CHƯƠNG 1.
1.1.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI NỘI NGÀNH
Khái niệm thương mại nội ngành
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, đã có nhiều lý thuyết mới được xậy dựng để bổ
sung cho các lý thuyết thương mại quốc tế cổ điiển và tân cổ điển. Theo lý thuyết của
Heckscher-Ohlin, khác biệt về sự dồi dào các yếu tố sản xuất là nguồn gốc của lợi thế
so sánh. Trong khi đó, lợi thế so sánh là một yếu tố quyết định đến thương mại quốc tế.
Do vậy, thương mại quốc tế dựa trên lợi thế so sánh là thương mại liên ngành. Tuy
nhiên, trên thực tế mô hình của Heckscher-Ohlin đã không giải thích được hiện tượng
thương mại giữa các quốc gia tương đồng nhau với sự dồi dào các yếu tố sản xuất như
nhau. Đây chính là điểm xuất phát của lý thuyết thương mại mới, thương mại nội
ngành (IIT). Leontief đã công bố bài báo chứng minh về mặt thực nghiệm định lý của
Heckcher-Ohlin, cho rằng: Nước nào có lợi thế về vốn sẽ xuất khẩu hàng hóa sử dụng
nhiều vốn như sắt, thép, ô tô,… nước nào có lợi thế về lao động sẽ xuất khẩu hàng hóa
sử dụng nhiều lao động như giầy dép, quần áo… Sử dụng bảng đầu vào, đầu ra năm
1947 của Mỹ, ông muốn kiểm định giả thuyết rằng nước Mỹ có lợi thế so sánh đối với
hàng hóa sử dụng nhiều vốn và do đó sẽ xuất khẩu hàng hóa sử dụng nhiều vốn và
nhập khẩu hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Kết quả thật đáng ngạc nhiên: Hàng hóa
xuất khẩu của Mỹ sử dụng nhiều lao động hơn so với hàng nhập khẩu, điều này trái
với mô hình Heckcher- Ohlin.
Hiện tượng này là thách thức với các lý thuyết truyền thống về thương mại quốc
tế cho rằng: Việc trao đổi hàng hóa giữa các nước là do sự khác nhau về nguồn lực
hoặc nhân tố sản xuất. Bằng chứng thực tế chỉ ra rằng các nước có trang bị nguồn lực
tương tự nhau nhập khẩu và xuất khẩu đồng thời các sản phẩm tương tự thuộc một
ngành. Để giải thích hiện tượng này các lý thuyết thương mại mới ra đời trong đó có
lý thuyết thương mại nội ngành (Intra Industry Trade- IIT). Theo Grubel và Lloyd
(1975), IIT là việc mua bán đồng thời hàng hóa giống nhau hoặc tương tự nhau. Nó có
thể xảy ra trong cùng một ngành và có thể ở cùng một giai đoạn sản xuất hoặc có thể ở
các giai đoạn sản xuất khác nhau. Phan Tú Anh và các đồng nghiệp (2014) cho rằng
IIT là việc đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu những loại hàng hóa thuộc cùng một
ngành hay là nhóm hàng theo phân loại tiêu chuẩn hàng hóa.
2
Tóm lại, thương mại nội ngành được định nghĩa là thương mại hai chiều, là việc
xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời các sản phẩm trong cùng một ngành dựa trên phân
cấp hàng hóa theo tiêu chuẩn phân loại hàng hóa quốc tế.
1.2.
Đo lường thương mại nội ngành
Chỉ số Grubel và Lloyd (Grubel, Herbert G.; Lloyd, Peter J. (1975)) là chỉ số
được sử dụng phổ biến nhất để đo lường IIT và được coi là phương pháp đánh giá
thích hợp về cơ cấu thương mại tại một thời kì:
Trong đó: là tỷ phần của thương mại nội ngành trong tổng thương mại của ngành
i
Xi, Mi lần lượt là giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của ngành i.
Phần còn lại là tỷ trọng thương mại liên ngành:
Chỉ số IIT nằm trong khoảng từ 0 đến 1:
•
IIT= 1: giá trị xuất khẩu bằng giá trị nhập khẩu, toàn bộ giá trị thương mại là
thương mại nội ngành
• IIT= 0: Chỉ có thương mại một chiều.
1.3.
Phương pháp phân loại thương mại nội ngành
Có rất nhiều lý thuyết về thương mại nội ngành và có thể chia chúng thành hai
loại là thương mại nội ngành theo chiều dọc (HIIT) và thương mại nội ngành theo
chiều ngang (VIIT).
1.3.1. Thương mại nội ngành theo chiều ngang
Thương mại nội ngành theo chiều ngang (Horizontal Intra Industry Trade – HIIT)
thể hiện sự trao đổi sản phẩm với các đặc tính khác nhau (các sản phẩm khác nhau về
chiều ngang) được sản xuất với sự chuyên sâu về yếu tố giống nhau, mô tả chất lượng
sản phẩm tương tự và bán tại mức giá như nhau. Thương mại nội ngành theo chiều
ngang liên quan đến sản phẩm tương tự xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời tại cùng một
giai đoạn của quá trình sản xuất và chủ yếu là do sự khác biệt về mặt sản phẩm.
