề sinh học như kinh nguyệt và xuất tinh. Một cuộc điều
tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liên quan tới thói quen của
thanh niên châu Âu cho thấy, tuy có lối sống khá thoáng nhưng tỉ lệ sinh con
trong độ tuổi vị thành niên và tỉ lệ nạo phá thai ở các nước này rất thấp.
Tại nhiều quốc gia ở châu Phi căn bệnh thế kỉ AIDS có sự lan rộng khủng
khiếp trở thành đại dịch vì vậy giáo dục giới tính được coi là một chiến lược
sống còn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
b.Thực trạng giáo dục giới tính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, giáo dục giới tính chỉ được lồng ghép vào một số môn học,dù
đã có nhiều ý kiến cần đưa vào chương trình chính khóa nhưng hiện tại ngành
giáo dục chưa thực hiện được. Nhiều giáo viên và phụ huynh thiếu kiến thức
chuyên môn nên chưa cung cấp đủ kiến thức cần thiết cho các em hay có thái độ
e ngại khi nói về vấn đề này, từ đó đã có nhiều hậu quả đau lòng xảy ra .
Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong
Trang 4/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó
20% thuộc lứa tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới 12 tuổi, có em mới 15 tuổi
đã phá thai 2 lần. Bên cạnh đó, tỉ lệ thanh thiếu niên phạm pháp về các tội hiếp
dâm, giết người vì ghen tuông,… ngày càng tăng. Số lượng trẻ em bị xâm hại
tình dục do thiếu hiểu biết về giới tính tăng đến mức báo động.
II. Quá trình thực hiện đề tài
1. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài
a. Thuận lợi
- Chúng ta đang ở thời kì công nghệ 4.0 nên việc tiếp cận thông tin khá dễ
dàng. Tư liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu đa dạng và dễ tìm kiếm .
- Học sinh THCS đa phần ở độ tuổi 11 đến 15 nên dễ tiếp thu kiến thức

về GDGT. Đa số các em có nhu cầu muốn tìm hiểu và khám phá sự thay đổi
của bản thân.
b. Khó khăn
- Theo suy nghĩ của người phương Đông, vấn đề giới tính còn khá nhạy
cảm, đòi hỏi phải cẩn trọng khi đề cập đến vấn đề tế nhị này.
- Không phải GV nào cũng có kiến thức tốt về GDGT để truyền thụ cho các
em, ngoài ra còn tâm lí e dè, xấu hổ khi chạm tới nội dung này ở cả GV lẫn HS.
- Chương trình học trên lớp khá nặng nên việc vừa đảm bảo đủ nội dung theo
SGK vừa lồng ghép, mở rộng GDGT gặp khó khăn về thời gian chỉ trong 45 phút.
-Hai chương nội tiết và sinh sản có nhiều bài để lồng ghép GDGT được
phân bố ở cuối học kì II nên tâm lí HS thường tò mò, mất tập trung lật đến trang
đó để xem hình ảnh. Số tiết của chương sinh sản còn ít.
- Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng: Giáo dục giới tính là chuyện tế nhị,
không nên đưa vào trường học hay phổ biến rộng rãi, đó là hành động “vẽ đường
cho hươu chạy”, đến lúc rồi các em sẽ tự biết.
2. Thực trạng nghiên cứu
a. Tình hình thực tế trước khi thực hiện đề tài
* Trước khi bắt tay vào đề tài, tôi đã tìm hiều học lực và hạnh kiểm của
học sinh qua giáo viên chủ nhiệm, đồng thời làm khảo sát về kiến thức của các
em với giới tính, vệ sinh thân thể, và sự yêu thích môn sinh học.( Phiếu điều tra
ở phần phụ lục).
Sau khi điều tra tôi thu được kết quả như sau:
*/ Về thái độ của học sinh với môn sinh học 8

Thái độ
của học sinh
với môn học

8B
Số lượng


8C
Tỉ lệ

Trang 5/15

Số lượng

Tỉ lệ


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

Rất hứng thú
Không hứng thú
Bình thường
Tổng

18
9

50 %

17
9

46 %
24 %

9


25 %
25 %

11

30%

36 Hs

100%

37 Hs

100%

*/ Về kiến thức của học sinh về giới tính cũng như ý thức chăm sóc sức khỏe sinh sản
vị thành niên.

