Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II bài toán chuyển giá trong lĩnh vực FDI ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.02 KB, 24 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

Chuyển giá là gì ?

Chuyển giá (Transfer Pricing) là một phương pháp đơn giản để tối ưu hóa lợi
ích của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh đang ngày càng trở nên
gay gắt như hiện nay.
Về mặt lý thuyết, chuyển giá là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng
hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn
hay nhóm liên kết không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của
các tập đoàn hay của nhóm liên kết.
Có thể hiểu, chuyển giá là hành vi của chủ thể kinh doanh tác động đến giá
cả nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên
trong tập đoàn hay nhóm liên kết.
Các nhóm liên kết có thể gồm


Các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia (MNC).



Các công ty thành viên của 1 tập đoàn trong nước.



Các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc

biệt, thường là thân nhân.
Giá giao dịch có thể được xác định lại như vậy là do
(1) Quyền tự do định đoạt trong kinh doanh.


(2) Các chủ thể trong cùng một tập đoàn hay nhóm liên kết có chung lợi ích
nên sự khác biệt về giá không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
(3) Việc thay đổi giá tuy không làm thay đổi tổng lợi ích nhưng lại làm thay
đổi tổng nghĩa vụ thuế do nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao
sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại.


Giá giao kết giữa các bên trong tập đoàn hay nhóm liên kết là cơ sở để xem
xét hành vi chuyển giá. Khi so sánh giá giao kết với giá thị trường, một giao
dịch chỉ có nhiều khả năng bị đánh giá là chuyển giá nếu giá giao kết không
tương ứng với giá thị trường.
Từ những phân tích trên, có thể thấy chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với giao
dịch được thực hiện giữa các chủ thể có mối quan hệ liên kết.
Để thực hiện chuyển giá, các bên trong tập đoàn hay nhóm liên kết thiết lập
chính sách về giá để định giá giao kết sao cho có thể đạt được lợi nhuận cao
nhất từ những giao dịch đó.
Tuy vậy, rất khó để xác định một chủ thể thực hiện hành vi chuyển giá vì xét
một cách cục bộ, có nhà nước bị thất thu thuế thì cũng sẽ có nhà nước thu
được một lượng tiền thuế lớn hơn.
2.

Chuyển giá trong môi trường FDI

Khi nói tới chuyển giá thì chuyển giá trong giao dịch Quốc tế thường được
quan tâm phân tích nhiều hơn các giao dịch trong nước vì có chính sách thuế
quan và ưu đãi khác nhau rất rõ ràng giữa các Quốc gia. Đây cũng là nhân tố
chủ yếu khiến các công ty đa Quốc gia có thể dễ dàng thực hiện hành vi
chuyển giá.
3.


Một số phương thức chuyển giá của doanh nghiệp FDI

3.1.

Nâng khống giá trị tài sản vô hình

Tài sản vô hình ở đây có thể hiểu là bản quyền công nghệ, bí mật sản xuất,
thương hiệu,...Những tài sản này rất khó để có thể định giá một cách chính
xác, vì vậy các công ty đa quốc gia thường lợi dụng để thổi phồng làm tăng
vốn góp. Nhiều tài sản được định giá bởi công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy
chưa thực sự rõ ràng.


3.2.

Tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào.

Công ty ở nước nhận FDI bắt buộc phải nhập khẩu một số nguyên vật liệu
đầu vào từ công ty mẹ hoặc đối tác kinh doanh do độc quyền với giá rất cao.
Từ bước này, lợi nhuận đã chuyển ra nước ngoài thông qua thanh toán tiền
nguyên liệu nhập khẩu, Khi công ty trong nước kê khai lợi nhuận để tính
thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí sản xuất bị đội lên làm giảm lợi nhuận,
từ đó giảm số thuế phải nộp. Nghiêm trọng hơn, một số công ty còn báo lỗ
trong khi làm ăn rất thuận lợi, mở rộng kinh doanh liên tục và được Chính
phủ miễn thuế TNDN.
3.3.

Tăng chí phí hành chính và quản lí

Đây cũng là hành vi nhằm chuyển lợi nhận ra nước ngoài bằng các phí thuê

chuyên gia, phí tư vấn,... đắt đỏ nhưng hiệu quả không cao. Một số công ty
khác lại thuê người quản lí với lương cao, đào tao công nhân viên, chuyên
viên ở nước ngoài. Những khoản chi này rất khó để đánh giá chất lượng nên
không thể định giá một cách chắc chắn nên dễ bị lợi dụng. Chi phí này do
công ty trong nước phải gánh chịu và bị khấu hao vào lợi nhuận để tính thuế.
3.4.

Sử dụng nghiệp vụ vay

Các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lí bằng cách vay
vốn công ty mẹ để đầu tư cho trang thiết bị, nhà xưởng máy móc,... mà
không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu để đẩy cao chi phí chếnh lệch tỷ giá,
chi phí trả lãi vay,... và chuyển một phần lợi nhuận về nước đầu tư bằng tiền
lãi, phí bảo lãnh vay vốn để giảm thuế và tránh lỗ do chênh lệch tỉ giá về
sau.
Ngoài các phương thức trên, các doanh nghiệp FDI còn có thể điều chỉnh giấ
bằng cách điều tiết giá nguyên liệu, mua lại sản phẩm,sử dụng trung gian để


định lại giá bán cho công ty con,... các thủ thuật này đang ngày càng đa dạng
và phức tạp, thách thức các nhà chức trách ở các nước tiếp nhận FDI.
4.

