Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tiểu luận kinh tế phát triển bất bình đẳng giới ở ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.49 KB, 38 trang )

2|Nhóm 10

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Một số khái niệm
 Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xa hội và những hành vi
liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định chủ

yếu đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và nền
kinh tế.
 Vai trò giới: Là những hoạt động khác nhau mà xã hội mong muốn phụ nữ và
nam giới thực hiện. Đó là các hành vi cụ thể, các công việc cụ thể mà xã hội trông chờ
ở mỗi người với tư cách là phụ nữ hay nam giới, như vai trò sản xuất, nuôi dưỡng con
cái, vai trò sinh sản, vai trò tham gia các công việc của cộng đồng. Vai trò giới liên
quan đến những công việc nữ giới và nam giới được mong đợi phải thực hiện và cách
thức nữ giới và nam giới đối xử với nhau.
 Bình đẳng: là sự bằng nhau. Bình đẳng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa các cá
nhân hay nhóm xã hội về một hay một số phương diện xã hội nào đó. Thí dụ: sự
nganng bằng nhau về những quyền và nghĩa vụ công dân, về địa vị xã hội, về khả năng,
cơ hội, mức độ thỏa mãn những nhu cầu cụ thể nhất định trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, tinh thần,... Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác nhau về giới
tính, lứa tuổi, chủng tộc, màu da. Đó là sự khác nhau về mặt sinh học tự nhiên, chứ
không phải là sự khác nhau về mặt xã hội.
 Bình đẳng giới: là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới không có nghĩa
và không đòi hỏi số lượng phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động phải ngang
bằng nhau mà bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới trẻ em gái và trẻ em trai
phải có cơ hội ngang nhau trong việc sử dụng các quyền của họ.Và vì thế bình đẳng
giới đòi hỏi các chương trình phát triển các dịch vụ công và các dịch vụ xã hội phải
được thiết kế sao cho đáp ứng được các nhu cầu nhiều mặt phù hợp với mức độ ưu tiên



3|Nhóm 10

khác nhau của phụ nữ và nam giới. Nếu làm được việc này thì sự phát triển kinh tế xã
hội sẽ dẫn tới sự công bằng trong việc hưởng thụ các thành quả và mở ra cơ hội như
nhau cho phụ nữ và nam giới trong việc phát huy các tiềm năng của cá nhân họ.
 Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ
hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi
từ sự phát triển của gia đình, của đất nước. Nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối
xử khác biệt với nam giới và phụ nữ tạo nên các cơ hội khác nhau, sự tiếp cận các
nguồn lực khác nhau, sự thụ hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Các dạng tồn tại bất bình đẳng giới như: Gánh nặng công việc, sự phân
biệt đối xử, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, những định kiến dập khuôn và bạo lực
trên cơ sở giới tính. Mục tiêu bình đẳng giới nói chung vừa là vấn đề quyền con người
vừa là một yêu cầu cơ bản cho sự phát triển công bằng và hiệu quả. Vì vậy, việc nghiên
cứu về tình trạng bất bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc hướng
tới sự bình đẳng trong xã hội mà còn góp phàn tìm kiếm các biện pháp để nâng cao
hiệu quả và hiệu lực của tăng trưởng kinh tế xã hội.
2.

Các thước đo đánh giá bình đẳng giới.
2.1. Chỉ số phát triển giới (Gender- related Development Index = GDI)
GDI là thước đo sự chênh lệch về các thành tựu đạt được giữa hai giới nam và nữ.

Chỉ số GDI được UNDP đưa ra và xây dựng cách tính toán từ năm 1995.
GDI= 1/3 (ITT + IGD + ITN )
Trong đó: ITT là chỉ số phân bổ công bằng về tuổi thọ trung bình.
IGD là chỉ số phân bổ công bằng về giáo dục.
ITN là chỉ số phân bổ công bằng về thu nhập.
Cũng như chỉ số HDI, GDI nhận giá trị từ 0 đến 1, giá trị càng tiến tới 0 thì mức

độ chênh lệch giữa 2 giới càng lớn và ngược lại. Về cơ bản GDI vẫn dựa trên những số
liệu của HDI nhưng có tính đến sự can thiệp của yếu tố giới để qua đó đánh giá trình


4|Nhóm 10

độ phát triển giới của mỗi quốc gia. Sự khác biệt so với HDI là ở chỗ chỉ số GDI điều
chỉnh mức độ đạt được của mỗi quốc gia về tuổi thọ, học vấn và thu nhập cùng với
mức độ đạt được của nam giới và nữ giới (UNDP, 1995). Do bất bình đẳng giới có mặt
ở hầu hết các nước nên chỉ số GDI thường thấp hơn so với HDI.
Về mặt đo lường, việc đưa ra chỉ số GDI không yêu cầu sự tính toán phức tạp và
cũng không cần đo đạc thêm số liệu mà hoàn toàn dựa trên các kết quả thống kê về
HDI nhưng có sự tính toán tách biệt cho hai giới. Chính vì vậy có người đã gọi GDI là
một biến thể khác của HDI, có ý nghĩa bổ sung chứ không hề mâu thuẫn với HDI. Chỉ
số GDI giảm xuống khi mức độ đạt được của cả nam giới và nữ giới giảm xuống hoặc
khi sự chênh lệch về những gì đạt được của nam và nữ tăng lên. Sự chênh lệch về
những khả năng cơ bản giữa nam và nữ càng tăng thì chỉ số GDI càng thấp khi so sánh
với HDI.
Hiện nay, nhu cầu đối với việc tính toán chỉ số phát triển giới (GDI) ngày càng
trở nên rõ ràng. Việc sử dụng GDI trong đánh giá của các tổ chức của Liên Hợp Quốc
về mức thang phát triển của mỗi quốc gia khu vực hiện nay đã trở nên phổ biến. Mặc
dù hoàn toàn dựa trên cách tính tính toán của HDI nhưng trong một số trường hợp GDI
đã thay thế HDI trong các đánh giá phát triển liên quan tới yếu tố giới.
2.2. Chỉ số vai trò giới (Gender Empowerment Measure = GEM)
GEM được dùng để đo lường sự đóng góp của phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực
hoạt động chính trị và kinh tế. Để tính toán chỉ số vai trò giới cần có 3 nhóm chỉ tiêu
sau:
 Các chỉ tiêu phản ánh sự tham gia hoạt động kinh tế và quyền thông qua các
quyết định quản lý trong lĩnh vực kinh tế.


Tỷ lệ % phụ nữ và nam giới giữ các chức vụ hành chính và cán bộ quản.


Tỷ lệ % phụ nữ và nam giới chia theo nghề nghiệp và trình độ kỹ thuật.

 Chỉ tiêu phản ánh sự tham gia hoạt động chính trị và hoạt động chính sách
được thể hiện qua tỷ lệ phụ nữ và nam giới trong quốc hội.


5|Nhóm 10

 Các chỉ tiêu về dân số và lao động

Tỷ lệ % dân số nam và nữ.


Tỷ lệ nam - nữ hoạt động kinh tế.