Thương mại nội ngành theo chiều ngang xảy ra khi thị trường cạnh tranh hoàn
hảo với sự khác biệt hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng và
sử dụng tính kinh tế nhờ quy mô hay nói cách khác HIIT xuất hiện khi đồng thời xuất
khẩu và nhập khẩu hàng hoá trong cùng một ngành và trong cùng giai đoạn sản xuất.
3
Cụ thể, việc xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời điện thoại di động của Hàn Quốc trong
giai đoạn cuối cùng là một ví dụ cho thương mại nội ngành theo chiều ngang. Bởi vì
những chiếc điện thoại di động này được sản xuất sử dụng công nghệ tương tự nhau và
cung cấp các chức năng cũng tương tự nhau, chúng được phân loại cùng một ngành.
Tuy nhiên, điện thoại Samsung được xuất khẩu thì có một vài sự khác biệt trong hình
dáng và đặc điểm sản phẩm so với điện thoại Nokia được nhập khẩu.
1.3.2.
Thương mại nội ngành theo chiều dọc
Thương mại nội ngành theo chiều dọc (Vertical Intra Industrial Trade – VIIT)
liên quan đến thương mại của sản phẩm khác nhau về chất lượng, về công nghệ và
khác nhau về một số các yếu tố khác, vì vậy các sản phẩm cũng được bán ở các mức
giá khác nhau. Cụ thể hơn, thương mại nội ngành theo chiều dọc liên quan đến việc
xuất nhập khẩu hàng hóa đồng thời trong cùng một ngành, nhưng tại các giai đoạn sản
xuất khác nhau, và chủ yếu là do sự chuyên sâu về nhân tố trong một ngành.
Thương mại nội ngành theo chiều dọc bắt nguồn từ thị trường cạnh tranh độc
quyền từ việc chuyên môn hóa sản xuất theo công đoạn, như việc Trung Quốc có lợi
thế nhân công nên đã nhập khẩu linh kiện máy tính từ nước ngoài, sau đó lắp ráp thành
máy vi tính hoàn chỉnh và xuất khẩu trở lại cho các nước, trong khi Mỹ có lợi thế về
vốn và kỹ thuật cao nên tập trung nghiên cứu, thiết kế và sản xuất linh kiện máy tính.
Ngoài ra, thương mại các sản phẩm có chất lượng khác nhau cũng gây ra thương mại
nội ngành theo chiều dọc, trường hợp Ý nhập khẩu quần áo chất lượng thấp nhưng lại
xuất khẩu quần áo có chất lượng cao.
Các nhà kinh tế học quốc tế đã bỏ ra nhiều công sức để phân rã thương mại nội
ngành thành theo chiều dọc và theo chiều ngang. Đáng chú ý nhất là phương pháp
Kandogan (2003). Ông lập luận rằng sự khác biệt giữa HIIT và VIIT dựa trên chất
lượng, được thể hiện bởi giá. Do đó, ông đề xuất phương pháp phân rã thương mại nội
ngành thành VIIT và HIIT dựa trên kim ngạch xuất nhập khẩu tại các mức khác nhau
của việc gộp mà không cần dữ liệu lượng xuất khẩu và nhập khẩu. Mức gộp cao hơn
xác định các ngành và mức gộp thấp hơn xác định các sản phẩm khác nhau trong mỗi
ngành.
Bằng cách sử dụng mức độ gộp cao hơn (tại cấp ngành), tổng thương mại nội
ngành (IIT) được tính bằng kim ngạch xuất khẩu tương xứng với nhập khẩu. Thương
4
mại nội ngành theo chiều ngang được tính bằng kim ngạch thương mại tương xứng
trong mỗi sản phẩm của một ngành bằng cách sử dụng mức gộp thấp hơn (tại cấp sản
phẩm). Phần còn lại của thương mại nội ngành là thương mại nội ngành theo chiều
dọc, là thương mại của các sản phẩm khác nhau hoặc các sản phẩm ở các giai đoạn
khác nhau trong một ngành. Phần không tương xứng của tổng thương mại (TT) trong
ngành được coi là thương mại liên ngành (INT). Cụ thể như sau:
Tổng thương mại:
TTi = ∑p(Xip + Mip) = Xi + Mi
Thương mại nội ngành:
IITi = TTi – |Xi – Mi|.
Thương mại liên ngành:
INTi = TTi – IITi.
Thương mại nội ngành theo chiều ngang:
HITi = ∑p (Xip + Mip - |Xip –
Mip|).
Khi đó thương mại nội ngành theo chiều dọc:
VIITi = IITi – HIITi.