Hệ quả từ hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI

Nhìn chung, chuyển giá vẫn là một hiện tượng đối với kinh tế thế giới. Ta
cần xét rõ hệ quả của chuyển giá đứng từ 3 góc độ: công ty đa quốc gia
(MNC), nước đầu tư FDI và nước nhận đầu tư FDI.
4.1.


Đối với các MNC



Tác động tích cực:

-

Được hưởng chính sách ưu đãi của Chính phủ nước nhận đầu tu về

thuế và các ưu đãi khác. Nhờ đó, các công ty này có lợi nhuận rất lớn, ít phải
chịu các trách nhiệm khác tạo điều kiện tiếp tục mở rộng sản xuất kinh
doanh.
-

Bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, nhanh chóng có được dòng ngân lưu

cho các cơ hội đầu tư khác.
-

Giúp các MNC chiếm lĩnh thị trường ở các nước nhận đầu tư, trở

thành các Price-maker, dễ dàng hướng thị trường theo định hướng của mình.


Tác động tiêu cực: Nếu hành vi chuyển giá bị phát hiện và nước nhận

đầu tư đã đưa ra chính sách, điều luật để xử lí thì có thể MNC sẽ bị xử phạt
hành chính rất lớn, rút giấy phép kinh doanh và sẽ bị chú ý, giám sát chặt
chẽ trong các dự án đầu tư FDI tiếp theo trên phạm vi toàn cầu.

4.2.

Đối với nước đầu tư



Tác động tích cực: giúp nước đầu tư thu được nguồn ngoại tệ lớn góp

phần cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán. Ngoài ra thu nhập
lớn của công ty mẹ cũng giúp tăng thuế mà Chính phủ thu được, tăng chỉ số
GNP cho quốc gia.


Tác động tiêu cực: Hiện tượng chuyển giá ngược: chuyển giá, chuyển

lợi nhuận ngược từ nước ngoài vào Việt Nam của một bộ phận doanh nghiệp


FDI đang hoạt động trong nước để được hưởng ưu đãi lớn về thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp và thời gian miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều này dẫn đến thất thu thuế, khó khăn cho kế hoạch thuế cho nước đầu
tư. Gây ra các vấn đề đối với quản lí kinh tế vĩ mô khi các dòng vốn đầu tư
không có sự dịch chuyển như ý muốn quản lí của Chính phủ.
4.3.

Đối với nước nhận đầu tư



Tác động tích cực: Tăng khoản thuế thu được nếu có hiện tượng


chuyển giá ngược.


Tác động tiêu cực:

-

Thất thoát nguồn thu lớn do các doanh nghiệp báo lỗ, lợi nhuận thấp

dẫn đến không phải nộp thuế hoặc nộp rất ít trong khi nhà nước phải bỏ ra
rất nhiều vốn xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư, xử li ô nhiễm môi
trường,..
-

Cơ cấu vốn của nền kinh tế không bền vững do chuyển giá làm các

dòng vốn chảy vào và chảy ra liên tục,tạo ra một bức tranh kinh tế sai lệch ở
nước nhận đầu tư gây khó khăn trong đánh giá tình hình kinh tế.
-

Hoạt động chuyển giá ngược có thể làm lợi cho các quốc gia nhận đầu

tư trong ngắn hạn. Còn về lâu dài, các thu nhập ngắn hạn không phản ánh
đúng sức mạnh của nền kinh tế sẽ khiến các công ty đa quốc gia rút vốn, từ
đó gây khó khăn về tài chính cũng như không có đủ nguồn lực phát triển
kinh tế xã hội.
-

Khó khăn trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô và thúc đẩy các


ngành sản xuất phát triển do có sự thao túng giá và thị trường.
-

Phá vỡ cân đối của cán cân thanh toán, làm chệch hướng các kế hoạch

kinh tế. Nếu việc này đi quá xa, nước thu hút đầu tư sẽ càng ngày càng bị lệ
thuộc vào nước chủ đầu tư về cả kinh tế và chính trị.
I.

THỰC TRẠNG VỀ CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM:


Thực tế cho thấy, vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là khá rõ nét và đã được
khẳng định. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 15.000 dự án FDI còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký đạt 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106 tỷ
USD.
Các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, khu vực FDI
cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực nổi bật là
chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân
sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp (DN)
trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư…
Thống kê những năm qua cho thấy, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp
FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm

liên tiếp. TP. Hồ Chí Minh có tới gần 60% trong số trên 3.500 doanh nghiệp
FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm; Tương tự tại tỉnh Lâm Đồng
với 104/111 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ liên tục; tỉnh Bình Dương, một
trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI, cũng có đến 50% doanh
nghiệp FDI báo cáo lỗ từ năm 2006 – 2011.
Theo báo cáo gần đây nhất vào đầu năm 2018 của VCCI (Vietnam Chamber
of Commerce and Industry), có đến 37.9% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ
trong năm 2017. Con số này đã giảm nhiều so với con số 50% doanh nghiệp
báo lỗ vài năm trước đây. Tuy nhiên, tình trạng chuyển giá của các doanh
nghiệp FDI vẫn là vấn đề khiến các cơ quan thuế phải đau đầu.