Lớp
Tốt
Bình thường
Chưa tốt
Tổng

8B
Số lượng
7
5
14


Tỉ lệ
40 %
24 %
36%

Số lượng
9
13
15

Tỉ lệ
40,7%
29,6%
29,6%

36Hs

100%

37Hs

100%

*/ Ở bảng số liệu trên cho thấy:
- Số học sinh không yêu thích môn học khá cao. Phần lớn các em không
quan tâm tới môn phụ, đồng thời kiến thức lớp 8 về người khá là khó gây tâm lí
chán, sợ học ở học sinh.
- Về ý thức vệ sinh cơ thể, hiểu biết về giới tính: Qua kết quả khảo sát cho
thấy HS chưa nắm vững về đạc điểm phát triển giới tính, cách vệ sinh cơ thể,

hiểu biết về các bệnh lây qua đường tình dục, các biện pháp tránh thai, tác hại
của việc sinh con ở tuổi vị thành niên. Trước tình hình như vậy tôi cảm thấy rất
băn khoăn lo lắng, làm sao để các em hứng thú học. Làm sao để nâng cao hiệu
quả giảng dạy giúp HS nắm bài tốt và biết ám dụng vào thực tiễn đời sống.
Do đó việc cần thiết là đổi mới giờ dạy sinh học, lồng ghép giáo dục giới
tính trong giúp cho học sinh có hứng thú hơn trong giờ học.
Vì số lượng học sinh trong trường ít, tôi đã tiến hành thực nghiệm trên lớp
mình dạy và chia thành 2 nhóm:
- Nhóm thực nghiệm: lớp 8B
- Nhóm đối chứng: lớp 8C
Đối với nhóm thực nghiệm: Trong quá trình giảng dạy, tôi tích hợp thêm
kiến thức về giáo dục giới tính trong tiết học, bằng câu hỏi củng cố bài, liên hệ
nhiều kiến thức thực tiễn, cho học sinh xem video, hình ảnh có liên quan về vấn
đề giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Đối với nhóm đối chứng: Dạy học bình thường, có liên hệ thực tiễn nhưng
ít, không minh họa nhiều.
Sau thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tôi đã mạnh dạn đề xuất và đưa ra
Trang 6/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

một số giải pháp thực hiện.
3. Những nội dung, biện pháp đã thực hiện
Có thể có nhiều hình thức khác nhau để truyền tải nội dung giáo dục về
giới tính, sức khỏe sinh sản một cách hiệu quả đến học sinh tùy thuộc vào nội
dung bài dạy, mục tiêu cần đạt đến, sau đây là một số hình thức chủ yếu.
a. Trong quá trình giảng dạy, Giáo viên giảng dạy bộ môn sinh học phải
là tấm gương sáng để HS noi theo và giúp HS tin tưởng để chia sẻ
Bản thân là giáo viên nhưng cũng là một người anh hay người chị của thế