Chỉ số đo lường mức độ trao quyền về giới xem xét phụ nữ và nam giới có thể
tham gia tích cực như thế nào vào đời sống kinh tế chính trị và quá trình ra quyết định.
Nếu chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI) tập trung vào việc mở rộng khả năng thì
chỉ số đo lường mức độ trao quyền về giới (GEM) quan tâm tới việc sử dụng những
khả năng đó để đem lại lợi ích về các cơ hội của họ trong đời sống xã hội. GEM cố
gắng đánh giá xem phụ nữ được trao quyền hay được giải phóng như thế nào để tham
gia vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống chung trong mối tương quan với nam
giới. Nhưng do sự hạn chế về số liệu nên tiếc rằng chỉ số này không đo lường được sự
trao quyền ở một số lĩnh vực khác, ví dụ như trong đời sống hộ gia đình, cộng đồng và
ở các khu vực nông thôn.
Các nghiên cứu của UNDP về GDI và GEM của các nước đã chỉ ra rằng:
- Sự bình đẳng về giới cao hơn trong phát triển con người không phụ thuộc vào

mức thu nhập hoặc giai đoạn phát triển.
- Thu nhập cao không phải là điểu kiện tiên quyết để tạo ra các cơ hội cho phụ
nữ.
- Trong những thập niên qua, tuy đã có những tiến bộ vượt bậc về sự bình đẳng
giới nhưng sự phân biệt giới vẫn phổ biến trong mọi mặt của cuộc sống và ở các nước
trên thế giới.
Vì vậy, bình đẳng giới được coi là vấn đề trung tâm của phát triển, là mục tiêu
của phát triển, đồng thời cũng là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của
quốc gia và xóa đói giảm nghèo.


6|Nhóm 10

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA BẤT BÌNH
ĐẲNG GIỚI Ở ẤN ĐỘ
1. Giới thiệu về Ấn Độ
1.1. Đặc điểm kinh tế
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 7 thế giới xét theo GDP danh nghĩa (năm 2016) và lớn
thứ 3 thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP). Nền kinh tế Ấn Độ khá đa dạng
các ngành và lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, dệt, chế tạo, dịch
vụ. Dù 2/3 lực lượng lao động Ấn Độ vẫn trực tiếp hay gián tiếp sống bằng nghề nông
nhưng dịch vụ là một lĩnh vực đang tăng trưởng và hiện đang đóng góp vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ. Kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm
1991, thay vì đi theo mô hình cổ điển ở châu Á là tập trung lao động phục vụ xuất
khẩu, sản xuất hàng hóa gia công rẻ mạt cho phương Tây, nước này đã hướng đến thị
trường nội địa hơn là thị trường xuất khẩu, đến tiêu thụ nội địa hơn là thu hút đầu tư
nước ngoài, đến dịch vụ hơn là công nghiệp, đến kỹ thuật cao hơn là gia công với tay
nghề thấp.
Cơ cấu kinh tế của Ấn Độ tương tự một số nước phát triển. Nếu như năm 1980, tỷ
trọng của các ngành dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong GDP lần lượt là: 36,6%,

24,5% và 38,9% thì tới năm 2014, các tỷ trọng tương ứng là: 51%, 32% và 17%.
( nguồn Vietstock.vn)
Bảng 1. Tỷ trọng các ngành dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp Ấn Độ năm 1908 và 2014

Ngành
Năm

Dịch vụ

Công nghiệp

Nông nghiệp

1980

36,6% GDP

24,5% GDP

38,9% GDP

2014

51% GDP

32% GDP

17% GDP



7|Nhóm 10

Mô hình tăng trưởng trên đây đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ
trong thời gian qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 7% trong suốt hai
thập kỷ. GDP của Ấn Độ năm 2014 đã đạt trên 2.000 tỷ (nếu tính theo cân bằng sức
mua là 8.000 tỷ USD).
Tuy nhiên, đất nước đông dân thứ hai thế giới đang đứng trước một số thách
thức. Nền kinh tế không thể tăng tốc bứt phá, thậm chí có biểu hiện chậm lại do không
khai thác được các thế mạnh của mình. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ chỉ
đạt 6,6% và năm 2013 chỉ còn 5,1%.
Các nhà lãnh đạo mới của Ấn Độ bắt đầu nhận thấy cần phải chú trọng phát
triển ngành gia công chế tạo. Từ khi lên cầm quyền tháng 4/2015, Thủ tướng Ấn Độ
Narendra Modi đã phát động nhiều chiến dịch như “Made in India” (Sản xuất tại Ấn
Độ), “Skill India” (Kỹ năng Ấn Độ), “Digital India” (Số hóa Ấn Độ)… nhằm thu hút
đầu tư nước ngoài vào ngành chế tạo, và khai thác nguồn nhân lực dồi dào trong nước.
Chính phủ đề ra mục tiêu tăng hơn nữa tỷ trọng của ngành chế tạo và tạo ra 100 triệu
việc làm mới vào năm 2022.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tăng trưởng GDP của Ấn Độ năm tài
khóa 2015 - 2016 sẽ ở mức 7,4%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) vừa mới hạ
thấp dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới xuống còn 3% trong năm 2015, nhưng vẫn dự
báo kinh tế Ấn Độ tăng trưởng ở mức 7,2% với nhận định quốc gia này “sẽ là nền kinh
tế lớn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong vòng hai năm tới”.
1.2. Đặc điểm văn hóa xã hội
 Văn hoá: Ấn Độ là một đất nước có nền văn hoá lâu đời. Lịch sử văn hóa Ấn
Độ kéo dài hơn 4.500 năm. Trong thời kỳ Vệ Đà (1700 – 500 TCN), các nền tảng của
triết học, thần thoại, văn học Ấn Độ giáo được hình thành. Ngoài ra còn có sự hình
thành của nhiều đức tin và chúng vẫn tồn tại cho đến ngày nay, ví dụ như Dharma,
Karma, Yoga và Moksha. Ấn Độ có sự đa dạng về mặt tôn giáo, trong đó có Ấn Độ
giáo, Sikh giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, và Jaina giáo. Ấn Độ giáo là tôn giáo chiếm ưu



8|Nhóm 10

thế, được định hình thông qua nhiều trường phái mang tính lịch sử về tư tưởng. Ấn Độ
còn là miền đất của hội chợ và những lễ hội truyền thống, ít nhất ngày nào trong năm
cũng đều có hội chợ. Hội chợ và lễ hội đã làm phong phú thêm cho sắc màu đời sống
xã hội của người dân Ấn Độ. Một số hội chợ và lễ hội quan trọng: Hội chợ Pushkar ở
Rajasthan, Hội chợ hàng thủ công Mela ở Surajkund, v.v.
 Xã hội: Xã hội truyền thống Ấn
Độ được xác định theo đẳng cấp xã
hội, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ là
hiện thân của nhiều xếp tầng xã hội.
Xã hội Ấn được chia thành 4 giai cấp:
giai cấp cao nhất là “Brahmins” gồm
các tư tế, người trí thức, các nhà chú
truyền đạo; giai cấp thứ hai là
“Kshatriyas” gồm các nhà lãnh đạo
quân sự, các chiến sĩ tức giới thượng
lưu quân sự; giai cấp thứ ba là
Hình 1: Các tầng lớp xã hội Ấn Độ

“Vaishyas” gồm các thương gia, các
nông dân và các người chăn nuôi súc

vật; giai cấp thứ tư là “Kshudras” gồm những người làm thủ công nghệ, đầy tớ và công
nhân thợ thuyền. Thấp nhất trong bậc thang xã hội là các người “ngoài giai cấp”
thường được gọi là những người “paria” hay “không thể đụng tới”, vì các công việc ô
uế và hèn hạ họ làm như thu dọn vệ sinh, chùi rửa cầu tiêu và chôn người chết, hay
những người đã vi phạm các luật lệ và mất các quyền xã hội và tôn giáo như thành
phần của các giai cấp khác. Ngày nay những người “paria” này thích tự định nghĩa họ

là “dalit” – “những người bị áp bức”.


