Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
LỜI MỞ ĐẦU
“Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục
đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người
được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh và sáng tạo.”- Báo cáo phát triển con
người (Human Development Report - HDR) của Chương trình phát triển Liên
hiệp Quốc (United Nations Development Programme – UNDP xuất bản năm
1990). Có thể hoàn toàn khẳng định rằng trên chặng đường nghiên cứu, vận
động và tiến bộ vượt bậc không ngừng của nhân loại, sau tất cả, sự tồn tại và
phát triển của con người mới thực sự là đích đến cuối cùng có giá trị và nhân
văn nhất.
Nay với việc lựa chọn Đề tài: “Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai
đoạn 1995– 2014 thông qua báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc
(HDR)” nhóm chúng em hi vọng sẽ cung cấp kiến thức về vấn đề toàn thể nhân
loại hiện nay đều đang rất quan tâm, đó là: Tình hình phát triển con người, cạnh
đó lựa chọn Ấn Độ - Quốc gia được xem là một trong những cái nôi của nền văn
minh nhân loại, nổi bật với nền văn hóa tôn giáo và con người thân thiện, điềm
tĩnh.. Bằng việc sử dụng các dữ liệu, thông tin qua các năm trong giai đoạn
1995-2014 với biến động lịch sử nổi trội lấy từ Báo cáo phát triển con người
thường niên của UNDP (HDR), nhóm phân tích, làm rõ tình hình phát triển con
người ở Ấn Độ nói chung, trong giai đoạn 1995-2014 nói riêng thông qua các
chỉ số phát triển con người, qua đó đưa ra một vài đè xuất, giải pháp để cải thiện
tình hình phát triển con người ở Ấn Độ nói riêng cũng như trến thế giới nói
chung.
Tiểu luận này của nhóm chúng em chắc hẳn vẫn còn ít nhiều thiếu sót cũng
như thông tin thời cuộc, cập nhật kiến thức vẫn luôn cần được bổ sung thêm để
có thể hoàn thiện hơn nữa. Nhóm nghiên cứu cũng xin chân thành cảm ơn cô
Hoàng Bảo Trâm, Giảng viên bộ môn Kinh tế Phát triển trường Đại học Ngoại
thương mà nếu không có sự chỉ dẫn định hướng và hỗ trợ tận tình của cô, nhóm
chúng em đã không thể nào hoàn thành Đề tài này một cách tốt nhất. Hi vọng Đề
1
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
tài của nhóm sẽ nhận được những sự phản hồi tích cực cũng như đóng góp để
hoàn thiện hơn.
2
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ VÀ QUỐC GIA NGHIÊN CỨU
1.Quan điểm phát triển con người
1.1.
Quan điểm chung
Tài sản thực sự của 1 quốc gia là con người. Phát triển con người chính là,
và phải là, sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự phát triển vì con người,
của con người và do con người.
Theo quan điểm về phát triển con người của Liên Hợp Quốc, phát triển con
người là một quá trình nhằm mở rộng khả năng lựa chọn của dân chúng. Ngoài
ra, phát triển con người còn là tạo điều kiện để con người thực hiện sự lựa chọn
đó (sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh,
được học hành và có được một cuộc sống ấm no.
Phát triển con người gồm 2 mặt:
-
Sự hình thành các năng lực của con người
Việc sử dụng các năng lực của con người dã tích lũy được cho các hoạt động
kinh tế, giải trí hay các hoạt động văn hóa, xã hội, chính trị.
1.2.
Thước đo đánh giá
Hiện nay trên thế giới, có nhiều thước đo sự phát triển con người, trong đó
có 4 chỉ số tiêu biểu sau đây:
a. Chỉ số HDI
-
Chỉ số phát triển con người (HDI) được cơ quan phát triển con người của Liên
hiệp quốc đưa ra để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người.
- HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung
bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:Sức khỏe, Tri thức, Thu nhập.
- HDI là số trung bình nhân của các số sau:Chỉ số tuổi thọ trung bình, Chỉ số học
vấn, Chỉ số GDP bình quân đầu người.
Cách tính chỉ số HDI
Trước năm 2010:
Từ năm 2010 đến nay
3
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Trong đó:
: Chỉ số sức khỏe
: Chỉ số giáo dục
: Chỉ số thu nhập
b. Chỉ số IHDI
-
Chỉ số phát triển con người có điều chỉnh bất bình đẳng (IHDI) được UNDP đưa
ra thử nghiệm từ năm 2010, giúp Chính phủ các nước hiểu rõ hơn về sự bất bình
đẳng giữa các tầng lớp dân số và đóng góp của họ cho sự tổn thất toàn bộ do bất
bình đẳng gây ra.
- IHDI đại diện cho thành tựu phát triển con người của một quốc gia với ba yếu tố
cơ bản giống như HDI: sức khỏe, giáo dục và thu nhập nhưng xét thêm yếu tố
điều chỉnh bất bình đẳng.
- IHDI là số trung bình nhân của các số sau: chỉ số vòng đời, chỉ số giáo dục và
thu nhập như HDI nhưng tính theo giá trị bất bình đẳng, chỉ ra những thành tựu
được phân phối giữa các công dân của nước đó như thế nào bằng cách "chiết
khấu" giá trị trung bình của mỗi chiều theo mức độ bất bình đẳng.
c. Chỉ số GII:
-
Chỉ số bất bình đẳng giới (GII) được xây dựng trên cùng một khuôn khổ như
HDI và IHDI, chỉ ra những khác biệt trong việc phân phối các thành tựu giữa
phụ nữ và nam giới.
- GII đo lường chi phí phát triển con người của bất bình đẳng giới trên 3 khía
cạnh quan trọng của phát triển con người: sức khỏe sinh sản, trao quyền và tình
trạng kinh tế.
- GII được tính dựa trên các chỉ số theo 3 khía cạnh trên: tỉ lệ tử vong của mẹ hay
sinh con, số ghế Quốc hội, tỉ lệ tham gia lực lượng lao động, tỉ lệ dân số có trình
độ học vấn ở mức độ THCS.
d. Chỉ số GDI:
-
Chỉ số phát triển giới (GDI) là chỉ tiêu phản ánh sự chênh lệch về mức sống
cũng như các thành tựu đạt được giữa nam và nữ của một quốc gia, định lượng
về mức độ chênh lệch phát triển con người giữa nam và nữ trên toàn thế giới.