5
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NỘI NGÀNH CỦA
VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC CHÂU Á
2.1.
Khái quát chung về tình hình thương mại nội ngành ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập toàn cầu có tác
động rất lớn đối với nền kinh tế thế giới, đặc biệt tạo điều kiện cho thương mại quốc tế
phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Không nằm ngoài xu hướng này, Việt Nam vẫn
đang tích cực mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thương mại tự do giúp cho nền
kinh tế nội địa liên tục tăng trưởng. Đóng góp vào sự phát triển đó không thể không kể
đến vai trò to lớn của thương mại nội ngành.
Trước hết ta tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với một số nước
Châu Á tiêu biểu có tỷ trọng thương mại lớn trong giai đoạn 2011-2015 qua biểu đồ
dưới đây.
Biểu đồ 2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam với một số nước châu Á
năm 2011-2015
Nguồn: UNSTAT
Có thể thấy, giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam không ngừng gia tăng trong giai
đoạn này. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy Việt Nam đang ngày càng hội nhập
sâu rộng vào các nước khu vực châu Á nói riêng và trên thế giới nói chung. Tuy nhiên
giá trị nhập khẩu tăng mạnh và luôn vượt mức xuất khẩu rất nhiều, điều này cho thấy
nền kinh tế Việt Nam vẫn còn kém phát triển, cán cân luôn ở trạng thái nhập siêu, bị
phụ thuộc nhiều vào các nước khác. Trong số các đối tác kinh tế tiêu biểu thuộc khu
vực Châu Á, Trung Quốc là thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Giá trị
xuất nhập khẩu tại thị trường Trung Quốc cũng liên tục tăng mạnh qua các năm. Kế đó
là thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan cũng có quan hệ thương mại tương đối
sâu rộng với thị trường hàng hóa Việt Nam.
6
Việt Nam thương mại với các nước khu vực Châu Á ở cả 10 nhóm ngành lớn. Tỉ
trọng thương mại nội ngành của mỗi nhóm hàng này thay đổi liên tục qua từng năm.
Vì vậy, dưới đây là nghiên cứu tỉ trọng của các nhóm hàng này năm 2015 để thấy được
mức độ thương mại nội ngành mới nhất của Việt Nam.
Bảng 2.1 Giá trị xuất nhập khẩu của các nhóm hàng lớn của Việt Nam với các
nước châu Á năm 2015
Đơn vị: USD
Tên nhóm hàng
Xuất khẩu
Nhập khẩu
0 - Lương thực, thực phẩm và động vật sống 7883179028
2515880413
1- Đồ uống và thuốc lá
145918788
349923243
2 - Nguyên liệu thô, hàng phi lương thực, 3007201822
trừ nhiên liệu
1780677860
3 - Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên 3594436228
quan
6076068053
4 - Dầu, mỡ, sáp động thực vật
192272328
528709214
5 - Hoá chất và sản phẩm liên quan
2630350917
11834842874
6 - Hàng công nghiệp phân theo nguyên liệu
7929722804
29109092324
7 - Máy móc, phương tiện vận tải và phụ 1710964632 55302912133
tùng
0
8 - Hàng công nghiệp khác
11757336433 5990939900
9 - Hàng hóa không thuộc các nhóm trên
4699445
39244732
Nguồn: UNSTAT
7
Từ bảng trên, ta tính được chỉ số thương mại nội ngành cho các nhóm hàng lớn
như sau:
Biểu đồ 2.2 Biểu đồ thương mại nội ngành các nhóm hàng lớn của Việt Nam với
các nước châu Á năm 2015
Nguồn: UNSTAT
Từ biểu đồ có thể thấy mức độ thương mại nội ngành của Việt Nam với các nước
châu Á ở mức trung bình. Các nhóm ngành có mức độ thương mại nội ngành cao nhất
phải kể đến nhóm 2 (nguyên liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu) chiếm khoảng
74.38% trong tổng thương mại của ngành. Tiếp đến là nhóm ngành số 3 (nhiên liệu
khoáng, chất bôi trơn và các vật liệu liên quan) cũng có mức độ thương mại nội ngành
cao xấp xỉ nhóm ngành số 2, khoảng 74.33% tổng thương mại ngành. Các nhóm ngành
còn lại đều có mức độ thương mại nội ngành ở mức trung bình hoặc thấp như nhóm
ngành số 5 (hóa chất và các sản phẩm liên quan) chỉ chiếm khoảng 36.37% tổng
thương mại ngành hay nhóm ngành số 9 chỉ chiếm khoảng 21.39% tổng thương mại
ngành.
Trong các nhóm ngành nêu trên, hai nhóm ngành có mức độ thương mại nội
ngành cao nhất là SITC 2 và SITC 3. Tập trung phân tích hai nhóm ngành này để thể
hiện thương mại Việt Nam không chỉ phát triển theo chiều rộng mà còn theo chiều sâu.
2.2.