9|Nhóm 10

Tuy trên lý thuyết việc phân chia giai cấp đã chính thức được hủy bỏ, nhưng
trên thực tế, trong tiềm thức và cung cách hành xử của người dân Ấn, việc phân chia và
kỳ thị giai cấp vẫn tiếp tục hiện diện và đè nặng trên cuộc sống của các giai cấp thấp
kém hơn.
Phân biệt giới tính vẫn còn là một vấn nạn ở Ấn Độ. Theo truyền thống Ấn Độ,
nữ giới thường bị coi là thấp kém hơn nam giới. Với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông
nghiệp, đàn ông thường được cho là người lao động tốt hơn.
Tại Ấn Độ, những phụ nữ đã lập gia đình phải đối mặt với sức ép cực kỳ to lớn
là sinh con trai để nối dõi tông đường, làm trụ cột trong gia đình cũng như chăm sóc
cha mẹ già. Người con trai là một tài sản quý của gia đình. Trong hôn nhân, ngoài số
của hồi môn mà nhà cô dâu mang tới, con trai là chủ gia đình và duy trì danh tiếng của
dòng họ. Con trai cũng được thừa kế gia sản và được coi là người phụng dưỡng cha mẹ
khi về già. Quan niệm trọng nam khinh nữ, trao đặc quyền nối dõi huyết thống và kế
thừa gia sản cho con trai vẫn ăn sâu bám rễ trong xã hội Ấn Độ.
2. Thực trạng bất bình đẳng giới trong các mặt xã hội
Bất bình đẳng giới ở Ấn Độ hiện nay đang là một trong những vấn đề đáng báo
động nhất. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, Ấn Độ đứng thứ 114 trên tổng
số 142 quốc gia trên thế giới về bất bình đẳng giới. Năm 2014, theo Báo cáo Phát triển
con người của UNDP, Ấn Độ có chỉ số phát triển giới GDI thuộc nhóm nước có sự
chênh lệch về phát triển giữa hai giới cao nhất, với giá trị 0,795, rất thấp so với giá trị
GDI trung bình ở nhóm nước đang phát triển (0,899) và trung bình thế giới (0,924).
Điều này chứng tỏ có sự khác biệt khá lớn trong trình độ phát triển ở 2 giới tại Ấn Độ,
cụ thể chỉ số HDI tính cho nữ giới là 0,525 thấp hơn so với nam giới là 0,66. Trong đó,
chênh lệch về tuổi thọ trung bình và số năm đi học ước tính giữa nam và nữ là không
đáng kể, tuy nhiên sự chênh lệch về số năm đi học trung bình và thu nhập bình quân là

rất lớn. Cụ thể, năm 2014, số năm học trung bình ở nữ giới chỉ là 3,6 năm, bằng ½ so
với nam giới là 7,2 năm, khoảng cách về thu nhập trung bình giữa 2 giới tại Ấn Độ còn
lớn hơn với 2.116 USD/năm ở nữ giới và 8,656 USD ở nam giới.


10 | N h ó m 1 0

Bảng 2: Chỉ số GDI của Ấn Độ, các nước đang phát triển và trên thế giới năm 2014
India

Developing
countries

World

0.795

0.899

0.924

Female

0.525

0.617

0.670

Male


0.660

0.686

0.725

Life expectancy at birth
(years)

Female
Male

69.5
66.6

71.7
68.0

73.7
69.5

Expected years of schooling
(years)

Female
Male

11.3
11.8


11.6
11.9

12.2
12.4

Mean years of schooling
(years)
Estimated gross national
income per capita
(2011 PPP $)

Female
Male
Female

3.6
7.2
2,116

5.4
7.3
5,926

6.2
7.9
10,296

Male


8,656

12,178

18,373

GDI
HDI

Nguồn: UNDP
Về chỉ số vai trò giới, năm 2006 chỉ số GEM của Ấn Độ là 0,497. Chỉ số phân
bổ đồng đều về đại biểu quốc hội là 0,625, về tham gia kinh tế là 0,546 và về nắm giữ
các nguồn lực kinh tế là 0,319. Như vậy, mức độ trao quyền cho phụ nữ trong đời sống
chính trị, kinh tế và xã hội còn khá thấp, phụ nữ vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi.
Bảng 3: Chỉ số GEM của Ấn Độ năm 1996 và 2006

Nguồn: Báo cáo Phát triển con người năm 2009, UNDP
Những con số này chứng minh rằng vấn đề bất bình đẳng giới ở Ấn Độ không
chỉ diễn ra trên một khía cạnh mà toàn bộ các phương diện của xã hội, đặc biệt trong
giáo dục, lao động và chính trị.


11 | N h ó m 1 0

2.1. Bất bình đẳng trong giáo dục
Giảm thiểu tối đa khoảng cách giới tính trong giáo dục là một trong những nhân
tố mang tính chất quyết định trên con đường đạt đến bình đẳng giới, nhằm nâng cao vị
thế và quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ. Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề này, xóa bỏ bất bình đẳng trong giáo dục là một trong tám mục tiêu phát

triển thiên niên kỉ do UNDP đưa ra.
Mặc dù chính phủ Ấn Độ đã thể hiện sự quyết tâm trong việc giải quyết vấn đề
bất bình đẳng giới tính trong giáo dục, khoảng cách giới tính trong trường học vẫn
chưa được cải thiện một cách rõ rệt, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Hiện nay, Ấn Độ là
một trong những nước châu Á có tỉ lệ biết chữ thấp nhất, chỉ 2/3 trẻ em gái và 3/4 trẻ
em trai từ 6-17 tuổi được đến trường. Sự phân biệt giới tính trong giáo dục ở Ấn Độ có
sự khác nhau theo vùng miền, độ tuổi và kinh tế của gia đình.
Bảng 4: Tỉ lệ biết chữ giữa nam và nữ trên 7 tuổi ở Ấn Độ từ 1981-2015
Đơn vị: %
Census year

Males

Females

1981

56.4

29.8

1991

64.1

39.3

2001

75.3


53.7

2011

80.9

64.6

2015

83.8

67.1

Nguồn: Census of India
Tỉ lệ biết chữ là một chỉ số cơ bản phản ánh mức độ giáo dục của một quốc gia.
Theo số liệu trên, khoảng cách tỉ lệ biết chữ ở nam và nữ trên 7 tuổi ở Ấn Độ ngày
càng giảm dần. Năm 1981 tỉ lệ đàn ông biết chữ gần gấp đôi phụ nữ (nam: 56.4%, nữ:
29.8%) thì đến năm 2015 khoảng cách này chỉ còn 16.7%. Tuy nhiên khoảng cách này
vẫn cao so với nức trung bình trên thế giới những giai đoạn gần đây vào khoảng 10%
(theo World Economic Forum).


12 | N h ó m 1 0

Theo một nghiên cứu về giáo dục được thực hiện bởi Văn phòng điều tra Quốc
gia Ấn Độ vào thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2014, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi
trên 7 tuổi cả nước là 75%. Tại các khu vực nông thôn, đó là 71% so với 86% ở khu
vực thành thị.