hệ đi trước, phải tạo không khí vui vẻ cho tiết học để HS có thể tâm sự vấn đề tế
nhị của bản thân. Phải khéo léo, tế nhị uốn nắn HS khi các em có hành động sai
lệch về giới tính hay quan hệ với bạn khác giới.
- Tác dụng : Giáo dục HS thái độ học tập nghiêm túc, biết tự bảo vệ bản
thân và có cái nhìn đúng đắn về giới.
- Ví dụ 1: Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy sự sa sút về học tập của
2 học sinh trong lớp. Đang trong quá trình tìm hiểu nguyên nhân thì tôi nhận
được phản hồi từ các HS khác là hai em có tình cảm nam nữ, thường xuyên có
cử chỉ thân mật ở trong lớp và giờ ra chơi. Để giúp đỡ các em ,tôi đã khéo léo
gặp riêng hai em này, để xác định phản hồi của các HS khác có đúng hay
không ,nếu là đúng thì phân tích cho hai em biết sự rung động đầu đời đối với
bạn khác giới chỉ nên dừng ở tình cảm học trò trong sáng ,có chừng mực. Và khi
còn trên ghế nhà trường thì nhiệm vụ quan trọng nhất với các em ,quyết định
tương lai của các em sau này là học tập.Vì vậy khi quý mến nhau, dành tình cảm
cho nhau thì các em cùng giúp đỡ nhau trong học tập ,cùng tiến bộ. Đồng thời
cho hai em biết “nếu các em gặp bất cứ khó khăn nào hãy tìm đến cô vì cô luôn
muốn được lắng nghe và chia sẻ cùng những học trò của mình. Sau đó ,tiếp tục
quan tâm để ý đến hai em này ,nếu các em đã thay đổi là điều đáng mừng ,nếu
chưa sẽ tìm giải pháp khác.Và không đưa tình huống này ra trước tập thể sẽ
khiến hai em xấu hổ ,ảnh hưởng tới tâm lí hoặc có thái độ chống đối bất hợp tác
gây phản giáo dục. Kết quả là hai em này đã thay đổi ,tình hình học tập được
cải thiện và thi thoảng hai em vẫn nhắn tin cho cô hỏi về vấn đề tế nhị ,đó là
điều tôi thấy đáng mừng .
*/ Ví dụ 2: Bài 62- Thụ tinh, thụ thai và phát triển của thai.
- Khi học đến bài này, học sinh rất hứng thú, và có nhiều câu hỏi đặt ra, nhất
là với các em nữ. GV cần vận dụng kiến thức về kinh nguyệt và chu kỳ kinh nguyệt
để giáo dục các em giữ vệ sinh thân thể, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
- Thực hiện:
GV Hỏi: Chu kỳ kinh nguyệt kéo dài bao nhiêu ngày ? Trong thời gian nào
Trang 7/15



Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

trứng gặp tinh trùng dễ tạo thành hợp tử ? (giao hợp không an toàn) Trong thời gian
nào trứng gặp tinh trùng khó và không tạo thành hợp tử ? (giao hợp an toàn)
HS trả lời được chu kì kinh nguyệt kéo dài từ 28 đến 32 ngày, tùy từng
người. Và thời điểm rụng trứng là dễ mang thai nhất.
GV: Dựa vào chu kì kinh nguyệt các em tính được thời điểm trứng rụng,
từ đó giáo dục cho các em không nên quan hệ trong thời điểm này, đồng thời các
em có được những kiến thức sinh sản về sau. Ngoài ra hướng dẫn các em nữ vệ
sinh bộ phận sinh dục sạch sẽ trong chu kì kinh nguyệt, tránh bị viêm nhiễm, ảnh
hưởng tới sinh sản về sau.
GV giúp HS giải đáp thắc mắc : Tại sao lại có hiện tượng đau bụng khi
hành kinh? Và có cách nào chữa không?
Đó là do chất prostaglandin mà cơ thể tạo ra để gây co bóp tử cung giúp
niêm mạc bong và thải ra ngoài. Nếu có nhiều prostaglandin, bạn đau nhiều,
thậm chí có thể buồn nôn và đi ngoài nữa. Nhưng đau hành kinh không phải là
bệnh, bạn gái mới lớn có thể đau bụng vì các chất nội tiết trong cơ thể còn chưa
ổn định. Trong thời gian hành kinh, nếu bị đau có thể chườm nước ấm lên bụng,
uống nước ấm, nếu đau quá có thể đến bác sĩ để thăm khám.
=> Từ đó , giáo viên không chỉ đóng vai trò là người dạy, mà còn hướng dẫn
và giúp đỡ các em những tình huống khó khăn gặp phải trong lứa tuổi mới lớn.
*/ Ví dụ 3: Bài 8- Cấu tạo và tính chất của xương.
Khi tìm hiểu phần II- Sự to ra và dài ra của xương, tôi chia lớp thành 2
nhóm, nhóm 1 tìm hiểu về nguyên nhân sự to ra của xương, nhóm 2 tìm hiểu về
sự dài ra của xương. Sau đó đóng vai trò là chuyên gia giải thích những thắc mắc
của các bạn trong lớp về nội dung nhóm mình tìm hiểu. Kết quả thu được rất
nhiều câu hỏi thắc mắc của HS như:
? Đến bao nhiêu tuổi thì không cao thêm được nữa?