Thương mại nội ngành nhóm hàng SITC 2 (Nguyên liệu thô, hàng phi
lương thực, trừ nhiên liệu)
Theo thống kê của UNSTAT, nhóm hàng SITC 2 đại diện cho Nguyên liệu thô
(hàng phi lương thực, trừ nhiên liệu). Nhóm hàng này có chỉ số thương mại nội ngành
cao nhất trong các nhóm hàng thương mại lớn giữa Việt Nam và các nước châu Á năm
2015 (0,7438). SITC 2 bao gồm 9 nhóm hàng nhỏ với kim ngạch xuất nhập khẩu trong
năm 2015 như bảng dưới đây:
Bảng 2.2 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với một số nước châu Á năm
2015 của nhóm hàng nhỏ trong SITC 2
Đơn vị: USD
8
Mã hàng
21 – Da và lông thô
Nhập khẩu
Xuất khẩu
8,193,909
5,500,519
22 - Hạt dầu và quả có dầu
19,046,398
23 - Cao su thô (kể cả tổng hợp và tự 307,875,76
nhiên)
6
24 – Nứa và gỗ
25 - Bột giấy và giấy phế liệu
13,094,943
822,524,484
1,527,786,73
64,467,870
4
87,385,787
4,036,218
26 - Sợi dệt (trừ len cuộn, len chải khác)
và phế liệu (không được sản xuất thành 352,849,29
sợi hoặc vải)
0
27 - Phân bón thô, trừ các loại 56 và các
khoáng chất thô (trừ than đá, dầu khí và 223,035,34
đá quý)
6
505,206,97
28 - Quặng kim loại và phế liệu kim loại
0
212,616,52
29 - Vật liệu động vật và thực vật thô
6
97,178,756
87,920,703
364,871,547
82,801,335
Nguồn: UNSTAT
9
Từ đó ta tính được chỉ số thương mại nội ngành của các nhóm hàng này như sau:
Biểu đồ 2.3 Thương mại nội ngành các nhóm hàng thuộc SITC 2 của Việt Nam
năm 2015
Nguồn: UNSTAT
Nhìn vào biểu đồ ta thấy các mã hàng SITC 28, 22 và 21 có chỉ số IIT rất cao
(trên 0,8), tiếp đến là mã hàng 23, 26, 27, 29 với chỉ số IIT ở mức trung bình (0,40,58), cuối cùng là nhóm hàng 24, 25 với chỉ số IIT rất thấp (dưới 0,1).
Điểm chung giữa các nhóm hàng SITC 28, 22 và 21 là có chênh lệch giữa xuất
và nhập khẩu nhỏ hơn nhiều so với tổng giá trị xuất nhập khẩu. Chính giá trị xuất và
nhập khẩu đều cao của các nhóm hàng này đã khiến phần chênh lệch giữa chúng nhỏ
dẫn tới chỉ số IIT cao.
Nhóm hàng Quặng và phế phẩm kim loại (SITC 28) có chỉ số thương mại nội
ngành cao nhất trong 9 nhóm trên (0,84), nguyên nhân là do chênh lệch giữa xuất và
nhập khẩu (140335423 USD) thấp hơn rất nhiều so với tổng giá trị xuất và nhập khẩu
(870078517 USD). Đây là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
đi các nước đặc biệt là Trung Quốc do có trữ lượng mỏ kim loại lớn, đa dạng, trong
năm 2015 giá trị xuất khẩu là 364,871,547 USD. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nhập khẩu
rất nhiều mặt hàng này (505,206,970 USD) là do:
Thứ nhất, các chính sách của chính phủ nhằm khuyến khích nguồn vốn FDI đã
•
làm gia tăng các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
nặng (sản xuất thép, cơ khí, điện tử…) khiến nhu cầu sử dụng kim loại tăng cao.
Thứ hai, công nghệ khai khoáng của chúng ta vẫn còn lạc hậu, quá trình khai
•
thác còn nhiều vướng mắc dẫn tới không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời nhu cầu sản
xuất các doanh nghiệp, nên các doanh nghiệp sẽ chọn nhập khẩu để giảm thiểu chi phí,
rủi ro.
10
•
Thứ ba, mỏ quặng là tài nguyên không tái sinh, hiện nay Việt Nam cũng như
các quốc gia khác đang thực hiện chính sách giảm dần lượng xuất khẩu loại tài nguyên
này, lưu trữ để sử dụng hợp lý.
Cũng như nhóm hàng SITC 28, nhóm hàng Hạt dầu và quả có dầu (SITC 22) có
chỉ số IIT ở mức rất cao là 0,81 do chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu (5951455 USD)
thấp hơn nhiều so với tổng giá trị xuất nhập khẩu (32141341 USD). Việt Nam xuất
khẩu nhiều mặt hàng này đặc biệt là đậu nành, lạc, dừa… với giá trị 13,094,943 USD.
