BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN HỒNG ĐIỆP
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN HỒNG ĐIỆP
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Quản lý xã hội
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Ngô Hữu Thảo
HÀ NỘI - 2015
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
8
VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Phật giáo Hoà Hảo – Sự ra đời và đặc điểm cơ bản
8
1.2. Nhận thức chung về quản lý nhà nước đối với hoạt động của
Phật giáo Hoà Hảo
20
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
37
HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo
37
Hòa Hảo
2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ quản lý nhà
54
nước đối với hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO HÒA
63
HẢO VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO
HÒA HẢO
3.1. Xu hướng hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo
63
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
71
với hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85
PHỤ LỤC
91
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một thực thể xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài
người và có ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong
mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do tôn giáo là một trong những quyền tự
nhiên của con người và phải được pháp luật bảo vệ, đồng thời đó cũng là một
mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay. Tín ngưỡng tôn giáo là một nhu
cầu tinh thần của nhân dân, nhưng tôn giáo với tư cách là một thực thể xã hội
đã luôn hoạt động và tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với cả hai
mặt tích cực và tiêu cực, do đó cũng phải được nhà nước quản lý như các hoạt
động xã hội khác. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là một yêu cầu
khách quan, nhằm đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường,
đúng pháp luật; để quan hệ giữa các tôn giáo, các tín đồ thực sự bình đẳng;
quyền tự do theo hoặc không theo tôn giáo của công dân được thực thi; phát
huy được mặt tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo và để tôn
giáo không bị lợi dụng vào mục đích chính trị hay ý đồ xấu.
Việt Nam là một đất nước có nhiều tôn giáo,với nguồn gốc phát sinh, du
nhập, phát triển và ảnh hưởng khác nhau trong đời sống xã hội. Hiện nay, theo
tư liệu mới nhất, Việt Nam có hơn 24 triệu người theo đạo, chiếm 27% dân số
cả nước, có 14 tôn giáo và hơn 40 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận tư cách pháp nhân và cấp đăng ký hoạt động. Các tôn giáo có gần 82.000
chức sắc, nhà tu hành và hơn 250.000 chức việc, có hơn 25.000 cơ sở thờ tự và
nhiều học viện, trường đào tạo các nhà hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp.
Chức sắc, tín đồ các tôn giáo đa số là nhân dân lao động, có tinh thần
yêu nước, gắn bó cùng dân tộc, là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn
kết dân tộc, tham gia đấu tranh, góp phần giành độc lập tự do của dân tộc, cũng
như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên hiện nay, do nhiều nguyên nhân, trong đó có chiến lược “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch, các tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta
hoạt động đa dạng và phức tạp; thậm chí có hoạt động bị kẻ xấu kích động đã
đi ngược lại lợi ích của dân tộc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo nội
sinh, ra đời ở tỉnh An Giang và ảnh hưởng chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long, có nhiều đặc điểm mang đậm nét văn hóa, tính cách của người dân
Nam bộ. Dưới thời kỳ Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm chiếm, Phật giáo Hòa
Hảo với giáo lý dễ hiểu, lễ nghi đơn giản dễ thực hành, tỏ ra rất phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế - xã hội của nhân dân lao động, nên đã được đông đảo quần
chúng nhân dân tiếp nhận và không ngừng tăng nhanh. Tuy nhiên, Phật giáo
Hòa Hảo cũng bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm chống phá cách mạng.
Mặt khác, nội bộ đạo cũng nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ sâu sắc và không dừng
lại ở vấn đề nội bộ, mà đã trở thành vấn đề xã hội phức tạp.