? Tại sao trong lớp đa số bạn nữ cao lớn hơn bạn nam, nhưng khi trưởng
thành thì nam lại cao lớn hơn nữ?
? Tại sao khi đến tuổi nhất định lại ngừng phát triển chiều cao?
? Có cách gì để tăng chiều cao trong giai đoạn dậy thì được không?
Nhóm chuyên gia sẽ đóng vai trò giải đáp cho HS, còn lại GV sẽ sẽ giải
đáp giúp Hs những câu các em không trả lời được như:
Tuổi dậy thì ở trẻ nam thường bắt đầu từ 11 – 12 tuổi, còn ở nữ từ 10 – 12
tuổi. Có trẻ dậy thì sớm hơn và cũng có trẻ dậy thì muộn hơn một vài năm. Chính vì
nữ dậy thì sớm hơn nên thường có tầm vóc cao hơn bạn nam. Tuy nhiên sự thành
thục của nam dài hơn nữ từ 2-3 năm nên nam có thời gian phát triển nhiều hơn.
Điều này giải thích tại sao nữ có tầm vóc nhỏ hơn nam khi trưởng thành.
Trang 8/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

Từ đó HS rút ra được cách chăm sóc hệ cơ xương khi đến tuổi dậy thì,
phải ăn uống đủ chất, luyện tập thể thao, ngủ đủ giấc...để phát triển chiều cao tối
ưu. Đây cũng là điều mà tôi muốn hướng đến khi giảng dạy phần này cho HS.
b.Giáo viên sinh học cần tạo được hứng thú học tập cho HS ,nâng cao
chất lượng giảng dạy bộ môn
- Trước tiên người GV cần có lòng yêu nghề, nhiệt huyết trong công tác
giảng dạy, luôn sáng tạo trong dạy học để tránh sự nhàm chán cho HS. Có kiến
thức chuyên môn vững vàng, giúp HS nhận thức rõ tầm quan trọng của môn học
đặc biệt là giáo dục giới tính. Tạo môi trường học cởi mở giúp phát huy tính chủ
động sáng tạo của HS. Đồ dùng dạy học không thể thiếu với môn học là tranh
ảnh, mô hình, clip minh họa giúp HS có cái nhìn tổng quát, suy luận logic.
- Tác dụng: Khơi dậy sự hứng thú của học sinh trong mỗi giờ học sinh
học, đồng thời khắc sâu kiến thức, giúp các em có thức trách nhiệm chăm
sóc bản thân.