Bên cạnh đó, giá trị nhập khẩu mặt hàng này cũng rất lớn (19,046,398 USD) nhất là
dầu oliu, dầu hướng dương. Việt Nam nhập khẩu dầu thực vật từ các thị trường như
Malaixia, Indonesia, Thái Lan… trong đó Malaixia là nguồn cung chính, chiếm 75,8%
thị phần, tiếp đến là Indonesia. Lượng nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu là do ngành hạt có
dầu không chỉ đáp ứng nhu cầu dầu thực phẩm của các hộ gia đình, dầu trong ngành
chế biến thực phẩm mà còn đáp ứng nhu cầu của ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm và
thủy hải sản. Nhu cầu hạt có dầu và các sản phẩm hạt có dầu của Việt Nam đang ngày
càng gia tăng do dân số tăng và sự phát triển kinh tế kéo theo nhu cầu các thực phẩm
sử dụng dầu và các sản phẩm hạt có dầu cũng gia tăng. Trong khi đó, sản lượng hạt có
dầu tăng rất chậm, do năng suất không tăng mà diện tích đất trồng đậu tương – cây chủ
lực cho hạt có dầu ở Việt Nam – bị cạnh tranh gay gắt với các loại cây trồng khác do
yếu tố lợi nhuận. Kết quả là Việt Nam phải phụ thuộc rất nhiều vào hạt có dầu và các
sản phẩm hạt có dầu thực vật nhập khẩu, đẩy giá thành tăng lên, đặc biệt với ngành
thức ăn chăn nuôi.
Nhóm hàng Da và lông thú thô (SITC 21) có chỉ số IIT cao là 0,80. Da và lông là
nguyên liệu đầu vào chủ yếu cho các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn ở Việt
Nam như dệt may, da, da giày...nên có giá trị nhập khẩu lớn (8,193,909 USD), đồng
thời, Việt Nam cũng dồi dào về mặt hàng này nên xuất khẩu đi rất nhiều với giá trị là
5,500,519 USD. Cũng như 2 nhóm ngành trên chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu
(2693390 USD) nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng xuất nhập khẩu (13694428 USD)
khiến chỉ số IIT của nhóm này cao.
11
Từ việc phân tích các nhóm hàng nhỏ có IIT cao trong SITC 2 cũng như dựa vào
số liệu về xuất nhập khẩu của nhóm này, ta có thể kết luận SITC 2 có giá trị IIT cao
nhất trong 9 mã hàng lớn là do sự chênh lệch giữa giữa xuất và nhập khẩu
(1226523962 USD) nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng xuất nhập khẩu (4787879682
USD). Tuy nhiên không giống như các nhóm 28, 21, 21 có giá trị nhập khẩu lớn hơn
xuất khẩu, SITC 2 có giá trị xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu.
Nguyên nhân có sự xuất và nhập khẩu đều lớn dẫn tới xuất khẩu ròng nhỏ ở
nhóm SITC 2 bởi đây là nhóm hàng nguyên liệu thô – một đầu vào nhập khẩu quan
trọng cho nhiều ngành công nghiệp và đầu ra xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Việt Nam vẫn còn đang trên đà công nghiệp hóa. Cơ cấu sản xuất công nghiệp
còn rất nhiều hạn chế. Nhìn tổng quát, công nghiệp của Việt Nam đến nay vẫn mang
nặng tính gia công, lắp ráp, khai thác nguyên liệu, tận dụng lợi thế của giá nhân công
rẻ. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển. Bởi công nghiệp chế tạo trong nước kém phát
triển dẫn tới cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam dựa quá nhiều vào các sản phẩm thô, thâm
dụng tài nguyên, thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng thấp.
Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI về nước ta lại chủ yếu làm gia công xuất
khẩu với phần lớn nguyên vật liệu nhập khẩu do nguyên liệu trong nước không đáp
ứng được yêu cầu của họ. Họ có rất ít kết nối với các doanh nghiệp trong nước. Nói
cách khác, các doanh nghiệp FDI đầu tư mạnh vào Việt Nam chỉ để giải bài toán về lao
động, tận dụng lao động giá rẻ của Việt Nam. Vì vậy, đóng góp của FDI trong việc cải
tiến công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất cho nước ta không đáng kể. Hơn nữa,
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, giao thương với nhiều đối
tác, các chính sách bảo hộ của chính phủ và rào cản thương mại không còn hiệu lực để
bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Nguyên liệu thô của chúng ta bị cạnh tranh gay
gắt còn giá của nguyên liệu đầu vào nhập khẩu cũng trở nên rẻ hơn nhiều so với trước
kia dẫn tới lượng nhập khẩu của doanh nghiệp ngày càng lớn.
2.3.
