Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chien thuat chua chay tau hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.42 KB, 13 trang )

CHIẾN THUẬT CHỮA CHÁY TÀU HỎA

I. ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN CHỮA CHÁY
1. Nhận thức chung về tàu hỏa
Tàu hoả là một loại phương tiện giao thông, gồm đầu tàu và các toa nối
lại. Tàu hỏa chạy trên đường sắt và được dùng để vận chuyển người, trang thiết
bị hay các vật tư khác.
Ngành đường sắt còn là một ngành kinh tế đặc thù được Nhà nước giao
nhiệm vụ quản lý tất cả các tuyến đường sắt tổng cộng với chiều dài hơn 3.147
km xuyên dọc đất nước ở hơn 40 tỉnh, thành phố, 139 quận, huyện và 654 xã,
phường; quản lý 296 nhà ga, trạm gần 1.700 chiếc cầu, 39 chiếc hầm và đèo dốc
quanh co phức tạp. Chính đặc điểm phức tạp này đã tạo nên những khó khăn
không nhỏ về công tác PCCC còn như công tác đảm bảo an ninh trật tự trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị là vận tải hành khách và hàng hoá trên các
đoàn tàu hoả.

Quang cảnh một toa tàu hỏa
Một con tàu có thể lắp một hay nhiều hơn số đầu tàu và các toa, trong đó
có thể là toa hành khách và toa chở hàng. Tàu hỏa là thành tố trung tâm của vận
tải đường sắt, một loại hình vận tải phổ biến và chi phí rẻ. Tên gọi "tàu hoả"
trong tiếng Việt ban đầu để chỉ loại tàu chạy bằng động cơ hơi nước, nhưng tên


2
gọi này có thể được áp dụng cho cả các loại tàu chạy trên đường ray sử dụng
động cơ điện hay diesel, hay các công nghệ khác.
Năm 1881, Việt Nam khởi công xây dựng đường sắt. Hiện tại có 3 khổ
đường: loại 1.000 mm, 1.435 mm. Tổng chiều dài đường sắt là 3.147 km, trong
đó gồm 2.670 km đường sắt chính và 477 km đường ga, nhánh. Trên đường sắt
có 1.777 cầu với chiều dài tổng cộng là 44.073 m, trong đó 576 cầu có trạng thái
kỹ thuật tốt với chiều dài 16.223 m, còn lại 1.201 cầu trạng thái kỹ thuật xấu với


chiều dài 27.850 m. Cấp tải trọng của cầu không đồng nhất từ T11 đến T22.
Đường sắt Việt Nam đi xuyên qua các hầm chủ yếu ở hai tuyến: Phía Nam trên
tuyến đường Thống Nhất có 27 hầm với chiều dài tổng cộng là 8.335 m; phía
Bắc tuyến Hà Nội – Lạng Sơn có 8 hầm với tổng chiều dài là 3.133,4 m. Phân
bố tập trung ở phía Bắc dài 1.120 km (từ Tây sang Đông) và chạy dọc đất nước
theo hướng Bắc – Nam (dài cả tuyến nhánh khoảng 2.010 km từ Hà Nội đến
thành phố Hồ Chí Minh). Cả nước có 63 tỉnh và thành phố thì tàu hỏa đi qua 40
tỉnh và thành phố và hầu hết đi qua các tỉnh và thành phố lớn. Đường sắt đi qua
các vùng dân cư, khu kinh tế và các trung tâm văn hoá: Chiếm 57 % dân cư, 47
% về tổng diện tích đất đai và 60 % về GDP (tổng sản phẩm quốc nội).
2. Đặc điểm cấu tạo của tàu hỏa
* Cấu tạo tàu hỏa gồm có hai bộ phận chính: Đầu máy và các toa xe
Đầu máy: Gồm các loại đầu máy chạy bằng hơi nước, đầu máy điêzen,
đầu máy chạy bằng điện năng.
+ Đầu máy hơi nước: Là loại đầu máy dùng than đốt cháy củi, tạo nhiệt
đun nước làm tăng áp suất nước, xả van cho hơi nước đẩy piston và quay trục
khuỷu. Chắc chắn ai cũng đã nghe và biết đến động cơ hơi nước rồi đúng không
nào!
+ Đầu máy Diesel: Đây có thể nói là bước tiến nhanh vọt khi động cơ
diesel tối ưu hiệu quả hơn, khắc phục mọi nhược điểm của động cơ hơi nước.
Nguyên lý cơ bản không gì khác so với các loại động cơ diesel trang bị trên ô tô
hiện nay. Buồng bơm tăng áp diesel phun dầu áp lực cao vào buồng đốt, dầu tự


3
cháy nhờ nhiệt độ và áp suất cao đẩy quay trục khuỷu và truyền lực đến bánh xe
qua hộp số.