*/ Ví dụ 1: Bài 58- Tuyến sinh dục
Sau khi tìm hiểu phần I- Tinh hoàn và hoocmon sinh dục nam, tôi có đưa
ra 1 tình huống như sau:
? Nếu một người con trai bị mất tinh hoàn trước hoặc sau tuổi dậy thì thì
điều gì sẽ xảy ra?
Hầu hết Hs đều nói được là không thể có con, nhưng cụ thể thay đổi như
thế nào thì các em không nói được. Vì vậy tôi có cho HS chơi trò chơi, chia lớp
thành 2 đội, các em sẽ cầm bút đánh dấu tích vào những đặc điểm khi bị mất tinh
hoàn (Bài tập ở phần phụ lục), đội nào nhiều đáp án đúng hơn thì chiến thắng.
Chính nhờ hoạt động này mà lớp rất sôi nổi, các em hứng thú hơn khi tìm hiểu
bài. Đồng thời HS rút ra được vai trò của tinh hoàn và cách bảo vệ tinh hoàn như
không nên mặc trang phục bó sát dễ khiến tinh hoàn áp sát cơ thể làm tăng sinh
nhiệt ảnh hưởng tới việc sản sinh tinh trùng, nên mặc quần lót chất liệu cooton
thoáng khí...
*/ Ví dụ 2: bài 22 - Vệ sinh hô hấp
Khi dạy phần I- Cần bảo vệ hệ hô hấp khỏi các tác nhân gây có hại, tôi đã
cho học sinh xem video “điếu thuốc lá và chai nước ”, sau đó hỏi:
GV: Qua thí nghiệm trên em rút ra được điều gì?
HS: Thấy rõ tác hại của làn khói trắng trong điếu thuốc khi nó bám vào tờ
giấy ăn vàng óng. Nếu người hút thuốc lá thì chất nhựa màu vàng đó sẽ bám vào
phổi làm giảm chức năng của phổi và sinh bệnh tật. Từ đó học sinh biết cách tự
bảo vệ bản thân, đồng thời tuyên truyền cho mọi người xung quanh không hút
thuốc lá nữa.
Trang 9/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

=>Sau những giờ học như vậy, học sinh không chỉ hứng thú khi đến giờ
học, mà còn hiểu bài, vận dụng kiến thức sinh học vào giải quyết những tình

huống gặp phải trong cuộc sống, biết cách tự chăm sóc bản thân.
*/ Ví dụ 3: Bài 34- Vitamin và muối khoáng
Khi dạy đến phần II- Muối khoáng, tôi cho Hs chơi trò chơi “ Tôi là ai” để
tìm hiểu về một số muối khoáng bằng cách trả lời câu hỏi. Nếu đoán được tên
muối khoáng ngay từ câu đầu tiên thì được điểm cao, càng về sau điểm càng
thấp. Ví dụ như nói về muối sắt, câu hỏi như sau:
Câu 40 đ: Tôi là nguyên tố rất quan trọng với cơ thể sống.
Câu 30 đ: Tôi có nhiều trong thịt, trứng, cá, gan, đậu.
Câu 20 đ: Tôi là thành phần cấu tạo của hemoglobin trong hồng cầu.
Câu 10 đ: Tôi có nguyên tử khối bằng 56 đvC.
Như vậy HS không chỉ biết được vai trò của muối sắt, nguồn cung cấp của
nó, đồng thời liên hệ với kiến thức hóa học để tìm ra đáp án. Giờ học ngày hôm
đấy HS rất thích thú, và mong chờ vào những giờ tiếp theo của tôi. Sau đấy tôi
cũng liên hệ thực tế và đặt câu hỏi:
? Đối với các bạn nữ khi đến ngày kinh nguyệt phải chú ý điều gì?
HS: các bạn nữ khi đến ngày kinh nguyệt thường mất nhiều máu, cần phải bổ
sung thêm sắt để bù lại lượng máu đã mất, tránh tình trạng hoa mắt, chóng mặt.
=> HS không chỉ hiểu bài mà hứng thú hơn trong giờ học.
*/ Ví dụ 4: Dạy ngoại khóa với chủ để: “Tuổi dậy thì”.
Không chỉ lồng ghép trong giờ dạy chính khóa trên lớp, tôi cũng lồng
ghép kiến thức GDGT trong buổi ngoại khóa với chủ đề “ Tuổi dậy thì” tại lớp
8B. Sau buổi học, học sinh có được những kiến thức về tuổi dậy thì, những dấu
hiệu khi bắt đầu dậy thì, những khó khăn gặp phải...đồng thời học sinh biết cách
xử lí những tình huống trong quan hệ với bạn khác giới. Trong buổi học, HS
mạnh dạn trao đổi những vướng mắc mình gặp phải và nhờ tôi gỡ rối giúp. Đấy
cũng là thành công mà tôi đạt được khi dạy.(Có bài giảng minh họa kèm theo).
c. GV dạy sinh học cũng là nhà tư vấn cho HS về những kiến thức và thắc
mắc liên quan tới giới tính, và sức khỏe sinh sản
- Khi dạy các bài học trong sinh học 8, giáo viên cần lồng ghép vấn đề
GDGT vào bài học và giải đáp hiện tượng thực tế có liên quan tới giới tính.