4
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Đây là một trong 5 chỉ tiêu được UNDP sử dụng trong báo cáo phát triển con
người hàng năm, mới được phát triển từ năm 1995.
- Chỉ số phát triển giới là chỉ số tổng hợp (bình quân giản đơn) của ba chỉ số phân
bổ công bằng theo yếu tố: tuổi thọ, giáo dục và GDP phản ánh về sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ của một quốc gia hay một vùng, một tỉnh..., trên cơ sở
đánh giá sự phát triển chung của con người theo các yếu tố sức khỏe, tri thức và
mức sống.
1.3.
Báo cáo phát triển con người HDR:
Báo cáo Phát triển con người là một báo cáo độc lập, là sản phẩm thường
niên thuộc Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) của một nhóm các
học giả hàng đầu được lựa chọn, các học viên phát triển và các thành viên của
Văn phòng Báo cáo Phát triển Con người UNDP. Báo cáo nêu lên tình hình phát
triển của hơn 100 quốc gia trên toàn thế giới qua các năm và thông qua từng chỉ
số nghiên cứu được. Tiểu luận lấy số liệu và thông tin từ báo cáo phát triển con
người của UNDP (HDR) để phân tích và làm rõ tình hình phát triển con người ở
Ấn Độ.
Báo cáo này được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1990 bởi các nhà kinh tế
Pakistan Mahbub ul Haq và người đoạt giải Nobel Ấn Độ Amartya Sen. Mục
tiêu của nó là đặt con người vào trung tâm của quá trình phát triển trong điều
kiện của cuộc tranh luận về kinh tế, chính sách và vận động. Phát triển được đặc
trưng bởi việc cung cấp các lựa chọn và tự do dẫn đến kết quả trên diện rộng.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận báo cáo là "một bài
tập trí tuệ độc lập" và "một công cụ quan trọng để nâng cao nhận thức về phát
triển con người trên toàn thế giới."
2.Tổng quan quốc gia nghiên cứu - Ấn Độ:
2.1.Đặc điểm cơ bản về Ấn Độ và tình hình kinh tế - xã hội :
Ấn Độ, tên gọi chính thức là nước Cộng hòa Ấn Độ, là một quốc gia
tại Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ bảy về diện tích, và đông dân thứ nhì trên
thế giới với trên 1,2 tỷ người. Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu
vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những
đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch
5
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ
giáo, Phật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 11 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ
ba thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP). Sau các cải cách kinh tế dựa
trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh
tế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công
nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách
thức từ nghèo đói, tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ
nghĩa khủng bố.
Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc. Đây cũng là
nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực được bảo vệ.
2.2.Con người Ấn Độ:
“Đất nước của những con người không tất tả bon chen. Nhu hòa tự tại là
một trong những đặc điểm tính cách dân tộc, điều đó đã khiến Ấn Độ trở thành
quốcgia hiếm hoi trên thế giới giành lại độc lập chủ quyền từ tay kẻ xâm lược
bằng phương pháp bất bạo động. Gần gũi, hài hòa với thiên nhiên, không giết
chóc sát sanh động vật bừa bãi là quan điểm sống của người Ấn. Đa số người
dân ăn chay trường; nhìn gương mặt nào ta cũng thấy phảng phất một niềm tín
ngưỡng…”
-
Người Ấn thân thiện, dễ mở lòng, dễ bỏ qua, nhu hòa và điềm tĩnh. Dù Ấn Độ
vẫn còn sự phân biệt giai cấp khá nặng, nhưng cách sống của họ lại không có sự
phân biệt. Gần gũi, hài hòa với thiên nhiên, không giết chóc sát sanh động vật
bừa bãi là quan điểm sống của người Ấn.
- Đời sống tinh thần chủ yếu dựa vào niềm tin tôn giáo. Đa số người dân ăn chay
trường. Niềm tin tôn giáo lâu đời sẽ ăn sâu và trở thành tập tục văn hóa; tập tục
văn hóa là một bộ phận cấu thành bản sắc dân tộc. Người Ấn rất kiên định trong
việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhu hòa tự tại là một trong những đặc điểm tính
cách dân tộc, điều đó đã khiến Ấn Độ trở thành quốc gia hiếm hoi trên thế giới
giành lại độc lập chủ quyền từ tay kẻ xâm lược bằng phương pháp bất bạo động.
6
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
-
Với số dân đông đứng nhì thế giới, tỉ lệ giữa nam và nữ cũng không chênh lệch
quá xa nhưng nguồn lao động xã hội hầu như chỉ tập trung vào nam giới, phụ nữ
thường ở nhà với công việc bếp núc.
- Đặc biệt, xã hội và con người Ấn Độ ngày nay dù dã phát triển văn minh hơn
nhưng do những hủ tục, cách sống lạc hậu cũng như những khó khăn về kinh tế,
văn hóa.. nói riêng đã khiến cho tình hình phát triển con người ở Ấn Độ cũng
như phát triển xã hội còn gặp nhiều khó khăn, tình trạng người dân sống nghèo
đói, bất bình đẳng giới còn xuất hiện ở nhiều vùng,…
7
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Chương 2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở ẤN ĐỘ
GIAI ĐOẠN 1995-2014
1. Các yếu tố cơ bản tác động đến tình hình phát triển con người ở Ấn Độ:
Phát triển con người chính là nguồn gốc thúc đẩy sự tiến bộ một quốc gia.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tình hình phát triển con người, tuy nhiên, về
căn bản giáo dục, y tế, môi trường và kinh tế là bốn thành tố cơ bản và quan
trọng nhất. Việc nghiên cứu về bốn yếu tố này là chìa khóa giải thích cho tình
hình phát triển của Ấn Độ trong 20 năm qua.
1.1.
Giáo dục.
Mặc dù ngành giáo dục Ấn Độ có những tiến bộ đáng kể trong thời gian 19 năm
qua nhưng nó vẫn còn rất nhiều điểm cần phải cải thiện để đảm bảo phát triển
con người như kỳ vọng và đẩy nhanh việc bắt kịp với các nước phát triển khác.