Đầu máy diesel cổ điển
Tuy nhiên trong quá trình vận hành, người ta nhận ra rằng khi dùng động

cơ diesel thì momen sinh ra khi khởi động rất thấp so với yêu cầu tải trọng dẫn
đến khó khởi động đầu máy. Thậm chí, nếu tệ hơn thì hiện tượng gãy trục
khuỷu, tay bên hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, giải pháp được áp dụng lúc này
là trang bị một kích thủy lực đẩy đầu máy di chuyển để momen xoắn khởi động
cần để khởi động.
+ Đầu máy điện năng: Sử dụng truyền momen quay từ động cơ diesel sinh
ra đến một máy phát điện, sau đó máy phát điện truyền dòng điện vào nhiều
động cơ điện, động cơ điện truyền lực trực tiếp vào hộp số đến các bánh xe của
tàu. Có thể là mỗi bánh một động cơ điện hoặc 2 bánh trên trục một động cơ.
Động cơ điện có momen khởi động lớn nên thích hợp cho việc khởi động kéo
nhiều toa nặng trong thời gian ngắn. Đây chính là lý do cho sự ra đời của đầu
máy điện năng.


4

Đầu máy điện năng
Các toa xe có nhiều loại toa xe khác nhau. Toa chở hành khách thường
chế tạo vỏ thép, bên trong có các lớp trang trí, điều hòa, ghế ngồi, giường nằm
có các lớp đệm lót bằng vật liệu dễ cháy...
Toa xe chở hàng được chế tạo khung bằng thép, sàn, thành toa bằng tôn
lát gỗ. Vật liệu chuyên chở rất đa dạng và phong phú, luôn luôn tồn tại các chất
nguy hiểm về cháy nổ. Căn cứ mục đích sử dụng trong việc vận chuyển hành
hoá có toa có mái che, có toa không có máy che, toa xitéc, toa tự đổ... Ngoài ra
còn có các toa xe chuyên dùng như: Toa bưu điện, toa ăn uống, toa giành cho
nhân viên phục vụ trên tàu.
* Trong quá trình tốc hành vận chuyển hành khách hay hàng hoá vật tư,
các đoàn tàu hoả hầu như có xuất phát điểm từ ga đầu tiên và chạy cho đến ga
cuối cùng căn cứ mục đích, chức năng nhiệm vụ của đoàn tàu. Vì thế, các loại
ga tàu hoả còn được phân ra làm nhiều loại khác nhau như: Ga trung tâm, ga

hành khách, ga hàng hoá và ga cuối cùng.
Ga trung tâm là nhà ga tập trung đầu mối nhiều tuyến đường, đây là loại
ga có quy mô xây dựng lớn, thường xuyên có nhiều lượt tàu qua lại hoặc có
nhiều đoàn tàu dừng lại trong ga như: Ga Hà Nội, ga Đà Nẵng, ga Sài Gòn...
Ga hành khách hay ga hàng hoá là các điểm dừng để các đoàn tàu đón trả
khách, tiếp nhận và trả hàng hoặc làm nơi tránh nhau của các đoàn tàu chạy
ngược chiều... Thường thường loại nhà ga này phân bố dọc trên các tuyến đường