- Tác dụng: Giải đáp những thắc mắc của các em học sinh về giới cũng
như giúp các em có những biện pháp bảo vệ bản thân.
* / Ví dụ 1: Bài 61- Cơ quan sinh dục nữ
Trước khi tìm hiểu về bài này, tôi đã cho HS nữ làm một bài khảo sát kín
(không cần điền tên) về cách chăm sóc cơ thể nhất là vùng kín khi đến ngày kinh
Trang 10/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

nguyệt ( bài khảo sát ở phần phụ lục). Kết quả tôi thấy nhiều em chưa biết cách
vệ sinh sạch sẽ vùng kín, vì nội dung này khá nhạy cảm nên hầu như các em
không dám hỏi người lớn mà chủ yếu là lên mạng tìm hiểu. Vì vậy, khi dạy đến
bài cơ quan sinh dục nữ, tôi đã nhấn mạnh 1 số nội dung như:
Với nữ giới ,vùng kín là nơi thường xuyên ẩm ướt nên cần vệ sinh hằng
ngày, đặc biệt trong những ngày kinh nguyệt cần vệ sinh thường xuyên hơn.
Nên cần thay băng vệ sinh thường xuyên khoảng 4 tiếng một lần tránh viêm
nhiễm. Khi thay băng cần vệ sinh vùng kín trước khi sử dụng băng mới.
Không ăn đồ cay, đồ uống lạnh, một số chất kích thích như chè, cafe dễ bị đau
bụng, rong kinh.
Đối với bài 60- cơ quan sinh dục nam tôi cũng dạy tương tự như vậy.
Quan trọng là tạo không khí thoải mái, tránh làm cho Hs cảm thấy ngại ngùng
trước vấn đề đưa ra.
*/ Ví dụ 2: Bài 64 - Các bệnh lây truyền qua đường sinh dục ( Bệnh tình dục).
Khi dạy, tôi cho HS xem một số hình ảnh về một số bệnh lây truyền qua
đường tình dục và hậu quả của nó( hình ảnh ở phần phụ lục). Từ đó đặt câu hỏi:
? Cách phòng tránh các bệnh trên?
Hs trả lời được: Sống lành mạnh, không quan hệ tình dục bừa bãi...
Từ đó GV hướng cho HS có nhận thức đúng đắn về bệnh tình dục, không
quan hệ bừa bãi, biết sử dụng biện pháp an toàn để phòng tránh. Và nhất là phải

tự biết bảo vệ bản thân trước những lời dụ dỗ.
Có HS đã hỏi tôi “ Khi hôn có lây bệnh tình dục không”. Sau khi cho HS
trao đổi, tôi sẽ giải thích rõ cho HS. “Nếu chỉ hôn xã giao bình thường như chạm
vào má, trán thì sẽ không sao. Nhưng nếu như hôn sâu giữa các cặp đôi yêu nhau
thì vẫn bị lây truyền một số bệnh như Herpes miệng ( do virut Herpes simplex
HSV gây nên. Nếu là HSV typ 1 gây ra bệnh Herpes miệng, môi. HSV týp 2 gây
bệnh Herpes sinh dục và hậu môn), bệnh sùi mào gà, giang mai...”
*/ Ví dụ 3: Bài 41- Cấu tạo và chức năng của da
Khi dạy đến bài này, nhiều học sinh thắc mắc “ Tại sao em bị mọc mụn,
hôi nách mà bạn khác không có”, “ Tại sao da bạn trắng hồng mà da em lại đen
hơn”....Đấy đều là những câu hỏi rất thực tế. Giáo viên dựa vào kiến thức của bài
để giảng và hướng dẫn các em vệ sinh da đúng cách, như:
Da mọc nhiều mụn, mùi hôi là do các em trong lứa tuổi dậy thì, tuyến
nhờn , tuyến mồ hôi hoạt động nhiều hơn, do đó da em bị mụn, có mùi cơ thể.
Các tuyến nội tiết này mỗi người hoạt động khác nhau nên có người bị mụn,
người không bị. Để khắc phục thì em sẽ phải tắm rửa sạch sẽ hàng ngày, không
sờ tay lên mặn nặn mụn, có thể sát chanh vào nách để hạn chế mùi cơ thể...
Trang 11/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