Xếp hạng chỉ số HDI đứng thứ 135 trên thế giới phần nào thể hiện được tình
hình giáo dục của Ấn Độ hiện nay. Vấn nạn mù chữ vẫn phủ bóng đen lên nền
giáo dục Ấn Độ, tỷ lệ mù chữ các năm đều duy trì ở mức rất cao (trên 30%), đặc
biệt năm 2014 số lượng người trên 15 tuổi mù chữ vẫn chiếm 37.2% (theo số
liệu của UNDP) và số người này chủ yếu ở vùng nông thôn. Thực trạng này xuất
phát chủ yếu từ việc thiếu giáo viên dẫn đến không phổ cập giáo dục đến tất cả
mọi người. Tỷ lệ học sinh trên giáo viên luôn ở mức rất cao, năm 1995 con số
này là 61, năm 2014 là 35 nhưng vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước khác và
thế giới (Trung Quốc năm 2014 là 17, thế giới là 25). Với nguồn lực hạn chế
như vậy rất khó để Ấn Độ có thể cải thiện tình hình trong thời gian 19 năm qua.
Ngoài ra mức đầu tư công cho ngành này vẫn chưa xứng đáng với vai trò của
nó, cụ thể năm 2014 chỉ là 3.32% GDP con số này ở Việt Nam là 6.56%. Xét về
chất lượng, tuy rằng một số ngành của Ấn Độ có chất lượng giáo dục đại học tốt
so với cả các nước phát triển như công nghệ thông tin hay cơ khí nhưng tổng thể
chất lượng giáo dục Ấn Độ vẫn ở mức thấp khi so sánh với dân số 1.25 tỷ người.
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi con người, mỗi quốc gia, dân tộc, giáo dục là một nhân tố quan trọng trong
việc tính chỉ số HDI. Vì vậy, việc chỉ số HDI của Ấn Độ ở mức thấp là điều có
thể hiểu được. Để cải thiện năng lực của ngành giáo dục nói riêng và phát triển
con người Ấn Độ nói chung, Chính phủ cần có các biện pháp phù hợp, mạnh
mẽ, hiệu quả cao để nâng cao cả về mức độ phổ cập lẫn chất lượng của nhân tố
nền tảng của sự phát triển này.
.
1.2.
8
Y tế.
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Y tế được coi như là một thành phần quan trọng trong sự tăng trưởng và
phát triển của bất cứ nước nào. Trẻ em khỏe mạnh khi đến trường sẽ tập trung và
tiếp thu tốt hơn trẻ em có sức khỏe kém. Nói cách khác, sức khỏe kém có thể
dẫn đến khả năng thiếu thốn và nghèo đói do đó gây ra một tổn thất lớn về
nguồn lực tài chính và con người cho quốc gia.
Tỷ lệ trẻ sơ
Năm
1995
2014
sinh tử vong
( trên 1000
trẻ sơ sinh)
51
29
Tỷ lệ trẻ em dưới
Tuổi thọ
5 tuổi tử vong
bình
( trên 1000 trẻ em)
quân
109
60
48
68
Theo The World Bank Data
Chi tiêu cho
Y tế (%GDP)
4
4.7
Ở trên là bảng so sánh số liệu về tình hình phát triển y tế của Ấn Độ trong giai
đoạn 2009-2014. Ta có thể thấy ngành y tế đã cải thiện được rất nhiều mặc dù so
với thế giới các con số này còn thực sự khiêm tốn. Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong vẫn
duy trì ở mức cao (29/1000) khi so sánh với các nước đang phát triển khác trên
thế giới như Việt Nam con số này chỉ là 18 trẻ. Ngoài ra, tuổi thọ trung bình của
Ấn Độ cũng ở mức thấp khi con số này ở Việt Nam là 75.95 tuổi, hơn nữa sự
chênh lệch về tiếp cận y tế ở khu vực thành thị và nông thôn cũng có sự chênh
lệch rất lớn.
Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc. Quy mô dân
số của nước này đã tăng từ 846 triệu người vào năm 1991 lên đến 1,2 tỷ người
vào năm 2014. Sự gia tăng dân số trong những năm qua, kèm theo công nghiệp
hóa nhanh chóng và tốc độ đô thị hóa cao đã gây ra ô nhiễm mỗi trường nghiêm
trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người Ấn Độ. Việc thiếu các dịch vụ
như cấp nước, xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn và độc hại, cung cấp thực
phẩm an toàn và nhà ở đều không thể theo kịp tốc độ phát triển đô thị.
Như đã phân tích ở trên, việc y tế kém phát triển sẽ dẫn đến một vòng luẩn quẩn
về sự phát triển của con người, do đó việc đầu tư mạnh mẽ vào y tế là thực sự
cần thiết trong dài hạn cho con người và đất nước Ấn Độ, cùng với giáo dục, y
tế là nhân tố quyết định tới sự phát triển bền vững của con người và quốc gia
9
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
trong tương lai. Để làm được việc này Chính phủ cần có các biện pháp quyết liệt
và đầu tư mạnh mẽ hơn để nâng cao chất lượng ngành quan trọng này trong
những năm tới.