Biểu đồ 1: Biểu đồ tỷ lệ nhập học giữa nam và nữ ở Ấn Độ (% ) năm 2011

Tỉ lệ đăng kí học cấp 2 và cấp 3 của bé trai luôn cao hơn tỉ lệ nhập học của bé
gái, dao động từ 6% đến 10% bất kể ở tầng lớp/bộ lạc thuộc chính sách hay không
thuộc chính sách. Năm 2011, ở tầng lớp thuộc chính sách có 54.52% bé trai đăng kí
học trong khi chỉ 48.86% bé gái. Ở tầng lớp không thuộc chính sách, chênh lệch tỉ lệ
này của nam và nữ ít hơn (chỉ 6.32%). Xét trung bình cả 2 loại tầng lớp/ bộ lạc thì tỉ lệ
đăng kí học cấp 2 và cấp 3 của bé trai và bé gái lần lượt là 52.39% và 45.86%.
Chênh lệch trình độ giáo dục giữa nam và nữ của Ấn Độ còn có thể dễ dàng nhận
ra qua thống kê học vị. Theo , với trình độ tốt nghiệp THPT
thì tại các khu vực nông thôn, năm 2015 gần 4.5% nam giới và 2.2% nữ giới hoàn
thành trình độ học vấn tốt nghiệp, trong khi ở các khu đô thị 17% nam giới và 13% nữ
giới hoàn thành cấp học này. Ở những trình độ càng cao, khoảng cách này càng rõ rệt.
Đặc biệt ở trình độ hậu tiến sĩ (Post Doctoral) thì tỉ lệ số nam hơn số nữ đạt học vị này
lên tới 180.6%.


13 | N h ó m 1 0

2.2. Bất bình đẳng trong lực lượng lao động
Bên cạnh giáo dục, việc làm cũng là một trong những nhân tố mang lại quyền
lợi và tiếng nói cho phụ nữ ở Ấn Độ. Có một công việc ổn định sẽ giúp người phụ nữ
Ấn Độ có được sự tự chủ về kinh tế, vị thế trong xã hội. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay
chỉ ra rằng phụ nữ Ấn Độ đang phải đối mặt với sự bất bình đẳng trong lực lượng lao
động trên nhiều phương diện.
Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ Ấn Độ rất thấp. Phụ nữ
chiếm gần 1/2 dân số Ấn Độ, nhưng chỉ 1/3 trong số đó tham gia vào lực lượng lao
động và chỉ đóng góp 17% vào tổng sản phẩm quốc nội (theo Báo cáo nghiên cứu
MGI), thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đóng góp trung bình vào GDP của phụ nữ trên thế
giới là 37%. Theo số liệu từ World Bank, tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động ở nữ

giới Ấn Độ rất thấp so với nam giới, năm 2014, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở nữ
giới là 27%, trong khi nam giới là 79.9%. Xét theo khu vực thành thị và nông thôn,
trong tổng số nữ giới đang trong độ tuổi lao động, chỉ có 21% nữ giới tham gia vào lực
lượng lao động ở khu vực thành thị và 36% ở nông thôn, nếu so với 76% ở thành thị và
81% ở nông thôn của nam giới, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở nữ giới chỉ chiếm
1/3. Ngoài ra, tỷ lệ tham gia lao động ở nữ giới của đất nước này đang có xu hướng
giảm, từ 36.9% năm 2005 xuống còn 27% năm 2014.
Bảng 5: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở nữ giới và nam giới từ 2000 – 2014
100,00

82,80

83,00

83,20

82,80

81,80

33,90

35,10

36,30

35,10

31,80


80,80

79,90

79,90

28,60

26,90

27,00

80,00
60,00
40,00
20,00
0,00

2000

2002

2004

2006

2008

2010


2012

2014

Labor force participation rate, female (% of female population ages 15+)
Labor force participation rate, male (% of male population ages 15+)

Nguồn: World Bank


14 | N h ó m 1 0

Xét theo cơ cấu ngành, lao động nữ ở Ấn Độ thường làm việc ở những ngành có
năng suất thấp và không có trợ cấp xã hội. 75% lao động nữ làm việc ở khu vực nông
nghiệp, chủ yếu thuộc khu vực năng suất hạn chế và trả lương thấp. Chỉ có một lượng
nhỏ phụ nữ được làm việc trong khu vực kinh tế hiện đại, được trả lương cao và được
hưởng các khoản trợ cấp lao động như lương hưu, nghỉ thai sản. Chỉ 0,08% phụ nữ Ấn
Độ làm việc ở những ngành nghề yêu cầu kĩ thuật, với năng suất lao động tối đa và
mức lương cao, đối với nam giới thì tỉ lệ này cao gấp 4 lần. Ở những ngành nghề liên
quan đến vận tải thông tin và cũng là khu vực được trả lương cao, chỉ có 0,43% lực
lượng lao động nữ được làm việc trong khu vực này, trong khi đó với nam giới là hơn
6%. Những công việc cộng đồng ở Ấn Độ đảm bảo được mức lương ổn định và đem
lại công ích cho xã hội, tuy nhiên cũng chỉ 16% việc làm trong khu vực này là thuộc về
nữ giới. Chỉ có 11% nữ giới so với 19% nam giới có những công việc thông thường.
Hầu hết phụ nữ đều làm các công việc trong khu vực không chính thức.
Cơ hội tìm kiếm việc làm của phụ nữ Ấn Độ cũng khá thấp so với nam giới. Tỉ
lệ thất nghiệp của cả nam giới và nữ giới ở vùng nông thôn là 2%, tuy nhiên ở vùng
thành phố, tỉ lệ này có sự chênh lệch lớn, tương ứng là 7% nữ giới so với 4% đối với
nam giới. Những nghiên cứu về tình trạng lao động ở Ấn Độ chỉ ra rằng, phụ nữ Ấn Độ
thường bị bó buộc nhiều bởi hôn nhân, chăm sóc gia đình và con cái nên tỉ lệ phụ nữ có

việc làm ở đất nước này bị hạn chế rất nhiều. Khảo sát cho thấy, phụ nữ độc thân, ly
hôn hoặc góa phụ sẽ có cơ hội nhiều hơn để tham gia vào lực lượng lao động. Còn với
đàn ông, không có nhiều sự khác biệt về khả năng có việc làm. Ở vùng nông thôn, đa
số việc làm đều liên quan đến nông nghiệp, những công việc không đòi hỏi trình độ
học vấn hay kĩ thuật cao, cho nên người phụ nữ có nhiều cơ hội có việc làm hơn.
Ngược lại, ở vùng thành thị, do định kiến xã hội và sự bất bình đẳng, người phụ nữ
luôn bị đánh giá thấp và không được ưu tiên tham gia vào lực lượng lao động tại các
ngành nghề yêu cầu trình độ cao. Theo NHFS-3 tỉ lệ phụ nữ có việc làm tại bất cứ thời
điểm nào trong vòng 12 tháng biến động từ 23% ở Delhi, 25% ở Punjab, 28% ở


15 | N h ó m 1 0

Haryana cho đến 64% tại Manipur, 69% tại Chhattisgarh, và cao nhất là 73% tại
Arunachal Pradesh.
Vai trò của phụ nữ tại nơi làm việc cũng không được đề cao, phụ nữ ít được
tham gia vào những vị trí quản lý cấp cao và có quyền ra quyết định: chỉ có 7.7% cổ
phần công ty được nắm giữ bởi nữ giới, 54% tổng số công ty không có phụ nữ nằm
trong hội đồng quản trị. Số lượng nữ giới ở vị trí từ cấp quản lý trở lên thấp hơn 1/3 số
lượng nam giới.
Biểu đồ 2. Chênh lệch trong vai trò quản lý của nữ giới so với nam giới Ấn Độ