III. Kết quả
Việc lồng ghép giáo dục giới tính trong dạy - học ở các trường học là rất
cần thiết, nhờ đó đã có sự thay đổi nhận thức về giới tính, về sức khỏe sinh sản
vị thành thành niên của học sinh một cách rõ ràng. Đồng thời học sinh có ý thức
trách nhiệm hơn trong việc giữ gìn sức khỏe của bản thân mình.
Sau khi tiến hành thực nghiệm, tôi đã cho các lớp làm lại bài khảo sát, kết
quả thấy lớp 8B các em không chỉ hào hứng hơn mỗi khi đến giờ sinh học, mà
còn có ý thức tự giác giữ gìn sức khỏe của bản thân, đồng thời còn giúp đỡ cho

các bạn của mình khi gặp khó khăn. HS có hành trang để làm chủ bản thân, hiểu
được sự phát triển của cơ thể mình giúp các em tự tin trong cuộc sống, nâng cao
hiệu quả học tập. Còn lớp đối chứng là 8C về thái độ và hành vi không thay đổi.
Thái độ của học sinh lớp thực nghiệm 8B với môn học, và sự hiểu biết
của HS với giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên được thể hiện qua
bảng số liệu và biểu đồ dưới đây.
*/ Về thái độ của HS với môn học:
Thái độ Trước khi thực hiện đề tài
Sau khi thực hiện đề tài
8B
8B
của học sinh
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
với môn học
Rất hứng thú
18
50 %
32
88,9 %
Không hứng thú
9
25 %
0
0%
Bình thường
9
25 %

4
11,1 %
Tổng
36 Hs
100%
36 Hs
100%

*/ Về sự hiểu biết của HS với giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên:
Kiến thức về Trước khi thực hiện đề tài
Sau khi thực hiện đề tài
8B
8B
giới tính và
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
sức khỏe sinh
sản
Tốt
7
40 %
32
88,9 %
Không tốt
5
24 %
0
0%

Trang 12/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

Bình thường
Tổng

14

36%

4

36Hs

100%

36 Hs

11,1 %
100%

IV. Bài học kinh nghiệm
Khi tiến hành và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn, tôi rút ra
một số bài học kinh nghiệm cho bản thân như sau:
- Tuỳ vào mục tiêu từng bài, giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức lồng
ghép khác nhau trong tiết học nhằm tránh nhàm chán cho học sinh, giúp học
sinh luôn nhận thấy mỗi bài học là một điều thú vị, là một sự mới mẻ. Đồng thời
nâng cao hiệu quả giáo dục bảo giới tính mà không mất đi những sai lệch về mục

đích, mục tiêu bài dạy.
- Giáo viên phải vận dụng sáng tạo, lựa chọn những thông tin, hình ảnh
phù hợp với nội dung từng chương, từng bài học.
- Kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, tổ chức các hoạt
động như ngoại khóa, văn nghệ, thể thao để tăng cường hoạt động trải nghiệm,
giúp học sinh rút ra những bài học cho bản thân mình, đồng thời giúp các em
tiếp cận nội dung một cách dễ dàng hơn.
- Giáo viên phải hết sức lưu ý từ ngữ chuẩn mực và phù hợp với lứa tuổi,
giới tính của trẻ. Học sinh bây giờ biết nhiều và đoán được nhiều hơn mình nghĩ.
Giáo viên đứng lớp mà thẹn thùng thì sẽ luống cuống.
*/ Với học sinh:
- Học sinh phải thích ứng với phương pháp tích cực, tự giác trong học tập.
Có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp
thông qua việc tích cực thực hành, thảo luận, suy nghĩ trong quá trình học tập.
- Luôn luôn trau dồi, không ngừng học hỏi để nâng cao hiểu biết, tìm tòi,
sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
- Trong giờ học lồng ghép giáo dục giới tính phải nghiêm túc, đồng thời
bày tỏ những suy nghĩ vướng mắc của bản thân để giáo viên kịp thời giúp đỡ.
C. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trang 13/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