Thương mại nội ngành nhóm hàng SITC 3 (Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và
vật liệu liên quan)
Bảng 2.3 Giá trị xuất nhập khẩu các mã hàng trong nhóm SITC 3 năm 2015
12
Mã hàng
32 - Than đá, than cốc
và than bánh
Xuất Khẩu
40,962,405
Nhập Khẩu
720,925,012
33 - Dầu khí, sản phẩm
dầu mỏ và các vật liệu
liên quan
153,475,031
438,452,529
34 - Khí tự nhiên và đã
qua chế biến
118,510,299
317,377,812
35 - Dòng điện
62,805,005
257,053,085
Nguồn: UNSTAT
Từ bảng trên ta tính được chỉ số thương mại nội ngành nhóm hàng số 3 như dưới
đây:
Biểu đồ 2.4 Thương mại nội ngành nhóm hàng số 3 năm 2015
Nguồn: UNSTAT
Theo thống kê của UNSTAT, nhóm hàng số 3 đại diện cho Nhiên liệu, dầu mỡ
nhờn và vật liệu liên quan bao gồm bốn nhóm hàng nhỏ.
Thứ nhất phải kể đến là than, than cốc và than bánh (mã hàng 32). Nhóm hàng
này có mức độ thương mại nội ngành tương đối thấp, chỉ khoảng hơn 10%. .Mặc dù
Việt Nam có trữ lượng than tương đối lớn nhưng không đáp ứng đủ được nhu cầu sử
dụng than trong sản xuất, chế biến, tiêu dùng... Do đó, lượng than nhập khẩu từ các
nước khác là rất lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các loại than trong
nước chưa có nhu cầu sử dụng phục vụ cho mục đích sản xuất ra các mặt hàng khác
nên mức độ thương mại trong nội bộ ngành thường thấp.
Thứ hai là dầu khí, sản phẩm dầu mỏ và các vật liệu liên quan (mã hàng 33).
Nhóm hàng này có mức độ thương mại nội ngành đạt mức trung bình, xấp xỉ 52%.
Tương tự nhóm hàng trên, nhập khẩu ở nhóm hàng này cũng lớn hơn xuất khẩu rất
nhiều.
Thứ ba là khí tự nhiên và đã qua chế biến (mã hàng 34). IIT của nhóm hàng này
được xem là cao nhất trong bốn nhóm hàng, đạt 54.4%. Với giá trị xuất khẩu
13
$118510299, nhập khẩu $317377812, khoảng cách giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã
giảm đi nhiều so với hai nhóm hàng trước đấy. Tuy nhiên với trữ lượng khí thiên nhiên
tìm được không đủ để sử dụng, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng đáng kể khí
thiên thiên từ các nước trong khu vực.
Thứ tư là dòng điện (mã hàng 35). Thực tế cho thấy Việt Nam tiêu thụ một lượng
điện vô cùng lớn do trình độ công nghệ kém phát triển, điện năng bị lãng phí cả trong
sinh hoạt lẫn sản xuất. Do đó xuất khẩu thì ít nhưng nhập khẩu lại nhiều. IIT đạt mức
trung bình (39.27%).
Bốn nhóm hàng nhỏ nêu trên gộp lại thành nhóm hàng lớn có chỉ số thương mại
nội ngành tương đối cao. Điều này có thể lí giải bằng nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ nhất, do chênh lệch xuất nhập khẩu lớn nên trong quá trình tính toán sẽ thu được
một chỉ số thương mại nội ngành cao. Thứ hai, theo lí thuyết các nước có khoảng cách
địa lí càng gần hoặc thuộc cùng một khối liên kết thì thương mại nội ngành càng cao.
Đối chiếu với nội dung nghiên cứu của đề tài ta thấy Việt Nam nằm ở khu vực châu Á,
giáp với Trung Quốc và thuộc cùng khối ASEAN với 3 trong 8 nước tiêu biểu đại diện
cho Châu Á. Vì vậy thương mại nội ngành của ngành hàng này cao là điều có thể hiểu
được.
Với ngành hàng nhiên liệu khoáng, chất bôi trơn và các vật liệu liên quan khác
này, Việt Nam chủ yếu chỉ xuất khẩu các mặt hàng ở dạng thô và nhập khẩu các mặt
hàng đã qua xử lí có thể trực tiếp đưa vào sử dụng. Đây là biểu hiện của thương mại
nội ngành theo chiều dọc. Thật vậy, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang
trong quá trình chuyển đổi cơ cấu để phát triển nền kinh tế của mình. Việc thương mại
nội ngành theo chiều dọc phổ biến trong ngành hàng nhiên liệu đặt Việt Nam dưới áp
lực phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu đầu vào và trở nên bị động trong các ngành sản
xuất kinh doanh khi mà giá nhiên liệu ở các nước thay đổi đột ngột.
14
CHƯƠNG 3.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NỘI NGÀNH CỦA
VIỆT NAM VỚI CHÂU Á
3.1.