Nguồn: />Không chỉ thế, bất bình đẳng giới còn thể hiện rõ nét ở chênh lệch thu nhập
giữa nam giới và nữ giới của đất nước này. Bất bình đẳng trong thu nhập giữa nam
giới và nữ giới đã kéo dài trong nhiều năm và đang có xu hướng giảm dần, tuy nhiên,
mức độ chênh lệch tiền công giữa lao động nam và lao động nữ vẫn đang rất lớn, thu
nhập trung bình của lao động nữ thấp hơn 24.81% so với nam giới, năm 2013. Với
cùng công việc như nhau, mức lương trung bình mà lao động nữ được trả là 207.85
Rupees một giờ, trong khi với nam giới là 288.68 Rupees. Theo một báo cáo của World
Economics Forum, trong khu vực doanh nghiệp ở Ấn Độ, phụ nữ chỉ được trả công

bằng 1/3 so với nam giới ở cùng 1 vị trí công việc. Bên cạnh đó, khoảng cách thu nhập
giữa lao động nam và nữ tăng lên theo sự gia tăng của trình độ học vấn. Với những lao
động nam và nữ chỉ hoàn thành giáo dục ở bậc trung học, lao động nữ có mức lương
thấp hơn 10.34% so với nam giới, con số này tăng lên khoảng 30% đối với lao động
hoàn thành bậc đại học, và 46% với những lao động có trình độ trên đại học.


16 | N h ó m 1 0

Biểu đồ 3: Bất bình đẳng trong thu nhập ở
Ấn Độ (2007 - 2013)

Phụ nữ ở Ấn Độ không chỉ chịu thiệt
thòi ở những công việc có thu nhập thấp, mà
còn cả ở những công việc không có thu nhập.
Phụ nữ Ấn Độ tham gia các công việc không
được trả lương gấp 10 lần nam giới, trong đó
¾ công việc không có thu nhập là việc nhà
(như nấu ăn, dọn dẹp) và chăm sóc (như
chăm sóc trẻ em, người ốm và người già) tại
gia đình. Thời gian dành cho các công việc
này của phụ nữ gấp 3 lần so với đàn ông. Dù
đóng vai trò quan trọng đối với phát triển con người nhưng công việc chăm sóc thường
không được thừa nhận. Một phần là bởi công việc này không có thu nhập nên không
được phản ánh trong các chỉ số kinh tế như GDP. Nếu các công việc này được định giá
như các công việc khác, nó có thể đóng góp 39% GDP ở Ấn Độ (theo Báo cáo phát
triển con người năm 2015). Do phải đảm nhiệm phần lớn công việc chăm sóc, phụ nữ
có ít thời gian tham gia các hoạt động khác hơn nam giới, trong đó bao gồm việc làm
có thu nhập và giáo dục. Khi phụ nữ không còn sự lựa chọn nào khác và phải ưu tiên
đảm nhận công việc chăm sóc không có thu nhập và đứng ngoài lực lượng lao động, họ

phải hy sinh rất nhiều, có thể là cả cơ hội để nâng cao năng lực của mình trong công
việc. Họ cũng mất đi cơ hội độc lập về kinh tế.
2.3. Bất bình đẳng giới trong vị thế chính trị
Có thể nói, vấn đề bất bình đẳng giới ở Ấn Độ xảy ra trên mọi phương diện của
quốc gia này, trở thành nỗi bức bối khiến cả thế giới phải quan tâm. Một trong những
phương diện bất bình đẳng khiến phụ nữ không được hưởng những đặc quyền chính
đáng, không có tiếng nói với xã hội, đó là bất bình đẳng trong chính trị.


Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân
tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành,


17 | N h ó m 1 0

giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Khi nói phụ nữ ở Ấn Độ có sự bất bình đẳng trong
vấn đề chính trị, nghĩa là phụ nữ ở đây, không có phận sự, hay ít được tham gia nắm
quyền, quyết định những vấn đề hệ trọng của nhà nước Ấn Độ. Ở đây, phụ nữ không
được trao quyền, quyền lực, sự tự chủ của họ hầu như bằng không, bị coi thường, dễ bị
các thế lực xấu chèn ép.
Thực chất, qua nhiều thập kỉ, khoảng cách giữa đàn ông và phụ nữ cũng dần
được thu hẹp, cụ thể, từ 16,7% năm 1962 xuống còn 4,4% năm 2009. Cũng từ đó,
phong trào phụ nữ đi bầu cử Nhà nước dần phát triển, đặc biệt, trong năm 2012 ghi
nhận số phần trăm trên tổng số nữ giới đi bầu nhiều hơn nam giới. Trong năm 2014, ủy
ban bầu cử Ấn Độ (ECI) đã tích cực tìm cách tăng lượng cử tri, thông qua việc kiểm
soát quản lí thông tin chặt chẽ, lượng cử tri tăng đáng kể do có sự tham gia của phụ nữ,
được tổ chức khuyến khích qua giao dục và vận động tại khuôn viên cao đẳng và đại
học. Phụ nữ cử tri đi bầu cử trong tổng số phụ nữ vào năm 2014 trong cuộc tổng tuyển
cử Quốc hội của Ấn Độ là 65,63% so với 67,09% cử tri là nam giới, 16 trong số 29
bang của Ấn Độ, nhiều phụ nữ bình chọn nhiều hơn nam giới. Tổng cộng 260.600.000

phụ nữ thực hiện quyền bỏ phiếu trong tháng 4 năm 2014 tại cuộc bầu cử Quốc hội của
Ấn Độ.
Tuy số lượng phụ nữ đi bầu cử (trên tổng số phụ nữ tại Ấn Độ) đã có chuyển
biến tốt đẹp, thế nhưng, chất lượng của nó thì vẫn chưa được đảm bảo. Nghiên cứu cho
thấy, đa số phụ nữ đi bỏ phiếu sống ở vùng nông thôn và là người nghèo, các thông tin
cũng chủ yếu được tiếp cận khoanh vùng ở khu đô thị phát triển. Nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng, phụ nữ Ấn Độ khá bàng quan về vấn đề chính trị, lá phiều bầu của họ là nhờ sự
hướng dẫn từ những người đàn ông thân cận (người yêu, chồng, cha…), tiêu cực hơn,
lá phiếu ấy có thể bị mua bởi các đối thủ cạnh tranh chính trị. Chính vì thế, khoảng
cách bầu cử giữa nam nữ này trở nên mất giá trị, việc tham gia biểu quyết không thể là
con số đáng tin cậy đo lường nhận thức chính trị của phụ nữ Ấn Độ.