1.3 . Kinh tế
Khoa học và công nghệ đã đóng một vai trò quan trọng trong sự chuyển đổi
trong nền kinh tế Ấn Độ, từ một nền kinh tế nông nghiệp trở thành một nền kinh
tế sản xuất và dịch vụ, và hiện đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới
để cạnh tranh toàn cầu. Kinh tế phát triển chính là kết quả rõ ràng nhất của sự
phát triển giáo dục và y tế, cụ thể giáo dục giúp Ấn Độ phát triển nhanh chóng
Khoa học và công nghệ lên trình độ cao và y tế giúp đảm bảo nguồn nhân lực
dồi dào cho các ngành trong nền kinh tế đặc biệt là ngành công nghiệp – kỹ
thuật. Kinh tế phát triển sẽ tác động trở lại giúp cho y tế, giáo dục, môi trường
được cải thiện qua đó trực tiếp nâng cao sự phát triển của con người. Theo
UNDP sự phát triển của kinh tế Ấn Độ được thể hiện rõ qua các con số: năm
2008, ước tính 35% xuất khẩu thuộc về lĩnh vực phần mềm và thu hút khoảng
600000 lao động trẻ với độ tuổi chỉ khoảng 26 (ngành công nghiệp này đạt tăng
trưởng 30.7% với tổng giá trị 39.6 tỷ USD); lĩnh vực công nghiệp công nghệ
sinh học Ấn Độ có được tốc độ tăng trưởng 35% trong suốt bốn năm liên tiếp
vừa qua, kèm theo đó là cung cấp khoảng 1 triệu việc làm cho nền kinh tế. Trong
mười năm trở lại đây, Ấn Độ đã trở thành một nước xuất khẩu lương thực chính
khi giá trị xuất khẩu của khu vực này tăng từ 5 tỷ USD (năm 2003) lên tới 39 tỷ
USD vào năm 2013. Hiện nay, Ấn Độ trở thành nước xuất khẩu lương thực lớn
thứ bảy trên thế giới, vượt qua cả Australia và là nước xuất khẩu ròng về lương
thực lớn thứ sáu với giá trị gấp đôi so với khu vực EU. Ngoài ra, trong các
ngành như nghiên cứu không gian, phát triển công nghệ hạt nhân theo hướng
dân sự của Ấn Độ cũng thực sự phát triển mạnh mẽ. Năm 2013, GDP của Ấn Độ
đạt mức 1758 tỷ USD xếp hạng 10 trên thế giới. Với cơ sở một nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ này sẽ giúp Ấn Độ có nguồn lực thực sự tốt để cải thiện các vấn
đề phát triển con người và đất nước của mình. Tuy vậy, Ấn Độ vẫn cần giải
quyết được những điểm đen trong nền kinh tế như bất bình đẳng thu nhập, chênh
10
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
lệch giàu nghèo, phát triển không đồng đều ở các khu vực thành thi và nông
thôn để đảm bảo nền kinh thế phát triển cân đối hơn.
2.Tình hình phát triển con người thông qua các chỉ số:
2.1. Chỉ số HDI:
Chỉ số phát triển con người (HDI) được cơ quan phát triển con người của
Liên hiệp quốc đưa ra để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con
người.
Để đánh giá tình hình phát triển con người thông qua chỉ số HDI, cần xem
xét dựa trên các yếu tố cấu thành và tác động đến HDI đó là: Sức khỏe (đo bằng
tuổi thọ trung bình), tri thức (đo bằng số năm đi học trung bình, số năm đi học
kỳ vọng) và thu nhập (đo bằng thu nhập bình quân đầu người).
Xu thế của HDI giai đoạn 2007 – 2014
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
HDI
0.547
0.554
0.56
0.57
0.581
0.583
0.586
0,609
Xếp loại chỉ số HDI
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Vị trí so với thế giới
119
134
135
135
130
Bảng 1: Chỉ số HDI của Ấn Độ (giai đoạn 2007 – 2014)
Nguồn UNDP
Nhìn chung, chỉ số HDI của Ấn Độ từ 0.547 (năm 2007) tăng đến 0.609
(năm 2014), tăng 0.062 điểm trong giai đoạn 2007 – 2014. Tuy đã có sự gia tăng
chỉ số HDI chưa mạnh và chưa tạo nên bước đột phá, vì vậy, HDI của Ấn Độ so
với thế giới vẫn còn ở mức trung bình (dao động từ thứ 119 đến thứ 135).
Hơn thế nữa, trong khi chỉ số HDI của các Ấn Độ tăng chậm hơn tốc độ
tăng của thế giới. Do đó năm 2014 , HDI của Ấn Độ đứng thứ 130 trong tổng số
187 quốc gia, tụt xuống 10 bậc.
Sự sụt giảm này của Ấn Độ được cho là một phần do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 cho
11
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
tới khủng hoảng nợ kinh tế châu Âu 2012 rồi khủng hoảng kinh tế Ấn Độ 2013
ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn đất nước trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế,
Giáo dục, Y tế,...
Bên cạnh đó, những thiệt hại Ấn Độ phải gánh chịu từ thiên tai, bão lũ cũng
là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống người dân. Ước tính
năm 2013, thiên tại gây thiệt hại tới 4.9% tổng thu nhập quốc dân.
Để xem xét rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến xu hướng thay đổi chỉ số
HDI và tác động cụ thể ta xem xét HDI thông qua các chỉ số thành phần:
Sự thay đổi của chỉ số HDI thông qua các chỉ số thành phần
Để xem xét sự thay đổi của chỉ số HDI thông qua các chỉ số thành phần ta
xem xét bảng dưới đây
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Tuổi thọ
trung bình
64.8
65.4
65.4
65.7
65.9
66.2
66.4
68.0
Số năm đi
Số năm đi
học kỳ
học trung
vọng
10.5
10.8
10.8
11.1
11.7
11.7
11.7
11.7
bình
4.2
4.3
4.3
4.4
4.4
4.4
4.4
5.4
GNI/người
Chỉ số
(2011 PPP$)
HDI
3,867
3,957
4,237
4,589
4,841
5,000
5,150
5,630
0.55
0.56
0.56
0.57
0.581
0.583
0.586
0.609
Bảng 2: HDI và các chỉ số thành phần(giai đoạn 2007 - 2014)
Nguồn UNDP
Tuổi thọ trung bình của người dân Ấn độ năm 2007 là 64.8, đến năm 2014
là 68.0 năm tức là tăng khoảng 3.2 (tăng 4.94%) trong thời kỳ.
Liên quan đến chỉ số giáo dục, ở đây chúng tôi có xét đến số năm đi học kỳ
vọng của trẻ em và số năm đi học trung bình của một người lớn. Trong khi kỳ
vọng là khoảng 10.5 đến 11.7 thì số năm đi học thực tế của một người Ấn Độ
chỉ khoảng 4.3 đến 4.4, thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Cho tới năm 2014 số
năm đi học kỳ vọng tăng 11.43%, số năm đi học tăng 28,57%.
12
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Về thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương, ta nhìn
thấy một sự gia tăng đáng kể từ 3867$ lên tới 5630$, tăng 45,59% , tăng mạnh
nhất trong cả bốn yếu tố. Sự gia tăng GNI/ người đóng góp nhiều nhất vào sự gia
tăng chỉ số HDI.