Đánh giá thương mại nội ngành ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thương mại nội ngành chủ yếu là theo chiều dọc. Điều này nhìn
chung là hợp lý cho các nước đang phát triển trong quá trình chuyển đổi cơ cấu để
phát triển nền kinh tế của mình. Ngành công nghiệp ở các nước đang phát triển chủ
yếu tập trung vào gia công , lắp ráp sản phẩm để xuất khẩu. Đó là sự tham gia của Việt
Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, điều đó lại cho thấy ngành công nghiệp
Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào bên ngoài với nguồn nguyên liệu đầu vào, và điều
này có xu hướng tăng cao, dẫn đến sự bị động của ngành sản xuất và kinh doanh.
Những thách thức này đã được thấy rõ trong năm 2008 khi giá thành nguyên liệu đầu
vào trên thế giới tăng cao.
Về lâu dài, Việt Nam cần có chiến lược phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ
để chủ động trong nguồn nguyên liệu và phụ liệu phục vụ sản xuất. Việt Nam nên lựa
chọn một số linh kiện, phụ kiện phù hợp với điều kiện của Việt Nam để đầu tư sản
xuất, trước mắt có thể cho ngành điện tử - tin học và cơ khí chế tạo. Các linh kiện phụ
kiện khác thì có thể tiếp tục nhập khẩu. Những ngành công nghiệp hỗ trợ có thể gây
ảnh hưởng lớn đến môi trường như công nghiệp dệt nên có thứ tự ưu tiên sau các
ngành khác. Cũng cần lưu ý thêm rằng, phát triển công nghiệp hỗ trợ không phải là
nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, cung cấp các đầu vào cho ngành công nghiệp trong nước.
Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ nhất thiết phải hướng đến cả thị trường nước ngoài
để khai thác tính lợi thế theo quy mô, từ đó giảm giá thành và nâng cao năng lực cạnh
tranh cho sản phẩm của cả công nghiệp hỗ trợ và các nghành công nghiệp thượng
nguồn của Việt Nam.
15
3.2.
Giải pháp nhằm phát triển thương mại nội ngành Việt Nam – Châu Á
Thứ nhất, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hội nhập quốc tế về thương mại nói chung và phát triển thương mại nội ngành
nói riêng, sẽ làm tăng sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích thu hút
đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế nói chung và các ngành nói riêng, xây dựng
cơ sở hạ tầng cho ngành. Tuy nhiên cần có sự chọn lọc hơn trong thu hút vốn FDI và
khai thác hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế đất nước. Trong quá trình hội
nhập Việt Nam nhận được nguồn FDI lớn từ nước ngoài, tuy nhiên chúng ta mới chỉ
coi trọng số lượng mà chưa quan tâm nhiều đến chất lượng và giá trị gia tăng tạo ra.
Gần 30 năm sau khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, một thực trạng là hoạt động
kết nối kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn mờ nhạt, hiệu ứng
lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ các đối tác nước ngoài đến các doanh
nghiệp (DN) trong nước còn rất hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao
(CNC). Các doanh nghiệp FDI chủ yếu tận dụng nguồn lao động dồi dào, trình độ thấp
và giá rẻ, chưa tạo ra gia tăng lớn. Do đó, chúng ta cần tranh thủ tiếp nhận chuyển giao
khoa học công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý, nâng cao trình độ khoa học quản lý
của cán bộ kỹ thuật trong ngành, thúc đẩy chuyển dịch nền kinh tế sang sản xuất hàng
hóa nhanh chóng và hiệu quả.
Thứ hai, tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế
Thương mại nội ngành chịu tác động của quá trình tự do hóa thương mại đã dẫn
đến sự phát triển mạnh mẽ của thương mại hàng hóa toàn cầu. Khi đó, Việt Nam tham
gia vào quá trình hình thành chuỗi giá trị gia tăng trên thị trường quốc tế. Thị trường
trong nước trở thành một bộ phận của thị trường quốc tế, phân công lao động trở thành
một bộ phận của phân công lao động quốc tế. Quá trình chuyển hóa một bộ phận lao
động trong nước thành lao động xuất khẩu thông qua xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Điều này có lợi cả về phương diện kinh tế và xã hội. Để làm được điều này, chúng ta
cần đào tạo, nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động để lao động trong nước có
thể cạnh tranh với lực lượng lao động trên thế giới, đặc biệt là lao động trình độ cao.
Thứ ba, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu
Thương mại nội ngành phát triển sẽ làm cho quá trình liên kết và hợp tác kinh tế
quốc tế càng phát triển. Việt Nam có cơ hội để xuất khẩu các mặt hàng sang các nước
16
phát triển, đồng thời có cơ hội nhập khẩu các mặt hàng công nghệ cao. Thương mại
nội ngành có tác động to lớn đến xuất nhập khẩu về quy mô, cơ cấu thị trường và cơ
cấu mặt hàng. Khi tham gia sâu vào thị trường thế giới, các rào cản thuế quan và hạn
ngạch được giảm dần do những cam kết của các nước là thành viên của WTO giúp
Việt Nam tăng khối lượng xuất khẩu, nhiều quốc gia mở cửa thị trường để hàng hóa
của Việt Nam có thể cạnh tranh với các quốc gia khác. Việc không phụ thuộc vào một
thị trường sẽ khắc phục được khủng hoảng thị trường khi có biến động lớn và có nhiều
cơ hội lựa chọn bạn hàng thích hợp.