18 | N h ó m 1 0

Về vấn đề ứng cử trong hội đồng chính phủ và các đảng phái tại Ấn Độ, hoạt
động của phụ nữ cũng không hề khả quan. Từ năm 1992, hiến pháp Ấn Độ số 73 được
thông qua, theo đó, tối thiểu 1/3 số ghế trong Quốc hội (33%), được giữ cho phụ nữ.
Tuy nhiên, số liệu năm 2014 cho thấy, sự tham gia của nữ giới vào cơ quan Chính phủ
và các đảng phái chỉ 5-10%. Ngay cả ở Kerala (1 vùng ở Ấn Độ) với số lượng nữ giới
cao nhất (1.079 người) so với nam giới (1000 người), tỷ lệ khảo sát vẫn cho thấy số
lượng thấp đáng kinh ngạc của phụ nữ trong chính trị. Năm 2014, Kerala chỉ góp tất cả
2 ứng cử viên nữ tại Lok Sabha (Hạ viện của Quốc hội liên bang), một con số rất “ấn
tượng”. Phụ nữ Ấn Độ cũng đã đưa ra những sáng kiến để hình thành các đảng chính
trị riêng của họ, và năm 2007, các đảng Mặt trận liên hiệp Phụ nữ (United Women
Front Party) được tạo ra, tích cực vận động để tăng số ghế cho phụ nữ trong Quốc Hội.
Tuy nhiên, trong vô số đảng phái tại Ấn Độ, phụ nữ chỉ chi phối bốn đảng. Vào năm
2013, báo cáo cho thấy các thành viên của quốc hội gồm 11% là phụ nữ trong Hạ viện
Lok Sabha và 10,6% trong Thượng viện Rajya Sabha. Không chỉ số lượng ít mà quan
sát cũng cho thấy, việc phụ nữ đứng đầu trong chính trị hay việc tham gia góp ý kiến

quyết định vào vấn đề chính trị không hề được coi trọng. Thậm chí nếu họ có cơ hội để
chứng minh giá trị của họ, họ cũng chỉ được trao trách nhiệm xử lý, giải quyết các vấn
đề liên quan đến phụ nữ trong xã hội như hiếp dâm, của hồi môn, tảo hôn, các vấn đề
bạo hành… nhưng không bao giờ đụng vào các vấn đề kinh tế, chính trị, như lạm phát,
ổn định nền kinh tế vĩ mô, đưa ra chính sách…
Biểu đồ 4: Tỷ lệ phụ nữ trong hạ viện Lok Sabha, Ấn Độ (1952-2014)


19 | N h ó m 1 0

Từ những năm 1990 trở về đây, phụ nữ Ấn Độ nói riêng và chính phủ Ấn Độ
nói chung, cũng có nhiều nỗ lực làm gia tăng sự tham gia của phụ nữ vào chính trị. Tuy
nhiên, hoạt động bầu cử chỉ dừng lại ở số lượng, còn chất lượng thực sự vẫn cần được
xem xét. Bên cạnh đó, vấn đề nắm quyền trong quốc hội, tuy đã được chính phủ “đảm
bảo” nhưng sự tham gia quyền lực của phụ nữ trong bộ máy chính trị và các đảng phái
nhìn chung rất ít, phải nói là hầu như không đáng kể. Thiết nghĩ rằng, chính trị là con
đường tiếp bước cho tư tưởng bình đẳng giới tại Ấn Độ, bởi lẽ, nếu phụ nữ có khả năng
nắm quyền (một cách thực sự) và có cơ hội thể hiện tài năng, giá trị của mình, họ sẽ
được công nhận, được trao quyền, từ đó thực hiện những lý tưởng của mình, bằng cách
đưa ra chính sách, điều lệ, chiến dịch…thay đổi xã hội, và bằng cách nào đó sự bất
bình đẳng sẽ được xóa bỏ. Thế nhưng nếu như vị thế chính trị của phụ nữ chỉ dừng lại
ở mức độ “cho có” như hiện tại, giải quyết bình đẳng giới sẽ sớm đi vào ngõ cụt, và
những vấn đề bức xúc về phụ nữ trong xã hội Ấn Độ sẽ vẫn tiếp diễn.
3. Nguyên nhân bất bình đẳng giới ở Ấn Độ
3.1. Nguyên nhân văn hóa, tín ngưỡng
Nguyên nhân gốc rễ của sự bất bình đẳng giới trong xã hội Ấn Độ nằm ở việc
người phụ nữ luôn bị gò bó bởi các phong tục, tập quán, tin ngưỡng cổ hủ đã tồn tại từ
lâu đời ở đất nước này.
Chế độ phụ hệ và tư tưởng gia trưởng lâu đời đã “giam cầm” phụ nữ trong
không gian gia đình, không cho phép họ ra ngoài xã hội, bắt buộc họ phải sống lệ thuộc

vào kinh tế, quyền hành của đàn ông. Các giá trị gia đình có vị trí quan trọng trong
văn hóa Ấn Độ, và các gia đình chung sống gia trưởng đa thế hệ là quy tắc tiêu
chuẩn tại Ấn Độ. Ở một số khu vực thành thị các gia đình hạt nhân cũng trở nên phổ
biến tại nhưng đa số phụ nữ Ấn Độ vẫn kết hôn theo sự sắp xếp của cha mẹ hay các
thành viên khác trong gia đình. Hôn nhân được cho là gắn liền với sinh mệnh, và tỷ lệ
ly hôn rất thấp. Theo các nhà xã hội học nổi tiếng Sylvia Walby, chế độ gia trưởng là
"một hệ thống cấu trúc và thực hành, trong đó nam giới chiếm ưu thế, đàn áp và khai


20 | N h ó m 1 0

thác phụ nữ xã hội". Người đàn ông trong xã hội Ấn Độ được coi là người chu cấp kinh
tế chính, nuôi sống, có quyền hạn cao nhất trong gia đình trong khi người phụ nữ chỉ
được xem xét có vai trò phụ trợ trong gia đình. Cả nam giới và phụ nữ Ấn Độ từ nhỏ
đều được định hướng tương lai theo những con đường khác nhau, ở đó vai trò họ khác
nhau, quyền lợi, vị thế xã hội cũng khác nhau và người phụ nữ luôn là người bị thiệt
thòi.
Phong tục tập quán còn nhiều hủ tục tàn nhẫn với phụ nữ đã ăn sâu vào nhận
thức con người Ấn Độ. Những hủ tục lạc hậu, độc đoán trong cách đối xử với người
phụ nữ đã ăn sâu bám rễ dưới lớp vỏ truyền thống. Cái truyền thống ấy từ hàng thế kỷ
nay đã trở thành mối nguy chết người cho những phụ nữ nào dám vứt bỏ hoặc không
đáp ứng được. Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất là tập tục cưới xin ở Ấn Độ, thể
hiện rõ sự thiệt thòi về phần người phụ nữ. Đàn ông Ấn Độ hiện vẫn được lấy nhiều
vợ, đồng thời có quyền bỏ họ bất cứ lúc nào. Mỗi lần cưới vợ, những người đàn ông
này lại kiếm thêm một món tài sản lớn. Chưa hết, Ấn Độ còn khiến cả thế giới khiếp sợ
với 3 hủ tục nổi tiếng với cô dâu.
Thứ nhất là làm đám cưới giả để trừ tà. Người Ấn Độ rất tin vào chuyện bói toán.
Trước khi về nhà chồng, người phụ nữ sẽ phải cung cấp ngày tháng năm sinh để xem
có số “mangal dosh” (số sát phu) hay không. Để giải hạn, họ sẽ phải làm đám cưới với
một cái cây hoặc một con vật nào đó như dê hoặc chó. Hủ tục này rất phổ biến ở Ấn

Độ, đến mức ngay cả Đệ nhất mỹ nhân Ấn Độ Aishwarya Rai cũng phải kết hôn với
một cây chuối trước khi bước về nhà chồng.
Thứ hai là tảo hôn. Hàng năm, ở Ấn Độ có đến hàng nghìn trẻ em phải kết hôn ở
độ tuổi còn rất nhỏ, thậm chí có những em mới 7 tuổi. Sau lễ cưới, các cô dâu nhí vẫn
ở nhà cha mẹ đẻ và chỉ đến ở nhà chồng khi đã trưởng thành. Mặc dù chính phủ Ấn Độ
đã có quy định cấm kết hôn đối với nữ dưới 18 và nam dưới 21 tuổi, nhưng tại nhiều
vùng xa xôi hẻo lánh ở miền Trung và Tây Ấn, người dân vẫn giữ hủ tục từ thời xa xưa
để lại này.