1.

Một số phi vụ chuyển giá “kinh điển” ở Việt Nam



Tình huống Coca Cola Việt Nam:

Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá, phải
nói đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh doanh
tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của
công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950
tỷ đồng.
Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu
nhập DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như
vậy nhưng DN này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.



Tình huống PepsiCo Việt Nam:

Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến
hơn 1.200 tỷ đồng là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm
1991, gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới
có lãi nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy,
PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở
Đồng Nai (45 triệu USD), Bắc Ninh (73 triệu USD).


Tình huống Metro Việt Nam:

Metro Việt Nam bắt đầu kinh doanh ở Việt Nam từ đầu năm 2002 với số vốn
ban đầu là 120 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 36 triệu USD.
Sau khoảng 12 năm hoạt động, 2002-2013, Metro Việt Nam đã 6 lần thay
đổi giấy phép kinh doanh, nâng tổng vốn đầu tư tại Metro Việt Nam lên hơn
301 triệu USD vào tháng 5/2013.


Điều đáng lưu ý là trong giai đoạn này, Metro Việt Nam liên tục kê khai lỗ
với số lỗ lũy kế lên đến 1.657 tỉ USD và chỉ duy nhất năm 2010 là có lãi 173
tỉ đồng.
Mặc dù lỗ nhưng Metro Việt Nam vẫn tiếp tục mở thêm 19 điểm bán lẻ trên
toàn quốc. Từ kết quả này, cơ quan thanh tra thuế đã vào cuộc và xác định có
hành vi chuyển giá, qua đó yêu cầu Metro Việt Nam điều chỉnh giảm lỗ,
giảm khấu trừ và truy thu thuế với số tiền lên đến hơn 500 tỉ đồng, đồng thời
xác định Metro Việt Nam đã có lãi trong 2 năm 2010 và 2011 với số tiền
234,8 tỉ đồng.
Trong số này, khoản điều chỉnh giảm lỗ lớn nhất liên quan đến phí nhượng
quyền thương mại, các khoản chi phí không liên quan đến hoạt động kinh

doanh của Metro Việt Nam, chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí
trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi, … với số tiền lên đến 335 tỉ đồng.
Do những khoản chi phí quá lớn và bất hợp lý được hạch toán vào chi phí
của Metro Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là chi phí nhượng quyền thương
mại, đã khiến cho công ty này liên tục báo lỗ trong hàng chục năm.
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2002 - 2013, chi phí
nhượng quyền thương mại mà Metro Việt Nam phải trả cho công ty mẹ ở
Đức đã lên tới 731 tỉ đồng.
Bên cạnh đó, chi phí lương, thưởng và phụ cấp cho ban giám đốc và chuyên
gia nước ngoài trả cho các cá nhân thông qua Metro Cash & Cary GmbH
(MCC) tại Đức cũng là một con số rất lớn, lên tới 699 tỉ đồng.
Theo Tổng cục Thuế, đây là những giao dịch liên kết mánh lới để Metro Việt
Nam chuyển giá.


2.

Thực trạng hoạt động chuyển giá ở Việt Nam

Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các doanh nghiệp FDI khai kinh
doanh thua lỗ thường tập trung trong lĩnh vực gia công may mặc, da giày;
sản xuất, kinh doanh chè xuất khẩu; công nghiệp chế biến…
Đặc biệt, ở TP. Hồ Chí Minh, có đến 90% doanh nghiệp FDI hoạt động trong
lĩnh vực may mặc có kết quả kinh doanh thua lỗ trong khi hầu hết các doanh
nghiệp trong nước cùng ngành nghề đều có lãi. Mặc dù thua lỗ triền miên
song các doanh nghiệp FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh
thay vì phải phá sản hay đóng cửa sản xuất.
Trước vấn nạn chuyển giá ngày càng gia tăng, năm 2012, Tổng cục Thuế
xây dựng chương trình thanh tra kiểm soát giá chuyển nhượng trong giai
đoạn 2012-2015, đồng thời, quyết định thành lập Tổ quản lý giá chuyển

nhượng. Chỉ tính trong 3 năm kể từ khi Tổng cục Thuế thành lập Tổ quản lý
giá chuyển nhượng đã phát hiện nhiều vụ việc chuyển giá, với giá trị điều
chỉnh rất lớn. Tại các Cục thuế địa phương đều đã quyết liệt thực hiện thanh
tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa tình trạng chuyển giá của các doanh nghiệp.
Tại Cục thuế TP.Hồ Chí Minh, ngay trong năm 2012, cơ quan này đã thanh
tra doanh nghiệp kê khai lỗ và doanh nghiệp giao dịch liên kết có dấu hiệu
chuyển giá. Kết quả, đã giảm lỗ hơn 2.688,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 86,8 tỷ
đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 2.611 tỷ đồng.
Riêng thanh tra 16 doanh nghiệp dệt may có dấu hiệu chuyển giá, Cục thuế
Thành phố đã giảm lỗ 367,8 tỷ đồng và truy thu 11,3 tỷ đồng. Chiêu thức
chuyển giá của doanh nghiệp dệt may là khai tăng chi phí nguyên liệu đầu
vào, giá gia công sản phẩm thấp dẫn tới thua lỗ triền miên. Cũng trong năm
2012, tại Đồng Nai, cơ quan thuế thanh tra giá chuyển nhượng tại một doanh