Thứ tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
Quá trình tự do hóa thương mại chịu tác động của toàn cầu hóa đã dẫn đến sự
phát triển mạnh mẽ của thương mại nội ngành và thương mại hàng hóa toàn cầu. Ở
Việt Nam thương mại nội ngành chủ yếu là phát triển theo chiều dọc. Điều này là hợp
lý cho các nước đang phát triển trong quá trình chuyển đổi cơ cấu để phát triển nền
kinh tế của mình. Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ ngày càng được mở rộng.
Thứ năm, tăng cường hợp tác hội nhập vùng và tự do hóa thương mại
Hội nhập vùng làm gia tăng mạnh mẽ thương mại trong cùng ngành, đặc biệt là
các hàng hoá trung gian. Đây chính là yếu tố chính để “tạo ra thương mại”. Sự tăng lên
của thương mại trong từng ngành là do hội nhập vùng mở ra các thị trường ổn định và
cho phép các hãng tăng hiệu quả kinh tế thông qua chuyên môn hoá. Khi các nước
tăng cường tự do hóa thương mại có các yếu tố nguồn lực khác nhau và hội nhập vùng
tạo điều kiện có các thị trường ổn định và liên kết, kích thích cho những người sản
xuất tận dụng nguồn lực
17
KẾT LUẬN
Thông qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về phát triển thương mại nội ngành của
Việt Nam và các nước Châu Á. Thông qua việc sử dụng chỉ số để đo lường IIT là chỉ
số Grubel và Lloyd (1975), để đánh giá thích hợp về cơ cấu thương mại tại một thời kì.
Và phương pháp phân rã nội ngành theo chiều ngang và theo chiều dọc nhóm thực
hiện đã rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam không ngừng gia tăng trong giai
đoạn 2011-2015. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy Việt Nam đang ngày càng hội
nhập sâu rộng vào các nước khu vực châu Á nói riêng và trên thế giới nói chung, tuy
nhiên tỉ trọng thương mại nội ngành của mỗi nhóm hàng này thay đổi liên tục qua từng
năm.
Thứ hai, Tính toán chỉ số IIT theo công thức Grubel-Lloyd (1975) có thể thấy
mức độ thương mại nội ngành của Việt Nam với các nước châu Á ở mức trung bình.
Các nhóm ngành có mức độ thương mại nội ngành cao nhất phải kể đến nhóm 2
(nguyên liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu), tiếp đến là nhóm ngành số 3 (nhiên
liệu khoáng, chất bôi trơn và các vật liệu liên quan) cũng có mức độ thương mại nội
ngành cao xấp xỉ nhóm ngành số 2. Các nhóm ngành còn lại đều có mức độ thương
mại nội ngành ở mức trung bình hoặc thấp.
Thứ ba, Nhóm hàng SITC 2 có chỉ số thương mại nội ngành cao nhất trong các
nhóm hàng thương mại lớn giữa Việt Nam và các nước châu Á năm 2015. SITC 2 có
giá trị IIT cao nhất trong 9 mã hàng lớn là do sự chênh lệch giữa giữa xuất và nhập
khẩu (1226523962 USD) nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng xuất nhập khẩu
(4787879682 USD).
Thứ tư, để thúc đẩy thương mại nội ngành của Việt Nam và khu vực Châu Á, cần
tập trung vào: tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tham gia vào quá trình phân
công lao động quốc tế, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu , đồng thời tăng cường hợp tác hội nhập vùng và tự do hóa
thương mại, bên cạnh đó phải tăng cường các hoạt động R&D, tiếp nhận cộng nghệ
tiến bộ trên thế giới.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ Thúy Anh. 2013. Giáo trình kinh tế học quốc tế. Hà Nội: NXB Thống kê.
2. Trung Tâm Thông Tin Công nghiệp và Thương Mại - Bộ Công Thương (VITIC)
3. Nhập khẩu dầu thực vật tăng so với cùng kỳ. />
khau/nhap-khau-dau-thuc-vat-tang-so-voi-cung-ky-486207.html. Truy cập
27/11/2017
4. Viện nghiên cứu thương mại Bộ Công Thương. 11-2016. Phát triển triển thương
mại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2025.
5. Truy cập
27/11/2017
6. UN Comtrade Database
/>7. United Nation Statistics Division (UNSTAT)
/>8. Grubel, Herbert G.; Lloyd, Peter J. (1971). "The Empirical Measurement of Intra-
Industry Trade". Economic Record
9. Grubel, Herbert G.; Lloyd, Peter J. (1975). Intra-industry trade: the theory and
measurement of international trade in differentiated products.