21 | N h ó m 1 0

Thứ ba là thiêu sống cô dâu. Ở Ấn Độ, thì của hồi môn nhiều khi được coi là bản
án tử cho các nàng dâu xấu số. Việc con dâu có được coi trọng ở nhà chồng hay không
phụ thuộc rất nhiều vào số lượng của hồi môn cô dâu được nhà mẹ đẻ cho. Vì thế, có
không ít gia đình ở Ấn Độ sẵn sàng bức con dâu tự vẫn hay thiêu sống cô dâu ngay
trong ngày cưới nếu thấy không hài lòng với số của hồi môn của cô dâu. Mẹ chồng
hoặc một thành viên khác trong gia đình nhà chồng sẽ đổ dầu ăn lên khắp người cô dâu
rồi tự tay châm lửa. Một số ít các cô dâu trẻ thoát chết cũng sẽ phải chịu tra tấn, ngược
đãi, mắng nhiếc của gia đình nhà chồng mà không dám đứng lên khởi tố.
Tư tưởng bất bình đẳng nằm trong những nghi lễ Tôn giáo, kể cả đạo
Hindu. Đó là khi sinh mạng của chính người phụ nữ cũng không nằm trong tay họ mà
phụ thuộc vào sự sống chết của người chồng. Cụ thể, có thể kể đến một ví dụ tiêu biểu
là Tục Sati - tục vợ chết theo chồng bằng cách nhảy vào giàn hỏa táng đang thiêu xác
chồng. Sati có thể là do người vợ tự nguyện, cũng có thể bị nhà chồng bắt ép làm theo
tục lệ. Ban đầu hủ tục này xuất hiện trong tầng lớp chiến binh Rajput ở miền tây bắc ấn
Độ. Dưới thời Anh cai trị, tục Sati bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Rajput là những
chiến binh dũng cảm và cuồng tín, luôn luôn chiến đấu chống lại những hoàng đế đạo
Hồi. Khi không có giặc, họ quay lại đánh lẫn nhau. Những người vợ góa còn trẻ của họ
thường giữ gìn tiết hạnh, trung thành với chế độ một vợ một chồng và luôn trong tâm

thế sẵn sàng chết khi chồng không còn. Hành động này là ảnh hưởng của những chuẩn
mực tôn giáo đã định ra cho những người ngoan đạo. Tầng lớp Rajput duy trì tục vợ
chết theo chồng, như vậy cộng đồng không phải chăm sóc những cô vợ góa. Khi những
người phụ nữ bị coi là gành nặng, họ buộc phải lựa chọn cái chết hoặc sự xa lánh của
cộng đồng. Mặc dù tập tục này đã bị cấm, nhưng nó vẫn tồn tại đây đó ở nông thôn và
vùng sâu vùng xa. Ở những nơi này, cái chết có thể đến với người phụ nữ bất cứ lúc
nào khi trong lành vẫn có những giàn hỏa thiêu không bị phá bỏ.
Lễ nghĩa hay áp lực gia đình đặt nặng lên người phụ nữ cũng là một lí do đối
với bất bình đẳng Ấn Độ. Ở Ấn Độ, phụ nữ thường ít dám khẳng định bản thân bởi vai
trò người mẹ và người vợ đã ăn sâu bám rễ dưới lớp vỏ truyền thống. Hơn nữa, phụ nữ
gặp nhiều bất lợi để có thể lấy lại vị thế hay giá trị của mình bởi phụ nữ không được
khuyến khích tham gia vào lĩnh vực chính trị hay trở thành lãnh đạo. Theo quan niệm


22 | N h ó m 1 0

của nhiều xã hội, những việc đó là vai trò của nam giới. Phụ nữ sẽ bị coi là láo, là xem
thường, là vượt mặt chồng nếu họ tham gia hoạt động bên ngoài. Chính vì vậy họ
không thể giải quyết hài hòa được vai trò nội trợ trong gia đình và các vấn đề kinh tế
xã hội bên ngoài. Ở cả nông thôn và thành thị, phụ nữ bắt buộc phải dành phần lớn thời
gian để hoàn thành công việc nội trợ, chăm sóc gia đình con cái; vì thế họ sẽ không có
cơ hội để tìm kiếm những cơ hội tốt hơn nhằm cải thiện vị thế của mình ở bên ngoài xã
hội. Quyền lợi hay tài sản trong gia đình hay sự phân chia trong môi trường làm việc
cũng không được phân phối một cách bình đẳng đã giảm động lực của người phụ nữ
Ấn Độ khi cố găng tìm kiếm những công việc và hoạt động mới cho mình.
Sự định kiến ưu ái hơn giành cho nam giới ở Ấn Độ và “ghẻ lạnh” đối với
phụ nữ Ấn độ là một tình trạng rất phức tạp. Ở đây, đó như là một tín ngưỡng lâu đời ở
đất nước này. Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng bé gái sinh ra từ những gia đình
mong đợi có con trai sẽ cảm thấy mặc cảm, thiếu tự tin trong xã hội bởi lẽ trẻ em trai
luôn được chào đón khi sinh ra, còn điều đó ngược lại với trẻ em gái. Đến tuổi đi học,

nếu gia đình khó khăn về kinh tế, gia đình thường chọn giải pháp trẻ em gái nghỉ học
để trẻ em trai được đến trường. Đa số họ đều suy nghĩ rằng, dạy dỗ trẻ em gái thành
thạo việc gia đình có ích hơn nhiều so với cho chúng đến trường và học chữ. Họ thậm
chí còn xem việc cho trẻ em gái đi học là một khoản đầu tư tốn kém và vô ích.
Mặc dù đã có nhiều nhà xã hội học và những nhà cải cách ở Ấn Độ đã đưa ra
những cuộc vận động lớn trong toàn xã hội Ấn Độ để có thể đem lại quyền lợi và nâng
cao giá trị cho người phụ nữ nơi đây, tuy nhiên thái độ chung, những niềm tin cổ hủ đối
với phụ nữ đã từ lâu đời của toàn xã hội Ấn Độ là quá mạnh để có thể vượt qua được.
Họ luôn tin rằng phụ nữ chỉ thích hợp với việc chăm nom gia đình, họ cũng không nên
và không được đưa ra tiếng nói trong bất cứ vấn đề gì trong gia đình và xã hội. Những
bất lợi, khó khăn áp đặt lên phụ nữ Ấn Đô như thế nhưng lại không được coi là quá
đáng đối với phụ nữ hay bất bình đẳng ở Ấn Độ trong khi họ được coi là "phái yếu".
Các thành kiến này đã giới hạn cả phái nam lẫn nữ trong những đóng góp ý nghĩa cho
xã hội cũng như những phát triển tiềm năng và ý thích cá nhân, khiến bất bình đẳng
giới càng trở nên sâu sắc hơn.