nghiệp FDI sản xuất sợi (vốn đầu tư 7 triệu USD) khai lỗ hơn 2.100 tỷ đồng.
Kết quả, đã buộc doanh nghiệp giảm hết số lỗ khai báo và xác định thu nhập
chịu thuế hơn 1.100 tỷ đồng.
Kết quả thanh tra đã giúp ngân sách không bị thất thu hơn 340 tỷ đồng và có
cơ sở để đấu tranh với các doanh nghiệp chuyển giá khác. Trong đó, tập
trung thanh tra doanh nghiệp FDI ở 5 lĩnh vực là bất động sản, xây dựng (Hà
Nội), dệt may (TP. Hồ Chí Minh), sản xuất sợi vải (Đồng Nai), sản xuất lắp
ráp ô tô (Vĩnh Phúc), sản xuất cơ khí (Bình Dương). Hàng loạt doanh nghiệp
liên tục báo lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sẽ bị đưa vào tầm ngắm thanh tra.
Tháng 9/2012, Cục Thuế TP. Hà Nội đã tiến hành thanh tra chuyển giá tại
Công ty TNHH một thành viên Keangnam Vina. Đây là doanh nghiệp 100%
vốn của Hàn Quốc (thành lập năm 2007) nhưng liên tục báo lỗ với tổng số lỗ
lũy kế đến hết năm 2011 là 277 tỷ đồng.
Có nhiều nghi vấn chuyển giá trong các giao dịch liên kết đang được cơ
quan thuế làm rõ, như Keangnam Vina trả lãi suất tiền vay tới 12%/năm (lãi

suất của ngân hàng Việt Nam từ 5-7%/năm) cho khoản vay 400 triệu USD từ
ngân hàng Kookmin bank (Hàn Quốc)- thành viên trong cùng tập đoàn; trả
phí dàn xếp vốn tới 30 triệu USD cho nhà thầu chính- Cty Keangnam
Enterprises.Ltd. Và nhiều khoản chi phí khác lên tới vài triệu USD…
Sau nhiều cuộc làm việc, Keangnam Vina đã chịu điều chỉnh giảm lãi suất
vay vốn xuống mức thấp hơn, giảm lỗ. Hiện, cơ quan thuế đang phân tích hồ
sơ, làm rõ các chi phí không hợp lý trong các giao dịch giữa Keangnam Vina
và đối tác…
Trong năm 2013, ngành Thuế tiếp tục đẩy mạnh, tập trung nhân lực vào
công tác trọng tâm chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDI có giao
dịch liên kết, liên tục khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh
doanh. Theo đó, kết quả thanh tra, kiểm tra tại 2.110 doanh nghiệp đã truy


thu, truy hoàn, phạt hơn 988 tỷ đồng, giảm khấu trừ 136,95 tỷ đồng. Đặc biệt
thanh tra thuế đã buộc doanh nghiệp phải giảm lỗ lên tới hơn 4.192 tỷ đồng.
Theo đánh giá của thanh tra, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực
doanh nghiệp FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình quân trên 1
doanh nghiệp là 1,73 tỷ đồng.
Tuy nhiên, con số trên chỉ phản ánh một góc của bức tranh về thực trạng trốn
thuế của doanh nghiệp FDI. Báo cáo của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế
trên cả nước thực sự khiến không ít người phải giật mình. Cụ thể, kết quả
thanh tra tại 870 doanh nghiệp FDI có tới 720 doanh nghiệp vi phạm. Đáng
lưu ý là tại một số đơn vị, tỷ lệ vi phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc
Giang thanh tra 16 doanh nghiệp thì cả 16 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra
tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)…
Tại một số tỉnh, thành khác dù không đến 100% nhưng tỷ lệ này cũng rất lớn
như Hà Nội thanh tra 332 doanh nghiệp thì phát hiện có 326 đơn vị vi phạm,
số tiền giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng, truy thu, phạt, truy hoàn gần 498 tỷ đồng.
TP Hồ Chí Minh thanh tra 193 doanh nghiệp FDI, có tới 164 doanh nghệp vi

phạm, giảm lỗ hơn 870 tỷ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỷ đồng. Còn tại
1.240 doanh nghiệp bị kiểm tra, có tới 942 doanh nghiệp vi phạm. Cục thuế
Bắc Giang kiểm tra 106 doanh nghiệp, có 106 doanh nghiệp vi phạm, tỷ lệ
này cũng xảy ra tại Đồng Nai 39/39, Gia Lai 30/30, Hải Phòng 45/45, Thái
Nguyên 46/46, Quảng Ngãi 80/80…
Năm 2014, ngành Thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra chống chuyển giá tại
2.866 doanh nghiệp khai báo kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp nghi ngờ có
dấu hiệu chuyển giá và doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết, tăng
80% so với năm 2013. Kết quả là, cơ quan thuế đã, giảm lỗ hơn 5.830 tỷ
đồng, truy thu, truy hoàn và phạt gần 1.701 tỷ đồng, so với năm 2013 tăng
tương ứng gần 82% và 112%.