GDGT muốn thành công được đòi hỏi người GV phải có tri thức vững vàng
trong lĩnh vực này ,có tâm huyết với nghề và lòng yêu mến HS. Thường xuyên học
hỏi tìm tòi phương pháp mới để dễ tiếp cận HS trong lĩnh vực nhạy cảm này, từ đó
các em biết mở lòng chia sẻ và tiếp nhận tri thức từ GV truyền đạt.
Không chỉ môn sinh học mới lồng ghép GDGT được mà các môn khác

như giáo dục công dân, hoạt động ngoài giờ lên lớp ,sinh hoạt lớp ,chuyên đề
ngoại khóa ,sinh hoạt theo chủ đề trong giờ chào cờ …Với HS độ tuổi THCS là
vô cùng cần thiết và cấp bách và cần được làm thường xuyên.
Nếu đề tài này của tôi được áp dụng rộng rãi không chỉ giúp người học có
kiến thức về giới tính, về sức khỏe sinh sản vị thành niên, mà còn kích thích sự
suy nghĩ, tính mày mò, sáng tạo của học sinh. Với mỗi nội dung đưa ra, các em
cần suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học được để bảo vệ chính mình..Đồng thời
khi áp dụng đề tài này vào trong dạy học, giờ học thêm sinh động, không nhàm
chán, tạo hứng thú cho người học, để giờ học đạt hiệu quả tốt nhất.
2. Khuyến nghị
Để nội dung lồng ghép giáo dục giới tính có hiệu quả, tôi xin có một số
khuyến nghị sau:
- Đối với giáo viên: Nghiên cứu kĩ nội dung bài học để đưa nội dung giáo
dục giới tính vào từng bài học, không quá ôm đồm. Cần quan tâm, gần gũi trò
chuyện tâm tình với học sinh, thường xuyên theo dõi trên các phương tiện thông
tin, internet để hiểu rõ hơn về những phương pháp giáo dục giới tính mới. Đồng
thời tăng cường phối hợp với gia đình các em để việc giáo dục giới tính mang lại
hiệu quả cao.
- Đối với cấp Trường: Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa,
mời các chuyên viên tâm lí về nói chuyện, trao đổi với các em đồng thời phối hợp
với hội phụ nữ của phường trong việc tuyên truyền những kiến thức giáo dục giới
tính cho cha mẹ, anh chị các em. Thư viện nhà trường cần bổ sung nhiều tài liệu
chính thống về GDGT cung cấp cho cả GV và HS làm tư liệu tham khảo.
- Đối với cấp Phòng, Sở: Tổ chức các chuyên đề về giáo dục giới tính cho
giáo viên, nội dung tích hợp vào từng môn học cụ thể. Tạo ra các trang web có
nội dung giáo dục giới tính cho học sinh, phụ huynh và giáo viên tham khảo.
Trong thời gian thực hiện đề tài tôi đã có được sự ủng hộ nhiệt tình của
các em học sinh, thể hiện qua kết quả học tập trên lớp. Từ đó cũng cho thấy
thành công trong việc lồng ghép giáo dục giới tính trong dạy học. Do thời gian
và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận

được sự góp ý của của hội đồng khoa học cấp trên để đề tài của tôi được hoàn
thiện hơn.
Trang 14/15


Một số kĩ năng dạy học lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học ở trường THCS

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Phượng Cách, ngày 20 tháng 2 năm 2020
Tác giả

Đào Thị Quyên

Trang 15/15



×