5
sắt, khoảng cách giữa các ga phụ thuộc vào địa bàn, số dân cư, thành phố hay thị
xã.
Ga cuối cùng là nhà ga nằm ở điểm cuối cùng của một tuyến đường sắt,
nơi mà tàu hoả đến và sẽ quay trở lại nhà ga xuất phát ban đầu. Loại nhà ga này
còn là điểm nút tập trung đông người, nhiều hàng hoá, vật tư.
Nhìn chung các loại nhà ga tàu hoả được xây dựng theo các kiểu cách
kiến trúc khác nhau với các loại vật liệu xây dựng khác nhau. Ga xây dựng với
quy mô kiến trúc hiện đại có phòng đợi cho hành khách chờ tàu, có nơi đỗ, tránh
tàu, có khu vực sửa chữa, bảo dưỡng, kho nhiên liệu, kho hàng hoá, vật tư, thiết
bị thay thế. Tuy nhiên ở một số nhà ga hành khách (hay ga hàng hoá) hiện nay
còn xây dựng tạm thời nhà bằng các loại vật liệu dễ cháy. Khu vực ở nhà ga
trung tâm và nhà ga cuối cùng có nhiều loại chất nguy hiểm cháy, nổ, độc được
đóng gói, bảo quản theo các hình thức khác nhau. Thậm chí có các loại vũ khí,
đạn dược, vật liệu nổ.
3. Tình hình cháy tàu hỏa
Những đám cháy xảy ra trên tàu hoả hoặc xảy ra ở nhà ga, điểm xuất phát
cháy thường rất đa dạng và dễ gây nên những tình huống phức tạp. Chẳng hạn:
- Vụ cháy ngày 22/06/1997, tại toa hành lý số 231644 của tàu S3 khi tàu xuất
phát khỏi ga Diêu Trì (Bình Định) và đang gần đến ga Tân Vinh thì nhân viên phụ
trách toa xe hành lý phát hiện toa xe mình bốc khói, liền báo hiệu dừng tàu (còn là

lúc tàu vào đến ga Tân Vinh). Sau khi lực lượng PCCC trên tàu chữa cháy xong và
niêm phong. Tiếp tục cho tàu S3 chạy về ga Sài Gòn. Tại hiện trường cháy trong toa
hàng hoá đã phát hiện 01 thùng gỗ có kích thước (0,6x0,35x0,3) m bị cháy thủng ở
nắp thùng và thành. Điểm cháy có kích thước (0,35x0,25) m đang nằm chồng lên các
kiện hàng khác. Mở nắp thùng hàng bên trong phát hiện một số chai lọ thuỷ tinh
chứa hoá chất ở dạng bột, nước có dung tích không đều nhau. Bên ngoài còn nhãn có
tên như: Cloruakaly, Axetat kẽm, Cloruanatri, trong số này có một chai 0,65 lít ghi
chữ ôxy già, nắp vỏ chai bị hở bên trong không còn hoá chất. Qua kết quả điều tra và
kết hợp dấu vết hiện trường cháy. Hội Đồng khám nghiệm hiện trường nguyên nhân
vụ cháy kết luận: Nguyên nhân vụ cháy trên là do nước Ôxy già (H2O2) bị đổ vỡ ra


6
ngoài, vì đây là chất ôxy hoá mạnh nên khi gặp các vật liệu dễ cháy như: Giấy, gỗ,
vải... gây ra tự cháy. Đám cháy gây thiệt hại về hàng hoá uớc tính 15 triệu đồng.
- Vụ cháy ngày 02/08/1999, cháy toa hành khách số 11761 (C5024) tại ga
Lào Cai đường số 2 phía nam ga liên vận từ Vân Nam Trung Quốc về. Nguyên
nhân cháy do chập điện hệ thống máy lạnh. Thiệt hại uớc tính khoảng 01 tỷ
đồng.
- Vụ cháy ngày 24/12/2000, cháy toa chở bột giấy số 1332051 trên tàu
hàng 414 gần ga Thượng Lý Hải Phòng. Khi phát hiện cháy, Trưởng tàu cho
đoàn tàu dừng lại ga Thượng Lý và huy động lực lượng, phương tiện đoàn tàu
cùng với lực lượng, phương tiện của ga Thượng Lý cứu chữa, cắt kéo để cách ly
các toa xe trên đoàn tàu chưa bị cháy ra nơi an toàn, đồng thời điện cho lực
lượng Cảnh sát PCCC Hải Phòng tập trung dập tắt đám cháy. Nguyên nhân do
người dân sống ven đường quốc lộ vô tình ném một mẩu gỗ còn lửa lên toa xe
khi đoàn tàu chạy qua nên gây cháy. Thiệt hại về tài sản uớc tính 260 triệu đồng.
- Ngày 20/01/2002 ở Ai Cập, xảy ra vụ nổ bình gas dựng để nấu ăn tại toa
số 7 của một đoàn tàu khi đông hành khách, làm 361 người thiệt mạng. Ngọn
lửa nhanh chóng lan ra khắp 7 toa khác và nhấn chỡm cả đoàn tàu trong biển

lửa.