23 | N h ó m 1 0

3.2. Nguyên nhân kinh tế và luật pháp
Về kinh tế
Thứ nhất, là nghèo đói. Ấn Độ có 30% người dân phải sống dưới cảnh nghèo đói,
thiếu thốn, 70% trong số đó là phụ nữ. Sự nghèo đói của phụ nữ Ấn Độ liên quan trực
tiếp với cơ hội khó khăn của họ để tìm kiếm công việc đảm kinh tế cá nhân, sự thiếu
thốn về các nguồn lực kinh tế, sở hữu đất đai hay quyền thừa kế trong gia đình.
Thứ hai, là các thị trường, các ngành của một nước cũng ảnh hưởng tới các nguồn
lực mà nam giới và phụ nữ được tiếp cận, ảnh hưởng đến các hoạt động mà họ có thể
tiến hành và cách thức họ có thể tham gia vào nền kinh tế.
Thị trường bảo hiểm y tế chưa phát triển khiến cho phụ nữ thường không tiếp cận
được hoặc chỉ tiếp cận thông tin qua người chồng có việc làm ở khu vực chính thức và

việc không có một hệ thống an sinh chính thức cho tuổi già cộng với những quyền về
tái sản xuất bình đẳng, buộc người phụ nữ phải dựa dẫm chủ yếu vào những người họ
hàng để hỗ trợ lúc tuổi già.
Các thị trường tín dụng thường đòi hỏi phải có đất đai hay nhà cửa để thế chấp
cho các khoản vay, điều này nằm ngoài khả năng của người phụ nữ.
Thứ ba, là trong giao dịch buôn bán nói chung nữ giới thường bị đánh giá không
cao trong giới làm ăn về tài năng, vị thế và mức độ tin tưởng. Ở nông thôn Ấn Độ, khi
các thực phẩm dư dật thì không có sự khác biệt nào trong tình trạng dinh dưỡng giữa
các em trai và em gái, nhưng các em trai nhận được nhiều thực phẩm hơn trong các
giai đoạn khó khăn. Tất cả những điều trên đã tạo ra một vòng luẩn quẩn, khiến phụ nữ
sẽ mãi không thoát nổi cảnh nghèo đói. Bất bình đẳng cứ thế lại càng dai dẳng và nặng
nề hơn ở Ấn Độ.
Truyền thống và văn hóa cũng là những trở ngại cho sự phát triển kinh tế của phụ
nữ, vì vậy sự hiểu biết tác động của chúng là một chìa khóa để các chính sách phát
triển hiệu quả. Để nâng cao nhận thức của các vấn đề này, Trung tâm Phát triển của
OECD đã đo lường sự phân biệt đối xử đó hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn lực của


24 | N h ó m 1 0

phụ nữ tại 102 quốc gia đang phát triển và cho thấy sự phân biệt dai dẳng và đàn áp ở
mức cao ở miền nam châu Á, trong đó có Ấn Độ.
Về pháp luật
Pháp luật của Ấn Độ còn lỏng lẻo, chưa nghiêm minh và mạnh tay trong vấn đề
xử phạt những hành động đối xử bất công bằng với phụ nữ. Có rất nhiều vụ án liên
quan đến phụ nữ khó khăn lắm mới được đem ra xét xử thì những thẩm phán lại không
công minh, không dũng cảm bảo vệ phụ nữ vì đơn giản họ đều là đàn ông. Ấn Độ còn
thiếu cảnh sát nói chung để bảo vệ người dân của mình; lực lượng an ninh hiện tại bị
đánh giá là thiếu năng lực thu thập chứng cứ, điều tra, thiếu trang thiết bị. Ngay cả ở
New Delhi tuy là nơi có lực lượng cảnh sát khá lớn, với khoảng 84.000 nhân viên an

ninh nhưng chỉ ⅓ trong số này thật sự làm công việc của cảnh sát, phần còn lại thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ các chính khách và những người giàu có, nổi tiếng… Cũng theo
Times of India, cứ 200 người dân mới có một cảnh sát, trong khi với một VIP thì có
đến 20 nhân viên bảo vệ. Đi cùng với sự thiếu hụt lực lượng an ninh còn là luật pháp
lỏng lẻo và một hệ thống tòa án cũng thiếu hụt và chậm chạp.
4. Hệ quả của bất bình đẳng giới gây ra cho kinh tế-xã
hội 4.1. Hệ quả đối với nền kinh tế
Ở Ấn Độ, nền kinh tế hộ gia đình hiện đang nắm giữ một vai trò khá quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Song, sự bất bình đẳng
giới đang có những tác động tiêu cực đến mô hình kinh tế này, khiến nó trở nên suy
yếu và kém hiệu quả. Các thành viên trong gia đình không còn chung quyền sở hữu tài
sản, nguồn lực lao động, cũng như không còn được hưởng kết quả lao động ở mức như
nhau.
Có sự chênh lệch giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực chủ yếu như đất đai, nguồn nước, tín dụng, tư liệu sản xuất, các kỹ năng và
thông tin. Điều này làm giảm tổng sản lượng thu được do đầu vào không được phân
chia đều cho cả các hoạt động sản xuất của nam lẫn nữ. Nữ giới không có điều kiện


25 | N h ó m 1 0

học tập, trình độ dân trí thấp nên không có khả năng cải thiện phương thức sản xuất
giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và gia tăng hiệu quả. Điều này dẫn đến sự chênh lệch
trong trình độ khiến cho những công việc lao động chân tay nặng nhọc, vất vả sẽ bị đổ
dồn về nữ giới nhiều hơn, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, dẫn tới năng suất và
chất lượng lao động không đảm bảo. Phụ nữ ít có cơ hội được làm việc ở các vị trí
chính thức (khoảng 9.2%), và công việc chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp với mức
thu nhập thấp. Điều này làm giảm đi khả năng đóng góp tri thức, tạo ra giá trị cho nền
kinh tế cũng như khả năng đóng góp cho phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, phụ nữ phải
đảm nhận khối lượng lớn công việc “vô hình”, mà không hề được nhận lương (chiếm

tới 49%). Giá trị thặng dư đang bị bóc lột hết sức rẻ mạt.
Có thể thấy, sự bất bình đẳng đã và đang là một nhân tố kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế Ấn Độ do không phát huy được hết khả năng đóng góp của người phụ
nữ cũng như việc phụ nữ không có cơ hội tiếp cận với các công việc phù hợp với năng
lực của mình.
4.2. Hệ quả đối với xã hội
Việc mang thai và sinh đẻ là thiên chức của người phụ nữ, nhưng đẻ thực hiện
được thiên chức đó theo mong muốn của mình thì người phụ nữ lại không thể tự mình
quyết định được. Kết quả từ cuộc điều tra dân số mới của Ấn Độ cho thấy tỉ lệ trẻ em
nữ so với trẻ em nam đã xuống thấp kỉ lục kể từ khi nước này độc lập vào năm 1947.
Theo báo cáo điều tra năm 2011, hiện toàn Ấn Độ chỉ có 914 trẻ em nữ so với 1.000 trẻ
em nam ở độ tuổi 0-6 tuổi, giảm so với thập kỉ trước đó là 927/1000. Mỗi ngày có hơn
2000 bé gái bị giết hại khi còn là bào thai. Giáo sư khoa học xã hội Gitika Vasudev của
ĐH Delhi trả lời với AFP, gọi đây là "thất bại chung của cả Ấn Độ" trong việc bảo vệ
các bé gái. Tỉ lệ mất cân bằng giới tính của Ấn Độ luôn giảm dần kể từ năm 1961 trong
khi tỷ lệ trung bình của thế giới hiện nay là 1.050 nữ/1.000 nam. Ấn Độ bị đánh giá là
mất cân bằng giới tính trong 50 năm.


×