Năm 1999, Phật giáo Hòa Hảo được Nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân và sự kiện này đã kịp thời động viên tinh thần, đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của tín đồ. Từ đó đến nay, với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới
tương lai, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo luôn phát huy tinh thần đại đoàn kết dân
tộc, tích cực phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm tốt công tác từ
thiện nhân đạo. Những đóng góp của Phật giáo Hòa Hảo với phương châm “Vì
đạo pháp, vì dân tộc” là rất to lớn và thiết thực cho công cuộc xây dựng, phát
triển quê hương, đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia
sinh hoạt, hoạt động tôn giáo chưa đúng tinh thần “Vì dân tộc”, chưa “Tuỳ tài,
tuỳ sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở” như lời dạy của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ.
Nhiều vụ việc liên quan đến Phật giáo Hoà Hảo rất phức tạp, kéo dài, gây không
ít khó khăn trong công tác quản lý nhà nước. Trong đó, một số đối tượng cực
đoan ở tỉnh Đồng Tháp, thành phố Cần Thơ, hoạt động gây mất an ninh trật tự
3
trong nhiều năm. Các vấn đề, như xây dựng cơ sở thờ tự không phép; xin lại,
đòi lại, phục hồi lại cơ sở thờ tự; lợi dụng hoạt động từ thiện xã hội mà chính
quyền chưa kiểm soát được. Tất cả đều đòi hỏi phải được giải quyết từ
phương diện quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo.
Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết về nhận thức và thực tiễn nêu trên,
tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo
ở Việt Nam hiện nay”, làm luận văn tốt nghiệp cao học ngành Chính trị học,
chuyên ngành Quản lý xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước năm 1975 các công trình của Phật giáo Hòa Hảo có: “Nguyễn Văn
Hầu với các tác phẩm: “Nhận thức Phật giáo Hoà Hảo”, “Năm cuộc đối thoại
về Phật giáo Hoà Hảo”, “Thất Sơn mầu nhiệm”, “Muốn về cõi Phật”,…các
tác phẩm này đã đi sâu vào các vấn đề pháp môn “Học Phật -Tu Nhân”, giáo
lý, giáo luật và lễ nghi của Phật giáo Hòa Hảo.
Sau năm 1975, các nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo có nhiều kết quả,
thể hiện qua các công trình: “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo
Chính phủ (1993); Phạm Bích Hợp có luận án PTS Dân tộc học về “Đời sống
xã hội và tâm lý nông dân người Việt ở làng Hoà Hảo tại An Giang trước và
sau 1975”,...các tác phẩm này đã tổng quan về Phật giáo Hòa Hảo với tư cách
là một tổ chức tôn giáo (có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tín đồ), đời sống tâm lý
của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và người dân không có đạo ở làng Hòa Hảo.
Năm 1997, Bùi Thị Thu Hà có luận văn Thạc sĩ: “Đảng bộ An Giang
vận động quần chúng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống
Mỹ cứu nước từ năm 1954-1975”. Viện Nghiên cứu khoa học – Bộ Công an có
đề tài về Phật giáo Hoà Hảo nghiên cứu ở cấp độ nghiệp vụ, đã nhận diện rõ
nét về tính chính trị và tính tôn giáo của Phật giáo Hòa Hảo từ khi ra đời đến
khi có Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác tôn
giáo trong tình hình mới”.
4
Từ năm 1999 khi Phật giáo Hoà Hảo được Nhà nước công nhận nhiều
công trình nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Năm 2001, Ban Tôn giáo Chính phủ có đề tài: “Khảo sát thực trạng
Phật giáo Hoà Hảo – kiến nghị và chủ trương, chính sách”.
Đề tài (2001), “Thực trạng, xu hướng phát triển Phật giáo Hòa Hảo ở
nước ta hiện nay” thuộc đề tài cấp Nhà nước “Xu hướng phát triển tôn giáo ở
nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với công tác lãnh đạo, quản lý”
do TS.Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm, đã phân tích về thực trạng, xu hướng
và đề xuất giải pháp đối với tôn giáo này từ phương diện công tác tôn giáo.