Trong đó, qua thanh tra, kiểm tra đối với 30 doanh nghiệp FDI có giao dịch
liên kết, rủi ro cao về chuyển giá, cơ quan thuế đã giảm lỗ trên 1.600 tỷ
đồng, sau khi miễn giảm thuế do ưu đãi đầu tư, đã truy thu thuế thu nhập
doanh nghiệp và xử phạt vi phạm trên 600 tỷ đồng.
Tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2015, ngành Thuế đã kiểm tra và phát hiện
1.600 doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá.
II.

Giải pháp chống chuyển giá trong lĩnh vực FDI ở Việt Nam

1.

Việt Nam đã làm gì để chống chuyển giá ?

Trước tình trạng chuyển giá để né thuế của các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp FDI, với những thủ đoạn tinh vi và mức độ ngày càng trầm
trọng, cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương đã có nhiều nỗ lực trong

công cuộc chống chuyển giá, cả trên phương diện pháp lý cũng như thực tế
triển khai và ghi nhận những thành công bước đầu.
Quy định về định giá chuyển giao được đề cập lần đầu tiên tại Thông tư số
74 TC/TCT ngày 20/10/1997 của Bộ Tài chính, với 3 phương pháp định giá
chuyển giao giữa các công ty liên kết. Tiếp đó, Thông tư số 89/1999/TTBTC ban hành ngày 16/7/1999 và Thông tư số 13/2001/TT-BTC ngày
08/03/2001 của Bộ Tài chính đã sửa đổi, bổ sung các nội dung của Thông tư
số 74 TC/TCT. Ở giai đoạn đầu thiết lập thể chế, nhìn chung các quy định về
định giá chuyển giao chỉ ở mức độ sơ sài, thiếu hướng dẫn chi tiết, chưa sát
với thực tế. Do vậy, mặc dù Thông tư số 89/1999/TT-BTC và Thông tư số
13/2001/TT-BTC được ban hành từ khá lâu nhưng trên thực tế lại chưa được
triển khai áp dụng.
Đến giai đoạn 2005-2011, trên cơ sở phân tích những hạn chế của các văn
bản hiện hành và tham khảo kinh nghiệm các nước, ngày 19/12/2005 Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 117/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc


xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ
liên kết với nội dung khá phù hợp với hướng dẫn của OECD. Tuy nhiên, dù
thông tư này đã đưa ra các hướng dẫn khá chi tiết về phạm vi áp dụng,
nguyên tắc giá thị trường, định nghĩa về giao dịch liên kết, các bên liên kết
và 5 phương pháp xác định giá chuyển giao… nhưng do phạm vi điều chỉnh
hẹp, lại chưa quy định rõ cơ sở sự “nghi ngờ” của cơ quan thuế về tính trung
thực trong kê khai các giao dịch của đối tượng nộp thuế, nên hiệu quả áp
dụng còn hạn chế.
Nhằm sửa đổi một số điểm quan trọng về kỹ thuật nghiệp vụ theo hướng
chặt chẽ hơn, ngày 22/4/2010 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
66/2010/TT-BTC quy định việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên
kết, thay thế Thông tư 117/2005/TT-BTC. Về cơ bản Thông tư số
66/2010/TT-BTC vẫn bao gồm phần lớn nội dung đã được đề cập đến trong
Thông tư 117/2005/TT-BTC và giữ nguyên toàn bộ 24 ví dụ minh họa cho

nội dung các phương pháp. Bên cạnh một số điểm được sửa đổi, bổ sung để
phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, những quy định trong quy trình thanh,
kiểm tra thuế đã được thay đổi cơ bản, thể hiện sự quyết tâm của cơ quan
quản lý thuế đến vấn đề định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Tiếp tục ý chí thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác chống chuyển
giá, trên cơ sở dự thảo do Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính xây dựng, ngày
20/11/2012 Quốc hội đã thông qua Luật số 21/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 1/7/2013. Trong đó
tại Điều 1, Khoản 6 và Khoản 7 quy định rõ: “Cơ quan thuế áp dụng cơ chế
thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) với người
nộp thuế, với cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với


thuế thu nhập…”. Trên cơ sở quy định của Luật Quản lý thuế và Nghị định
số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Quản lý thuế, ngày 20/12/2013 Bộ Tài chính đã ban
hành Thông tư số 201/2013/TT-BTC hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận
trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế, có
hiệu lực từ ngày 5/2/2014. Đây là bước tiến lớn trong việc hoàn thiện khung
pháp lý, tạo nền tảng thuận lợi để cơ quan thuế Việt Nam có thể đấu tranh
chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI.
Cùng với nỗ lực trong việc thiết lập thể chế, công tác xây dựng nguồn nhân
lực và bộ máy quản lý giá chuyển giao cũng đã có những bước tiến đáng kể.
Theo đó, sau 3 năm thực hiện thí điểm mô hình Tổ quản lý thuế đối với hoạt
động chuyển giá thuộc Tổng cục Thuế và Tổ quản lý thuế đối với hoạt động
chuyển giá theo chuyên đề ở 5 cục thuế địa phương có nhiều doanh nghiệp
FDI, ngày 28/10/2015 Tổng cục Thuế đã thành lập hệ thống Phòng Thanh
tra giá chuyển nhượng tại Tổng cục Thuế và 4 cục thuế có nhiều rủi ro về