Do đó, ta cũng thấy được, mặc dù chứng kiến sự gia tăng HDI nhưng chất
lượng cuộc sống của người dân còn thấp. Điển hình là tuổi thọ trung bình của
người dân mới chỉ là 68.4 thấp hơn mức trung bình của thế giới (71.5 tuổi). Số
năm được đi học ở mức rất thấp, tối đa 5.4 (năm 2014). Với những con số như
vậy, Ấn Độ phải thực sự nỗ lực để có những phương án phục vụ phát triển con
người hiệu quả, có giá trị lâu dài.
Xu hướng phát triển của các chỉ số cấu thành nên HDI
Xem xét bảng và biểu đồ sau:
Năm
Chỉ số sức
Chỉ số giáo
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
khỏe
0.688
0.693
0.698
0.702
0.706
0.71
0.714
0.738
dục
0.430
0.442
0.445
0.456
0.473
0.473
0.473
0.481
Chỉ số thu nhập
Chỉ số
0.552
0.556
0.566
0.578
0.586
0.591
0.595
0.636
HDI
0.55
0.56
0.56
0.57
0.581
0.583
0.586
0.609
Bảng 3: Xu hướng phát triển của các chỉ số cấu thành HDI (giai đoạn 2007 2014)
Biểu đồ và Bảng cho ta thấy xu thế phát triển của các chỉ số cũng như sự
đóng góp của từng chỉ số vào HDI. Nhìn chung các chỉ số tăng đều. Cụ thể:
Giai đoạn 2007 -2014
Chỉ số sức khỏe tăng 0.05 điểm từ 0.688 năm 2007 lên đến 0.738. Chỉ số
sức khỏe được tính dựa trên tuổi thọ trung bình của người dân, do đó, chỉ số sức
khỏe cũng có xu hướng tăng nhẹ, 7.2%. Mặc dù vậy, nhưng Ấn Độ đang phải
13
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
đối mặt với tương đối nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe người dân như: sự
gia tăng số người chết vì bệnh dịch, HIV, đặc biệt là số người tử vong do tự tử.
Hàng năm, chính phủ vẫn dành 3.87% GDP chỉ tiêu cho y tế với các nỗ lực cải
thiện, mang lại dịch vụ y tế tốt cho người dân.
Chỉ số giáo dục tăng 0.051 điểm từ 0.43 năm 2007 lên tới 0.481 năm 2013.
Hàng năm, chi tiêu chính phủ cho lĩnh vực giáo dục khoảng 3.32%GDP (năm
2013). Cho tới nay, tỷ lệ người lớn biêt chữ của Ấn Độ là trên 60%. Trình độ
dân trí của cả nước được cải thiện đang kể song chưa có sự cân đối giữa các
vùng và các giới.
Chỉ số thu nhập tăng 0.084 điểm từ 0.552 lên tới 0.636 vào năm 2013. Xu
hướng thay đổi của chỉ số thu nhập gần tương tự như chỉ số HDI. Có thể thấy
chỉ số thu nhập phản ánh tương đối chính xác tình hình phát triển con người bởi
thu nhập là biến ảnh hưởng đến HDI cũng đồng thời là nhân tố lớn tác động đến
sức khỏe và giáo dục.
Nguyên nhân
Như vậy xu hướng tăng lên của chỉ số HDI ở Ấn Độ là sự tăng lên chậm
của các chỉ số thành phần, trong đó chỉ số thu nhập đóng vai trò quan trọng nhất.
Với sự tăng lên chậm chạp này, Ấn Độ chỉ đang đuổi theo sự tăng lên của HDI
trên thế giới chứ chưa thực sự cải thiện đước HDI 1 cách rõ rệt. Sự tăng lên của
chỉ số thu nhập chỉ góp phần giải thích mức sống chung của người dân Ấn Độ
đang tăng lên chứ không đề cập được sự chênh lệch giữa thu nhập, mức sống
của người dân. Bên cạnh đó các chỉ số Y tế, giáo dục đều ở mức thấp là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến HDI thấp và cũng phản ánh thực tế về nền giáo dục và y
tế nghèo nàn chưa hoàn thiện cảu Ấn Độ.
2.2. Chỉ số IHDI:
Cùng với chỉ số bất bình đẳng về giới và chỉ số nghèo đa chiều, chỉ số phát
triển con người có điều chỉnh bất bình đẳng - IHDI bắt đầu được coi là một chỉ
số thử nghiệm từ năm 2010. Từ đó đến nay, chỉ số này được tổng hợp và tính
toán thường xuyên như tất cả các chỉ số phát triển con người khác. Để phân tích
14
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
tình hình phát triển con người dựa trên chỉ số IHDI, ta phải phân tích theo ba
yếu tố cơ bản bao gồm y tế, giáo dục và thu nhập thêm yếu tố có điều chỉnh bất
bình đẳng.
Dưới đây là bảng số liệu chỉ số phát triển con người có điều chỉnh bất bình
đẳng của Ấn Độ qua các năm từ 2010 đến 2014:
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
Chỉ số phát triển con ngườ
0.519
0.547
0.554
0.586
0.609
Nguồn: Báo cáo Phát triển con người, UNDP
Biểu đồ: Tương quan giữa HDI và IHDI ở Ấn Độ giai đoạn 2010 - 2014
Nguồn: Báo cáo Phát triển con người, UNDP
Qua biểu đồ, nhìn chung ta thấy cả chỉ số HDI và IHDI của Ấn Độ đều có
xu hướng tăng nhẹ qua các năm từ 2010 đến 2014 và là quốc gia thuộc nhóm
dưới trong nhóm các nước có chỉ số phát triển con người cũng như chỉ số phát
triển con người có điều chỉnh bất bình đẳng trung bình.
Năm 2010, chỉ số HDI của Ấn Độ là 0.519 đứng thứ 119 trong tổng số 169
quốc gia và vùng lãnh thổ được nghiên cứu trên thế giới. Đây cũng là năm đầu
tiên chỉ số IHDI được đưa vào nghiên cứu và tính toán. Trong năm 2010, chỉ số
IHDI của nước này ở mức 0.365, đồng thứ hạng với chỉ số HDI so với các quốc
gia trên thế giới. Giá trị tổn thất toàn bộ do bất bình đẳng gây ra của năm này ở
mức cao, đạt mức 29.6%, cao nhất trong 4 năm đã được thống kê, cao hơn cả
các quốc gia trong cùng khu vực như ,Sri Lanka (17.1%), Bangladesh (29.4%).