Vụ cháy tàu hoả ở Ai Cập
Do vụ nổ xảy ra lúc 2 giờ sáng nên mọi người đều không kịp phản ứng.
Đa phần những người này bị chết cháy, số còn lại bị tử vong do cố gắng nhảy ra


7
khỏi tàu. Tính cho đến nay thì đó vẫn là vụ tai nạn nghiêm trọng nhất ở Ai Cập
trong vũng 150 năm.
- Ngày 18/01/2004 tại Iran, một đoàn tàu chở đầy phân bón, xăng và hóa
chất đó bị mất phanh, lao đi khoảng 12 km trước khi trật bánh, lao ra khỏi đường
ray và bốc cháy. Khi người dân xung quanh đó đang tụ tập lại xem thì bất ngờ
đoàn tàu phát nổ. Vụ nổ làm chết hơn 320 người, phá hủy 5 ngôi làng gần đó.
- Một vụ tai nạn nghiêm trọng khác xảy ra tại thành phố Ventspils của
Latvia ngày 20/12/2006 khi đoàn tàu chở nhiên liệu va chạm với các toa tàu
đang đứng yên, khiến 10 toa chở nhiên liệu bốc cháy ngùn ngụt và làm 2 người
thiệt mạng. Ventspils là nơi đặt một nhà ga vận chuyển nhiên liệu quan trọng tại
biển Baltic. Các chuyến tàu chở nhiên liệu thường tới thành phố này nhiều lần
mỗi ngày.

Cháy đoàn tàu chở xăng dầu ở Látvia

* Nguyên nhân xảy ra cháy
Từ một số vụ cháy điển hình trên, thấy rằng cháy xảy ra trên tàu hoả do
nhiều nguyên nhân khác nhau: Do hành khách mang theo chất dễ cháy, chất nổ,
khi bị tác động của nguồn gây cháy sẽ bắt cháy, hoặc do cháy lan từ nhà ga, nhất
là các ga còn xây dựng tạm thời. Do cháy lan từ các kho nhiên liệu, vật liệu dễ
cháy, kho hàng hoá cháy lan vào các đoàn tàu đang đỗ trong khu vực nhà ga.



8
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ DIỄN BIẾN ĐÁM CHÁY
Khi xảy ra cháy tại tàu hỏa, nhất là khi tàu đang chạy sinh ra gió mạnh,
điều kiện trao đổi khí rất thuận lợi, do vậy vận tốc phát triển của đám cháy lớn,
sản phẩm cháy mang theo nhiệt lượng và tàn lửa dễ gây ra các đám cháy mới ở
các toa xe khác (nhất là đối với các đoàn tàu chở hàng hoá, vật tư dễ cháy, hoặc
các toa hành khách). Ngọn lửa lan nhanh, diện tích đám cháy phát triển và bao
trùm toàn bộ toa xe, cháy lan sang các toa kế cận. Hàng khách trên tàu dễ bị
hoảng loạn, nhảy xuống tàu nguy hiểm đến tính mạng. Do vị trí tàu không cố
định nên có nhiều trường hợp đám cháy xảy ra ở khu vực không có nước, đường
giao thông đến đám cháy gây trở ngại, khó khăn cho việc lực lượng, phương tiện
tiếp cận đám cháy.
Nếu để đám cháy đoàn tàu xảy ra trong khu vực nhà ga trung tâm thì diễn
biến đám cháy càng trở nên phức tạp vì ở đó có nhiều hành khách, gây nên tình
trạng hỗn loạn, mất trật tự an toàn trong nhà ga ảnh hưởng rất lớn đến công tác
cứu chữa vụ cháy. Hơn nữa trong nhà ga có nhiều các chất và vật liệu dễ cháy,
nếu không phát hiện kịp thời, khống chế ngăn chặn đám cháy ngay từ những
phút ban đầu thì rất có khả năng đám cháy cháy lan sang gian, phòng, nhà kho
chứa nguyên liệu, nhiên liệu của nhà ga.
Đối với đoàn tàu, toa tàu chở xăng dầu bị cháy, ngọn lửa bao trùm toàn bộ
đoàn tàu, toa tàu. Nếu không kịp thời phun nước làm mát, rất có thể gây sôi trào,
làm biến dạng, mất khả năng chịu lực của xitéc dẫn đến nổ, vỡ làm xăng dầu
chảy tràn lên cung đoạn đường sắt hoặc mặt nền nhà ga làm cho đám cháy càng
trở nên dữ dội, diện tích đám cháy lớn, khả năng dễ cháy lan sang các đoàn tàu,
các ngôi nhà, công trình xung quanh. Nếu để cháy đoàn tàu chở hành khách,
đám cháy rất nguy hiểm và đe doạ trực tiếp đến tính mạng con người. Do hoảng
sợ quá mức khiến nhiều hành khách trên tàu nhảy qua cửa sổ ra ngoài gây nên
các trường hợp thương vong đáng tiếc.
Đối với tất cả các đoàn tàu chở hàng hoá, vật tư dễ cháy, chất nổ, chất độc