thuế liên quan đến chuyển giá là: Hà Nội, TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai.
Lực lượng chuyên trách tại cơ quan thuế trung ương đến địa phương được
kỳ vọng sẽ tạo nên bước chuyển biến mới trong công tác quản lý giá chuyển
nhượng, nhằm ngăn chặn có hiệu quả các hành vi gian lận thuế qua chuyển
giá.
Mặc dù đã ghi nhận những thành công bước đầu, nhưng không phủ nhận
công tác quản lý chống chuyển giá ở Việt Nam vẫn đang tồn tại một số hạn
chế, bất cập. Lớn nhất là cơ sở pháp lý cho công tác chống chuyển giá của
Việt Nam chưa cao, do chưa có luật chống chuyển giá riêng nên các qui định
pháp lý liên quan đến kiểm soát định giá chuyển giao còn chưa mang tính hệ
thống, làm hạn chế khả năng chống chuyển giá của cơ quan thuế. Tiếp đó,
mức độ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với các trường


hợp chuyển giá còn khá nhẹ, lại quy định chung với các hành vi vi phạm
khác về thuế nên chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng có hành vi chuyển
giá. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt về trình độ cán bộ, kỹ thuật thanh tra chuyên
đề, quy định ràng buộc về thời hạn thanh tra… cũng khiến chất lượng công
tác chống chuyển giá chưa cao.
Nhằm khắc phục những khuyết thiếu này, hiện nay Tổng cục Thuế đã và
đang hợp tác với Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam (EU), OECD,
Ngân hàng Thế giới (WB) để thực hiện chương trình đào tạo nâng cao năng
lực cho cán bộ công chức làm nhiệm vụ quản lý thuế đối với hoạt động
chuyển giá; đồng thời khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tỷ suất
lợi nhuận của các DN độc lập theo từng ngành nghề có rủi ro cao về chuyển
giá, làm cơ sở chung cho việc sử dụng và phân tích rủi ro phục vụ công tác
quản lý thuế đối với hoạt động định giá chuyển nhượng.
2.

Đề xuất một số biện pháp cho Việt Nam


Để giải quyết triệt để vấn đề chuyển giá, Việt Nam vẫn cần phải đầu tư tìm
hiểu nghiên cứu sâu hơn nữa để tìm ra các giải pháp hiệu quả linh động để
đối đầu với các thủ thật tinh vi của hoạt động chuyển giá. Sau đây là một số
giải pháp có thể giúp giảm nhẹ gánh nặng của chuyển giá trong FDI


Đưa quy định về Chống chuyển giá vào Luật, có chế tài thích đáng

chính thức cho hành vi chuyển giá để tránh các hành vi lách luật, chối bỏ
trách nhiệm của các MNC, thuận tiện và thống nhất cho việc xét xử ở tất cả
các trường hợp trên lãnh thổ Việt Nam. Không ngừng hoàn thiện các điều
luật chống chuyển giá, mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc xác định giá
chuyển giao.


Thu hẹp các ưu đãi thuế. Chênh lệch thuế thu nhập DN giữa các

quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập DN trong một quốc gia do áp


dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế là tiền đề để
các DN thực hiện hành vi chuyển giá.


Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá cả của các loại hàng hóa được giao

dịch giữa các công ty độc lập và công ty liên kết. Giao dịch liên kết của các
doanh nghiệp FDI diễn ra đa dạng, phức tạp, trong khi đó, nguồn dữ liệu đặc
thù để so sánh giá giao dịch chưa được xây dựng ở Việt Nam. Do đó, khi

một nghiệp vụ mua bán nội bộ xảy ra, các cơ quan chức năng rất khó khăn
trong việc tìm kiếm một nghiệp vụ mua bán tương đương để so sánh và xác
định xem nghiệp vụ này có tuân theo nguyên tắc giá thị trường hay không.
Để từng bước nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chuyển giá, các cơ quan
chức năng cần sớm hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về giá chuyển giao để
làm căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các giao dịch chuyển giá.


Thành lập bộ phận chuyên trách quản lý thuế đối với hoạt động

chuyển giá tại cơ quan thuế. Đây chính là bộ phận có chức năng chuyên thu
thập thông tin phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. Đội ngũ
chuyên viên này cần được đào tạo về chuyên môn, kỹ năng, ngoại ngữ, trang
bị phương tiện làm việc tốt nhằm nắm bắt và cập nhật kịp thời giá cả thị
trường thế giới. Công việc kiểm soát giá cả phải được thực hiện thường
xuyên, nhằm tránh tình trạng các DN FDI lách luật.


Thiết lập cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá

theo nguyên tắc giá thị trường (advance pricing agreement - APA) để
chống chuyển giá. Đây là một biện pháp hiệu quả cho quản lý chống chuyển
giá bên cạnh việc thanh tra, kiểm tra, vì đây là một cách thỏa thuận giữa cơ
quan thuế và người nộp thuế về phương pháp xác định giá giao dịch, chỉ cần
DN giao dịch dưới giá thỏa thuận, Cục thuế sẽ phát hiện ngay.


Nhìn chung, trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, sự tăng cường
ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao sản xuất kinh doanh cùng tính cạnh tranh
khốc liệt, trốn và lách thuế là một trong những cách để các doanh nghiệp

tăng lợi nhuận đầu tư. Bài học kinh nghiệm thấy được từ những nước đang
phát triển cho thấy để tránh bị lợi dụng trong công tác thu thuế, Việt Nam
không chỉ cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong các cơ sở, ban ngành, mà
còn cần có những cơ chế hiệu quả hơn để “rào” trước những rủi ro, thách
thức này.
IV.

MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ ĐỐI PHÓ VỚI CHUYỂN GIÁ TỪ MỘT SỐ

QUỐC GIA KHÁC
Trong bối cảnh đầu tư trực tiếp ngày càng gia tăng và xuất hiện ở hầu hết
các quốc gia, chuyển giá trở thành bài toán nan giải không chỉ với bất cứ
nước nhận đầu tư nào. Tuy mỗi Chính phủ có cách khác nhau để xử lí vấn đề
chuyển giá nhưng đây sẽ là kinh nghiệm cho Việt Nam khi các chính sách
còn hạn chế và chưa hiệu quả và nền kinh tế chưa thực sự vững vàng, vẫn
cần thu hút rất nhiều dòng vốn từ nước ngoài.
1.

OECD

Từ những năm 1980, những quy định về chống chuyển giá đã được các nước
phát triển nhóm OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) đưa ra.
Mười năm sau đó, các biện pháp chống chuyển giá cũng được Trung Quốc
xây dựng và thực hiện.
Theo đó, các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu hầu như không áp dụng các
cơ chế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp vì họ cho rằng nếu quản lý thuế
không chặt chẽ sẽ dẫn đến hệ quả bị trốn thuế và tránh thuế.


Lập luận này xuất phát từ thực tế là các tập đoàn đa quốc gia thường có

những chuyên gia thuế nhằm xây dựng các phương án, kế hoạch đầu tư tính
toán vào nước nào để đạt được kết quả số thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp là thấp nhất cho thu nhập của toàn bộ tập đoàn.
Cơ chế thỏa thuận giá trước APA
Cơ chế APA (Advance pricing agreement) là một dạng thoả thuận trước bằng
văn bản về phương pháp xác định giá chuyển giao được thiết lập giữa các
bên có quan hệ liên kết trước khi diễn ra giao dịch, và văn bản này được
thông qua giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế. Với một sự thỏa thuận
trước về phương pháp tính giá giữa các bên liên quan, cơ quan thuế các nước
vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật tại nước xuất
khẩu vốn và nước nhận đầu tư, vừa có thể quản lý được vấn đề chuyển giá
theo nguyên tắc thị trường.
Những lợi ích mà cơ chế APA mang lại đã và đang được công nhận ở nhiều
nước phát triển trên thế giới. Cơ chế này không chỉ rào trước các thỏa thuận
về giá, mà còn dựng nên sự chắc chắn trong việc áp dụng các nguyên tắc
định giá chuyển giao theo định kỳ cho cả người nộp thuế và cơ quan thu
thuế.
Sử dụng mức giá thị trường
Chuyển giá hay trốn thuế, tránh thuế đang tồn tại khắp nơi và dưới nhiều
hình thức, hiện nay một trong những hình thức đã được áp dụng khá phổ
biến là giám sát dựa trên nguyên tắc xác định giá thị trường. Theo đó, giá thị
trường tại thời điểm diễn ra thỏa thuận, giao dịch định kỳ sẽ được so sánh
với một giao dịch tương tự trên thị trường. Phương pháp này đảm bảo được


tính khách quan trong việc điều tra về mức giá chuyển giao giữa các bên liên
quan. Tuy nhiên, bất cập đặt ra khi một số ngành đặc thù không có sản phẩm
tương ứng trên thị trường thì không có mức giá nào để so sánh. Hơn nữa, tại
Việt Nam, hiện vẫn chưa có một cơ quan nào chuyên trách về việc xác định
giá thị trường của một sản phẩm, dịch vụ, chính vì thế sẽ không có căn cứ

nào để xác định có chuyển giá hay không.
2.

Hongkong

Ngày 4 tháng 7 năm 2018, Hongkong đã thông qua Dự luật sửa đổi Luật
thuế và chuyển giá năm 2017. Dự luật được công bố và chính thức trở thành
luật của Hongkong vào ngày 13 tháng 7 năm 2018.
Tương tự OECD, các biện pháp được đưa ra trong lần sửa đổi này gồm


Hình thành các quy tắc về chuyển giá



Yêu cầu thu nhập hoặc tổn thất từ các khoản giao dịch giữa những

người có liên quan sẽ được tính toán trên cơ sở chiều dài nhánh cho mục
đích thuế.


Phát triển cơ chế thỏa thuận giá trước APA



Yêu cầu về tài liệu của các giao dịch giữa các bên liên quan (giao dịch

trong nhóm và giao dịch nội bộ)



Đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp theo luật định cho các tranh

chấp liên quan đến hiệp ước thuế xuyên biên giới


Củng cố hệ thống tín dụng thuế hiện hành



Sửa đổi sự ưu đãi về thuế thu nhập cho các công ty MNC.

3.