Sang năm 2011, chỉ số HDI đã tăng lên mức 0,547, tăng khoảng 5.4% so
với năm 2010, ở vị trí thứ 134/187. Chỉ số IHDI cũng có sự tăng nhanh hơn
15
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
HDI, đạt mức 0.365, tăng khoảng 7.4 % so với năm trước. Trong năm này thì chỉ
số tổn thất toàn bộ do bất bình đẳng gây ra đã giảm khá nhanh, chỉ còn 28.3%,
thấp nhất trong 4 năm trở lại đây, nhưng vẫn ở mức cao so với khu vực và các
nước ở cùng nhóm có chỉ số phát triển con người trung bình.
Đến năm 2012, chỉ số HDI của Ấn Độ đã tăng lên 0.554 nhưng vẫn đứng
thứ 136 trên 186 quốc gia trên thế giới. Trong khi HDI có sự tăng nhẹ thì chỉ số
IHDI lại vẫn giữ nguyên giá trị như năm 2011 ở mức 0.392, cũng đứng thứ 136
trên thế giới. Tuy nhiên, tốn thất toàn bộ do bất bình đẳng gây ra năm này lại cao
hơn năm trước, ở mức 29.3%, cao hơn cả Brazin (27.2%), Trung Quốc (22.4%)
và gấp hơn 5 lần so với Cộng hòa Séc (5.4%).
Năm 2013, cả HDI và IHDI của quốc gia này đều tăng ở mức khá nhanh
khi mà HDI tăng 5.8% và IHDI tăng 6.6%, lên mức 0.586 và 0.418, xếp thứ
135/187. Với tốc độ tăng như vậy, Ấn Độ đã nhích thêm một hạng trên bảng xếp
hạng các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra thì tổn thất toàn bộ do bất bình đẳng
gây ra cũng giảm so với năm trước, ở mức 28.6% tuy nhiên vẫn cao hơn so với
năm 2011.
Số liệu gần đây nhất là chỉ số HDI và IHDI của năm 2014 được giới thiệu
trong báo cáo phát triển con người toàn cầu năm 2015 đã cho thấy một sự tiếp
tục tăng nhẹ của cả chỉ số HDI vs IHDI vs mức tăng lần lượt là 3.9%, 4.1%, lên
mức 0.609 và 0.435, đưa quốc ra này lên vị trí 130/188. Như vậy đã có sự thăng
hạng trong vị trí trên bảng số liệu toàn cầu. Tổn thất toàn bộ do bất bình đẳng
gây ra tiếp tục dừng lại ở mức 28.6% bằng với năm 2013.
Sự bất bình đẳng trong phát triển con người được nghiên cứu trên ba khía
cạnh chính là bất bình đẳng trong tuổi đời, trong giáo dục và trong thu nhập. Để
theo dõi được mức độ bất bình đẳng trên 3 khía cạnh này ta có thể quan sát biểu
đồ tổn thất do bất bình đẳng trong tuổi đời, trong giáo dục và trong thu nhập gây
ra dưới đây.
16
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Biểu đồ: Tổn thất do bất bình đẳng trong tuổi đời, trong giáo dục và trong
thu nhập ở Ấn Độ giai đoạn 2010 - 2014
Nguồn: Báo cáo Phát triển con người, UNDP
Theo biểu đồ trên ta thấy giáo dục là yếu tố có bất bình đẳng cao nhất, luôn
trên 40% và có xu hướng tăng nhẹ qua các năm. Sự bất bình đẳng này chủ yếu
do nguyên nhân là nguồn gốc gia đình. Càng lên các bậc học cao hơn thì sự bất
bình đẳng càng được thể hiện rõ và lớn nhất là ở cấp bậc đại học. Ở nông thôn
của Ấn Đô, rất ít trẻ em được đến trường, thông thường trẻ em phải ở nhà trông
em, phụ giúp cha mẹ, điều này khiến cho tỷ lệ trẻ em được đến trường ở hai
nhóm giàu – nghèo, giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch rất lớn, đồng
thời có xu hướng tăng dần. Hơn nữa, việc chỉ có các gia đình giàu có mới có đủ
điều kiện cho con em theo học tại các trường đại học, cao đẳng làm sự bất bình
đẳng ở cấp học đại học được biểu hiện rất rõ ở Ấn Độ.
Yếu tố có tỷ lệ tổn thất do bất bình đẳng gây ra cao thứ hai ở Ấn Độ là tuổi
đời, giữ ở mức 25-30% nhưng có xu hướng giảm dần theo thời gian. Sự bất bình
đẳng này chủ yếu do điều kiện sống cũng như cơ hôi tiếp cận các dịch vụ y tế
trong những năm qua đã được cải thiện khá nhiều. Những sự cải thiện này đến
từ các dự án của các tổ chức phi Chính phủ cũng như các quốc gia khác trên thế
giới. Điều này giúpcho người dân Ấn Độ, đặc biệt là người dân khu vực nông
thôn có thể kéo dài tuổi thọ, đặc biệt là giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong.
Cùng với sự gia tăng các tỷ phú thì tỷ lệ bất bình đẳng trong thu nhập của
Ấn Độ cũng tăng lên ở mức trên 15% và có xu hướng ngày càng tăng lên. Cùng
với đó là sự hội nhập kinh tế quốc tế và sự phân công lao động cùng với việc
phân phối thu nhập không đồng đều càng làm cho tình trạng này trở nên tồi tệ
hơn.Theo tạp chí Forbes, năm 2012 Ấn Độ có 69 tỷ phú, tăng thêm 17 người so
với năm 2009. Tổng số tài sản của 40 nhà tỷ phú hàng đầu của Ấn Độ trị giá 243
tỷ USD, tăng 14 tỷ trong ba năm từ 2009 với mức 229 tỷ USD. Tuy nhiên, các tổ
chức chống nghèo đói ở Ấn Độ cảnh báo rằng số người nghèo ở nước này cũng
trên đà tăng. Theo kết quả điều tra 2010, số lượng người nghèo ở 8 bang của Ấn
17
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
Độ nhiều hơn 26 quốc gia nghèo nhất châu Phi cộng lại. Cung theo một báo
cáo của Chính phủ Ấn Độ năm 2012, trong số 1,2 tỷ dân nước này có tới 836
triệu người sống với mức thu nhập chưa đầy 20 rupee (45 xu USD)/ngày. Những
con số trên đã chứng minh rằng Ấn Độ là một trong những quốc gia có tỷ lệ bất
bình đẳng trong thu nhập cao trên thế giới.