hoặc đoàn tàu chở khách khi đang chạy trên đường đều có thể xảy ra cháy. Đặc
biệt với đoàn tàu bị cháy khi đang vào sân ga hay đang chạy trên các cung đoạn


9
có nhiều chất cháy: Cỏ khô ven làng bản, nhà ở làm bằng vật liệu dễ cháy... Nếu
đoàn tàu chở vật liệu nổ trên đường bị cháy có thể nổ gây hư hỏng nặng các
công trình nhà cửa, cầu cống, đường xá xung quanh trong một phạm vi diện tích
khá lớn.
Nói chung, đám cháy xảy ra phát triển không chỉ trong phạm vi một toa,
một đoàn tàu mà có thể cháy lan sang các toa, đoàn tàu, hạng mục nhà cửa, công
trình kho tàng xung quanh. Bởi vậy việc tổ chức, triển khai lực lượng chữa cháy
tại chỗ vô cùng quan trọng và cần thiết còn như việc nhận tin báo cháy, xuất
quân lên đường đến đám cháy và triển khai chiến đấu của lực lượng chữa cháy
chuyên nghiệp cần phải khẩn trương, kịp thời mới có thể giành được hiệu quả
cao.
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHỮA CHÁY
1. Trinh sát đám cháy
Căn cứ vào tính chất quy mô và đặc điểm diễn biến của đám cháy mà chỉ
huy chữa cháy quyết định thành lập tổ trinh sát. Thành phần của tổ trinh sát phải
có cán bộ của đoàn tàu (có thể là cán bộ kỹ thuật an toàn hay thủ kho bảo vệ
tham gia). Vì rằng họ là những người nắm rõ hàng hoá vật tư hiện có trên các
đoàn tàu, hiểu rõ được tình hình diễn biến của qua trình phát triển đám cháy. Tổ
trinh sát có những nhiệm vụ:
- Xác định rõ số lượng, chủng loại, tính chất nguy hiểm cháy nổ hàng hoá,
vật tư có trong toa tàu bị cháy, các toa bên cạnh và các toa của đoàn tàu, điểm
xuất phát cháy ban đầu;
- Xác định mức độ nguy hiểm của đám cháy đang đe dọa trực tiếp đến tính
mạng của hành khác trên toa tàu và khả năng phát triển của đám cháy trong các
toa;

- Xác định hướng lan truyền chính của ngọn lửa sang các toa kế cận, các
đoàn tàu khác và các công trình nhà cửa kho tàng xung quanh;
- Xác định hướng tấn công, địa hình triển khai đường vòi chữa cháy để
không cản trở đến lối qua lại của các xe, đoàn tàu khác;