Liên Bang Nga


Nền kinh tế Nga trong thời gian vừa qua cũng đã đón nhận lượng vốn FDI
đáng kể và tình hình chuyển giá cũng diễn ra phức tạp. Những năm 1990, do
sự thiếu hụt lượng vốn FDI vào những lĩnh vực thiết yếu, chính phủ Nga chủ
trương cải cách nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường phi tập trung, định
giá thấp đồng nội tệ, tư hữu hóa và liên doanh với các doanh nghiệp nước
ngoài (Vasilyev, 2000).Đồng thời, Chính phủ Nga cũng đề ra hàng loạt chính
sách ưu đãi thu hút FDI như giảm thuế thu nhập cho chi nhánh công ty đa
quốc gia, thiết lập hàng loạt các khu vực miễn hoặc ưu đãi thuế cho doanh
nghiệp FDI. Tận dụng ưu đãi này, các chi nhánh công ty đa quốc gia tại Nga
thường xuyên thực hiện các giao dịch chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi ích
thông qua giảm thiểu số thuế phải nộp. Lĩnh vực kinh doanh dầu thô là lĩnh
vực hoạt động chuyển giá phổ biến nhất, gây thiệt hại nặng nề cho nguồn thu
Chính phủ do nguồn lực đầu tư và lợi nhuận vô cùng lớn.
Biện pháp Nga lựa chọn là dùng chế tài mạnh mẽ để xử phạt các công ty đa

quốc gia này, thu về khoản tiền phạt bù cho số thuế đã bị thất thu.
Tập đoàn Dầu mỏ Yukos là một điển hình về chuyển giá đã bị Chính phủ
Nga xử lý năm 2012. Công ty này đã thành lập hàng loạt các công ty liên kết
tại Thụy Sĩ, Gibraltar, Panama để thực hiện các thủ thuật chuyển giá, qua đó,
đã giảm 210 tỷ rúp doanh thu tại Nga trong năm 2000. Theo Chính phủ Nga,
Yukos đã bán dầu thô thấp hơn giá thị trường cho các công ty liên kết trên
(được đặt tại vùng thuế ưu đãi).
Các công ty này lại bán lại dầu cho thị trường Nga và nước ngoài theo mức
giá thị trường. Tập đoàn Yukos kiểm soát toàn bộ mọi hoạt động và tài chính
của các công ty liên kết thông qua vị trí của giám đốc, quyền hạn của luật sư
và các thỏa thuận với công ty liên kết mà theo đó Yukos đã tổ chức mua bán,


vận chuyển, chế biến và giao hàng. Hầu hết các giao dịch của công ty liên
kết này đều đã được thực hiện với các chi nhánh của Yukos.
Theo báo cáo của Bộ Phát triển Kinh tế Nga, tăng trưởng GDP của Nga luôn
phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu thừ xuất khẩu dầu mỏ. Trước tình hình
chuyển giá diễn ra phức tạp, Luật Thuế 2012 của Nga ra đời và có hiệu lực
với nhiều điểm mới nhằm mục đích đưa các giao dịch có nghi vấn chuyển
giá vào diện kiểm soát và thực hiện xét xử các gian lận chuyển giá khi có
đầy đủ các bằng chứng. Tuy nhiên, số lượng các vụ chuyển giá bị xét xử cho
đến nay vẫn còn hạn chế.
Mới đây, vào ngày 27/1/2017, Toà án Tối cao Matxcova đã công bố quyết
định về vụ kiện Công ty Dầu Dulisma. Đây là vụ kiện tòa án đầu tiên áp
dụng các quy tắc về Định giá tài sản chuyển giao cho các giao dịch được
kiểm soát theo Luật thuế 2012 ở Nga. Từ năm 2012, Công ty Dulisma đã
bán dầu cho các chi nhánh kinh doanh đặt trụ sở ở Hồng Kông.
Bằng phương pháp so sánh giá không kiểm soát được và sử dụng cơ sở dữ
liệu Dầu khí của Platt (Platts) làm nguồn thông tin về giá thị trường cho các
sản phẩm tương tự, cơ quan thuế đã chứng minh rằng giá chuyển giao mà

Dulisma áp dụng thấp hơn giá trị và đánh thuế thu nhập bổ sung. Dulisma đã
phải chịu hình phạt là 177,3 triệu rúp (khoảng 2,8 triệu EURO).


KẾT LUẬN
Hiện nay, Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Bên cạnh những tác động tích cực, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối
mặt cũng không ít thách thức. Điều đó tất yếu dẫn đến sự ra đời ngày càng
nhiều hơn các công ty, tập đoàn kinh tế đa quốc gia với các “chân rết” là các
công ty con, các công ty trực thuộc đặt tại nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới.
Một trong những yêu cầu đặt ra là, công tác quản lý thuế phải có những thay
đổi để phù hợp hơn với các thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng
cường quản lý, giám sát công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo lợi ích quốc
gia về quyền thu thuế. Nổi lên trong đó là vấn đề chống chuyển giá. Với
chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, các doanh nghiệp FDI đã trở thành một
phần tích cực trong nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm
gần đây, tình hình các doanh nghiệp FDI “lỗ giả, lãi thật” kéo dài nhiều năm
làm ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh không
lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước. Tình hình chuyển giá đã và
đang là một thực trạng đáng báo động ở Việt Nam hiện nay. Chống chuyển
giá là bài toán khó đối với nhiều quốc gia, không riêng gì ở Việt Nam. Đã
đến lúc các ngành chức năng, các địa phương cần kiên quyết và quyết liệt
hơn nữa trong thực hiện các biện pháp đồng bộ chống chuyển giá, để tránh
những thua thiệt khi thu hút FDI.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> /> />




×