Nguyên nhân:
Kể từ khi được UNDP đưa ra thử nghiệm từ năm 2010, cùng với chỉ số bất
bình đẳng về giới và chỉ số nghèo đa chiều, IHDI đã được tổng hợp và tính toán,
đưa thêm một cái nhìn cụ thể hơn về phát triển con người. Trong khoảng thời
gian từ 2010, là lúc bắt đầu được đưa vào thử nghiệm, cho tới năm 2014, chỉ số
IHDI của Ấn Độ đều có sự tăng trưởng. IHDI được xét trên 3 yếu tố cơ bản
giống với HDI là sức khỏe, giáo dục và thu nhập, ngoài ra còn xét thêm một yếu
tố khác nữa là yếu tố điều chỉnh bất bình đẳng. Theo như đã phân tích ở trên, chỉ
số HDI của Ấn Độ có sự tăng trưởng qua các năm. Sự tăng của HDI là một nhân
tố khiến cho chỉ số IHDI của Ấn Độ cũng tăng theo. Tuy nhiên, nếu xét riêng
yếu tố còn lại là yếu tố điều chỉnh bất bình đẳng, ta có thể thấy được rằng mức
độ bất bình đẳng ở Ấn Độ vẫn còn khá cao. Trong ba khía cạnh, tuổi đời, giáo
dục và thu nhập thì bất bình đẳng trong tuổi đời ở Ấn Độ đang có xu hướng
giảm qua các năm. Nguyên nhân là do hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe đang
ngày được cải thiện ở quốc gia này, giúp cho mọi người dân Ấn Độ, đặc biệt
những người dân ở khu vực nông thôn có thể tiếp cận được dễ dàng hơn tới các
dịch vụ về y tế, kéo dài tuổi thọ, và giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong. Ngược lại thì
ở Ấn Độ, tồn tại một sự bất bình đẳng khá lớn trong giáo dục và phân phối thu
nhập. Cụ thể là bất bình đẳng giữa giàu - nghèo, thành thị - nông thôn khiến cho
yếu tố bất bình đẳng trong giáo dục và thu nhập của quốc gia này luôn ở mức
cao so với mức trung bình của thế giới.
Về sự bất bình đẳng trong thu nhập, có nhiều nhân tố khác nhau là nguyên nhân
cho vấn đề này. Trước hết là nhân tố tăng trưởng, ví dụ như sự tăng thu nhập
khác nhau giữa các nhóm dân cư khác nhau khiến cho khoảng cách giàu nghèo
18
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
giữa các nhóm này trở nên càng lớn. Thu nhập của các nhóm người có thu nhập
trên mức trung bình tăng nhanh hơn so với nhóm những người nghèo. Ngoài ra
thì sự không đồng đều trong phân phối tài sản củng dẫn đến sự bất bình đẳng
trong thu nhập khi mà tài sản chỉ tập trung vào tay của một số cá nhân, đặc biệt
trong một xã hội tồn tại sự phân biệt đẳng cấp như Ấn Độ. Sự tăng trưởng không
đồng đều giữa các vùng, số lượng lớn dân cư có thu nhập dưới đáy sống trong
các vùng tiểu bang lạc hậu trong khi một tỷ lệ nhỏ sống ở những nơi có thu nhập
cao, hay sự gia tăng của các cơ hội việc làm chậm hơn so với sự tăng số lượng
lao động cũng là các nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng trong thu nhập tại
quốc gia này. Bên cạnh những nguyên nhân trên, sự bất cập trong chính sách
quản lý và điều tiết của cơ quan nhà nước cũng làm tăng thêm sự bất bình đẳng
trong xã hội Ấn Độ. Sự cứng nhắc, độc quyền trong luật lao động của quốc gia
này trong việc lựa chọn những người như thế nào mới được làm công việc cụ thể
ra sao, làm giảm tính hiệu quả của nền kinh tế, làm trầm trọng hơn vấn đề bất
bình đẳng. Chủ nghĩa dân tộc về kinh tế, cả cánh tả và cánh hữu vẫn gây cản trở
đầu tư nước ngoài quy mô lớn đổ vào Ấn Độ, làm kĩm hãm sự phát triển kinh tế
quốc gia, đồng thời không tận dụng được tối đa nguồn lao động. Chính sách về
cơ chế quản lý tiền lương của nhà nước Ấn Độ về quá trình phân phối lại tài sản
hay luật tiền lương tối thiểu ở Ấn Độ chưa được hiệu quả, khiến vấn đề bất bình
đẳng trong thu nhập trở nên rắc rối hơn. Thậm chí còn có những “câu chuyện
đen tối” về việc cho di dân để xây đường xá, thủy điện hay khai mỏ,… Những
cưỡng chế di dời, gian lận hợp đồng, thất hứa với người nghèo của các doanh
nghiệp, cơ quan chức trách địa phương, cũng như sự thiếu sát sao và trách
nhiệm của Chính phủ làm cho sự bất bình đẳng ở Ấn Độ trở nên rất gay gắt. Sự
phân biệt giàu nghèo của Ấn Độ không chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống của
người dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục Ấn Độ, và nền giáo dục
thiếu bất cập lại củng cố thêm khoảng cách giàu nghèo.