10
- Xác định khả năng và biện pháp di chuyển đoàn tàu hoặc các toa xe
đang cháy đến nơi ít nguy hiểm và thuận lợi cho việc tổ chức cứu chữa;
- Xác định sơ bộ diện tích đám cháy và chất chữa cháy phù hợp để đảm
bảo hiệu quả chữa cháy cao nhất.
2. Cứu người bị nạn
Khi đến đám cháy, thông qua cơ sở báo cáo hay người đầu tiên phát hiện
đám cháy, Chỉ huy chữa cháy phải kịp thời nắm tình hình diễn biến đám cháy,
đồng thời phải tổ chức trinh sát đám cháy. Nếu trong đám cháy có người bị nạn
phải bằng mọi biện pháp tổ chức cứu họ ra nơi an toàn như:
- Tổ chức phân công lực lượng cắt và dịch chuyển toa xe đang bị lửa đe
doạ ra nơi an toàn;
- Sử dụng xà beng, cưa máy tổ chức thoát khói trên nóc toa xe, thoát khói
ở các ô cửa sổ nâng mặt phẳng cân bằng áp suất ở toa xe đang bị cháy nhằm
mục đích chống ngạt cho người bị nạn như các cụ già, em nhỏ chưa kịp thoát ra
ngoài;
- Sử dụng các đội hình hai lăng B (lăng hương sen) phun mưa làm mát hai
cửa chính, các cửa sổ để bảo vệ đường, lối thoát nạn;
- Cử cán bộ chiến sỹ được trang bị đủ quần áo chống nóng, các thiết bị
chống khói khí độc tiếp cận các phòng trên các toa xe vừa kiểm tra vừa hướng
dẫn và mang, vác những người bị ngạt ra khỏi toa xe bị cháy...;
- Phối hợp với các lực lượng, phương tiện của y tế, của nhà ga chuyên chở
người bị nạn đến bệnh viện gần nhất để trợ giúp và cứu chữa họ.
3. Các phương pháp và biện pháp dập tắt đám cháy ở tàu hoả

Đối với đoàn tàu chở hàng hoá, tuỳ theo tính chất nguy hiểm cháy nổ của
hàng hóa, vật tư mà sử dụng chất chữa cháy cho phù hợp. Thực tế hiện nay, lực
lượng chữa cháy vẫn sử dụng nước để dập tắt đám cháy là chủ yếu, song phải
loại trừ một số loại hoá chất như Natri, Kali, Cacbua Canxi (đất đèn)... vì các
loại hoá chất này khi tác dụng với nước tạo thành khi cháy, nổ rất nguy hiểm. Sử
dụng lăng A phun tia nước đặc vào phía trong các toa qua cửa sổ, cửa lên xuống,
dập tắt đám cháy từ ngoài vào trong dứt điểm từng khoang bị cháy. Đồng thời sử


11
dụng lăng B, lăng hương sen phun nước làm mát và phun bảo vệ các toa hàng
bên cạnh, đoàn tàu kho hàng lân cận đề phòng chống cháy lan. Nếu tàu đang bốc
dỡ hàng trong nhà ga, cần phải di chuyển đoàn tàu ra xa ga rồi tổ chức dập tắt
đám cháy.
Đối với đoàn tàu chở xăng dầu bị cháy thì phải phun nước làm mát toa bị
cháy và phun nước bảo vệ toa bên cạnh để hạ nhiệt độ, giảm cường độ bức xạ
nhiệt, chú ý đề phòng nguy hiểm nổ, sôi trào. Khi xăng dầu chảy tràn trên mặt
đất, sử dụng bọt hoà không khí để chữa cháy. Trường hợp xitéc bị thủng, xăng
dầu phun ra cháy thì dùng lăng A, lăng giá bao vây, tập trung phun cắt ngọn lửa.
Các đoàn tàu chở chất độc, vật liệu nổ, căn cứ vào tình hình thực tế, chỉ
huy chữa cháy yêu cầu người lái tàu đưa đoàn tàu ra xa nhà ga, xa các công trình
nhà cửa, cắt rời các toa đang bị cháy và tìm mọi biện pháp để phun các chất
chữa cháy nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại về cháy nổ xảy ra. Đồng thời kết
hợp với các lực lượng khác tổ chức làm tốt công tác bảo vệ xung quanh khu vực
cháy nổ.
Đối với đoàn tàu chở khách, nếu bị cháy, phải khẩn trương tổ chức cứu
ngay những người bị nạn chưa kịp thoát ra khỏi toa tàu. Dùng các phương tiện
dụng cụ phá dỡ mở nóc trên các toa xe để thoát khói và tạo cho các chiến sỹ cầm
lăng phun nước từ trên nóc vào phía trong của các toa xe. Chú ý dùng lăng B,
lăng hương sen phun nước làm mát bảo vệ lối thoát nạn, lăng B phun nước các

toa lân cận, lăng A phun nước bảo vệ các công trình xung quanh. Phun nước làm
mát cho các kho tàng, không được phun sục và quá gần vào tường, mái tránh
sụp đổ công trình.
Cường độ phun nước làm mát khi chữa cháy các toa chở xăng dầu, chữa
cháy toa chở hàng hoá, tàu chở hành khách không hạn chế. Cường độ phun dung
dịch bọt hoà không khí để chữa cháy cho đoàn tàu chở xăng dầu phụ thuộc vào
nhiệt độ bùng cháy của chất lỏng cháy.
Trong mọi tình huống khi đám cháy xảy ra ở các đoàn tàu, nhất là ở nhà
ga, chỉ huy chữa cháy phải tổ chức lực lượng để cắt rời toa đang bị cháy ra khỏi
đoàn tàu, chuyển hàng hoá vật tư ở các toa xe, trong các ngôi nhà công trình


12
chưa bị cháy ra nơi an toàn. Nguồn nước chữa cháy lấy ngay ở các trạm lấy
nước cho tàu hoả trong nhà ga.
Đối với đoàn tàu bị cháy khi đang chạy trên đường sắt, dù cháy tàu chở
hàng hoá hay tàu chở khách, căn cứ vào quá trình diễn biến của đám cháy, người
lái tàu có thể dừng đoàn tàu ở bất kỳ cung, đoạn đường sắt nào song phải cách
xa các công trình, làng bản, dân cư và thông báo ngay cho các nhà ga lân cận
biết, nhằm đề phòng tránh các đoàn tàu khác đi vào cung đoạn đường sắt tàu
đang bị cháy, nổ. Đồng thời thông tin kịp thời cho lực lượng chữa cháy chuyên
nghiệp đến cứu chữa và dập tắt đám cháy.
Quá trình tổ chức dập tắt đám cháy phải có kế hoạch đề ra phương án cụ
thể. Ngoài lực lượng phương tiện chữa cháy chuyên nghiệp, chỉ huy chữa cháy
cần phải huy động phương tiện xe goòng của nhà ga, cán bộ công nhân viên và
quần chúng cùng tham gia để vận chuyển lực lượng phương tiện cần thiết đến
nơi xảy ra cháy, hoặc các phương tiện thô sơ để tiếp nước chữa cháy.
4. Các biện pháp kỹ thuật an toàn
Để đảm bảo an toàn khi chữa cháy các đoàn tàu chở xăng dầu, chất nổ,
chất độc, phải có các biện pháp an toàn cho cán bộ chiến sỹ và phương tiện trực

tiếp chữa cháy. Trước hết người chỉ huy phải bình tĩnh, sáng suốt có quyết định
đúng đắn về chiến, kỹ thuật chữa cháy. Luôn luôn đề phòng hiện tượng sôi trào
khi cháy xitéc chứa các loại chất lỏng cháy, phải có mặt nạ phòng độc trang bị
cho các chiến sỹ khi chữa cháy đoàn tàu chở hoá chất, chất độc, khoảng cách an
toàn cho người và phương tiện khi tổ chức dập tắt đám cháy đoàn tàu chở vũ
khí, đạn dược, chất nổ. Các tuyến đường vòi chính phải triển khai dọc theo
đường ray, nếu phải triển khai cắt ngang đường ray thì phải luồn vòi xuống phía
dưới ray để tránh xe chữa cháy chạy qua đè lên làm vỡ vòi trên tuyến đường vòi
chính.
IV. NHỮNG LƯU Ý KHI TỔ CHỨC CHỮA CHÁY
- Căn cứ vào tính chất hàng hoá trên tàu để quyết định sử dụng chất chữa cháy.
- Tìm cách cứu người trên các toa và di chuyển các đoàn tàu khác đến nơi
an toàn.


13
- Cho cắt rời các toa chữa cháy, di chuyển sang đường tàu khác hay những
nơi xa đám cháy, cần chú ý sơ tán trước các toa có chứa chất nổ chất độc hoặc
những hàng hoá dễ bắt cháy.
- Nếu đoàn tàu có các toa chở xăng dầu và các chất lỏng dễ cháy khác
phải phun nước làm mát và nhanh chóng chuyển xa nơi cháy.
- Việc di chuyển các toa tàu có thể dùng người đẩy. Còn đối với các đoàn
tàu thì dùng đầu máy.
- Đường vòi chữa cháy khi cần rải qua đường ray phải đi xuống dưới hoặc
đi dọc theo đường để không cản trở việc di chuyển của các toa và cá đoàn tàu
khác




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×