Các nhân tố trên càng ảnh hưởng mạnh mẽ hơn tại Ấn Độ, một phần cũng là do
những quan niệm từ xưa đã ăn sâu vào tiềm thức, lối sống của người dân nơi
19
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
đây, sự “phân biệt đẳng cấp”. Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn
năm nay và nó có lẽ vẫn sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời
sống cư dân Ấn Độ. Hệ thống này có nguồn gốc từ Bà-la-môn giáo, nhưng đã
xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn
gốc bên ngoài Ấn Độ. Cụ thể theo đạo này, có bốn loại cộng đồng được thừa
nhận, gồm Brahmins (học giả, nhà giáo, linh mục), Vaishyas (nông dân, người
nuôi gia súc, thương nhân, chủ ngân hàng), Kshatriyas (vua, chiến binh, nhà làm
luật, nhân viên hành chính), Shudras (nghệ nhân, thợ thủ công). Những người
còn lại gọi là tiện dân. Theo quan niệm này thì những ai đã thuộc cộng đồng nào
thì theo vòng hồi sinh sẽ vẫn thuộc cộng đồng đó. Mặc dù Ấn Độ đã tuyên bố
tiện dân là bất hợp pháp vào năm 1947 và kể từ đó ban hành các luật chống phân
biệt đối xử khác và khởi xướng phúc lợi xã hội, tuy vậy nhiều tường thuật vẫn
cho thấy rằng nhiều tiện dân cũ và các đẳng cấp thấp khác tại các khu vực nông
thôn tiếp tục phải sống trong sự cách ly và phải đối mặt với ngược đãi và phân
biệt. Sự phân biệt đẳng cấp này đã khiến cho sự chênh lệnh giữa các đẳng cấp
hay giữa người người thuộc tầng lớp thượng trung lưu và những người ở tầng
lớp dưới càng trở nên gay gắt. Sự bất bình đẳng được thể hiện rõ nhất trong sự
phân chia quyền, tài sản, thu nhập hay sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục,
… ở Ấn Độ.
2.3. Chỉ số GII:
Bất bình đẳng giới vẫn là một rào cản lớn đối với sự phát triển con
người. Có một điều rất phổ biến là phụ nữ và trẻ em gái thường bị phân biệt đối
xử trong y tế, giáo dục, chính trị và lao động,… với những tác động tiêu cực đối
với sự phát triển khả năng và tự do lựa chọn. Ấn Độ là một quốc gia đặc biệt có
tình trạng bất bình đẳng giới nổi bật so với các nước trên thế giới. Chỉ số bất
bình đẳng giới GII mới được đưa vào báo cáo phát triển con người những năm
gần đây. GII đo lường ba chiều cạnh thiết yếu đối với phụ nữ bao gồm sức khỏe
sinh sản, trao quyền và tham gia vào thị trường lao động. Ta có thể thấy được sự
bất bình đẳng giới ở Ấn Độ qua bảng dưới đây:
20
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
N
GI
T
T
S
T
ă
I
ỉ
ỉ
ố
ỉ
m
lệ
l
l
g
t
ệ
ệ
h
h
ế
a
t
ử
s
i
n
v
h
o
n
c
g
o
n
c
ủ
c
a
ủ
a
m
ẹ
v
ị
(
t
t
r
h
ê
à
n
n
h
1
21
0
n
0
i
ở
q
u
ố
c
h
m
g
i
a
l
ự
c
ộ
l
i
ư
(
ợ
%
n
)
g
l
a
o
đ
ộ
n
g
(t
ừ
1
5
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
,
ê
t
0
n
u
0
ổ
(
i
t
t
t
r
r
r
ê
ở
ẻ
n
lê
0
n
s
1
)
i
0
(
n
0
%
h
0
)
N
N
ữ
a
H
C
ạ
h
r
p
n
ỉ
a
h
)
ụ
g
s
ố
n
ữ
1
5
1
9
t
u
ổ
i
22
m
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
)
(
%
1
4
8
9
7
4
9
1
5
1
.
.
4
8
9
5
0
9
3
6
1
.
.
4
7
9
3
7
9
4
7
1
.
.
4
7
9
1
4
9
4
8
1
.
.
3
7
9
9
0
9
5
9
2
.
.
3
6
0
7
7
0
4
0
2
.
.
3
6
0
5
4
0
4
1
2
23
.
.
.
.
3
6
)
.
.
7
8
8
9
9
9
3
8
5
4
3
8
5
4
3
8
5
4
3
8
5
4
3
8
4
3
3
8
4
3
3
8
5
3
3
8
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
0
3
0
5
2
2
3
5
0
1
7
0
6
3
2
.
.
2
5
0
9
4
0
8
4
2
.
.
2
5
0
8
1
0
0
5
2
.
.
2
4
0
6
8
0
5
6
2
.
.
2
4
0
5
5
0
0
.
7
2
1
0
2
4
0
2
.
3
2
0
2
7
7
8
4
2
8
.
.
9
8
8
8
9
9
5
3
3
8
6
3
3
8
6
3
3
8
7
3
3
8
5
3
3
8
3
2
3
8
2
2
2
3
1
3
8
0
2
9
1
0
1
0
5
.
2
3
8
9
2
24
.
0
.
.
3
1
2
Tình hình phát triển con người ở Ấn Độ giai đoạn 1995 - 2014
0
1
6
1
9
1
5
.
0
2
1
0
2
3
1
2
8
8
0
2
.
0
3
1
8
0
1
9
6
6
.
1
1
2
1
7
0
1
3
1
2
7
0
3
.
9
0
1
7
9
1
2
6
7
.
2
2
1
1
0
1
2
1
2
9
7
0
2
.
8
8
1
7
9
1
7
5
9
3
.
3
6
2
1
3
0
1
2
1
2
7
0
3
.
8
6
2
7
9
1
0
5
1
4
9
6
3
Nguồn: World Bank và báo cáo phát triển con người của UNDP
Trong giai đoạn 2008-2014, Ấn Độ luôn nằm trong top những quốc gia có
chỉ số GII xếp hạng trung bình. Qua từng năm, chỉ số bất bình đẳng giới của Ấn
Độ có xu hướng giảm, song thứ hạng của quốc gia này lại tăng. Điều này cho
thấy tình trạng bất bình đẳng giới chưa được giải quyết hiệu quả so với mặt bằng
chung của thế giới.
Xét về các chỉ số thành phần:
• Tỉ lệ tử vong của người mẹ trên 100,000 trẻ được sinh ra đã giảm dần từ 471 ca
(năm 1995) xuống còn 181 ca (năm 2014). Đồng thời, tỉ lệ sinh con trên 1000 vị
25
0
.
9