Năm 2004, Phan Bá Tài có luận văn tốt nghiệp đại học về “Phật giáo
Hoà Hảo ở Đồng Tháp thực trạng và chính sách”.
Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội. Trong cuốn sách tác giả đề cập đến các tôn giáo lớn ở Việt Nam và đã
có nhiều trang nói về sự hình thành và phát triển; về giáo lý, giáo luật; về sự
phân hóa nội bộ và hoạt động liên quan đến lĩnh vực chính trị của tôn giáo này.
Năm 2006, Bùi Văn Hải có luận văn Thạc sĩ Triết học “Về công tác tôn
giáo đối với Phật giáo Hoà Hảo hiện nay”. Luận văn phản ánh thực trạng Phật
giáo Hòa Hảo, quá trình thực hiện chính sách đối với tôn giáo này và đề xuất
giải pháp cho công tác đối với Phật giáo Hòa Hảo. Đến năm 2013, tác giả Bùi
Văn Hải đã phát triển luận văn này thành đề tài luận án tiến sỹ: “Phật giáo
Hoà Hảo – lịch sử và những vấn đề hiện nay” với sự mở rộng và sâu sắc thêm
nhiều vấn đề căn cốt của Phật giáo Hòa Hảo trong lịch sử và hiện tại.
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và tôn giáo bản địa, Nxb Tôn
giáo. Cuốn sách giới hạn ở việc khảo sát và kiến giải về đạo Cao Đài, Bửu Sơn
Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo từ góc độ tâm lý. Tác giả đã dành một số trang
nói về Phật giáo Hòa Hảo, tóm tắt về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và khảo sát về
ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần ở đồng bằng sông Cửu Long.
5
Đoàn Nô (2007), Phật giáo Hòa Hảo ở Miền Tây Nam bộ, Nxb Văn hóa
Sài Gòn, đã bàn về lịch sử hình thành, phát triển của Phật giáo Hòa Hảo và ảnh
hưởng ở miền Tây Nam bộ.
Đề tài khoa học (2012), Tổng kết lịch sử đấu tranh chống các thế lực thù
địch phản động lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo (1975 – 2010), Cục A88 - Bộ
Công an chủ trì. Đề tài đã khái quát lịch sử đấu tranh chống các thế lực phản
động lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo và rút ra các bài học kinh nghiệm.
Bùi Thị Thu Hà (2012), Phật giáo Hòa Hảo tri thức cơ bản, trình bày
tương đối toàn diện về tôn giáo này từ khi ra đời cho đến nay; về đồng bào
Phật giáo Hòa Hảo đồng hành cùng dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các công trình đó nghiên cứu đó đã làm sáng tỏ về nguồn gốc lịch sử,
giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức, thực trạng, nguyên nhân, xu hướng phát
triển và các giải pháp lãnh đạo, quản lý đối với Phật giáo Hoà Hảo, cũng như lý
luận chung về tôn giáo. Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật
giáo Hoà Hảo, với tính cách là một đề tài chuyên sâu cả về lý luận và thực tiễn,
vẫn là một đòi hỏi của hôm nay.
Thực hiện đề tài luận văn này, các công trình nghiên cứu về Phật giáo
Hòa Hảo là tư liệu quý giá để tác giả tham khảo và kế thừa biện chứng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát về Phật giáo Hòa Hảo, lý luận quản lý nhà nước,
thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo,
tác giả đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt
động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
9
+ Khái quát đặc điểm của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam và những nhận
thức chung về quản lý nhà nước đối với tôn giáo này.
+ Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo
Hoà Hảo ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
+ Dự báo xu hướng vận động và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của
Phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của
Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam từ năm 1999 đến nay (khi Phật giáo Hòa Hảo
được nhà nước công nhận tư cách pháp nhân).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo nói chung và với Phật giáo Hoà Hảo
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; những phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành quản lý xã hội và các phương pháp nghiên cứu liên ngành của
tôn giáo học, xã hội học, chính trị học, luật học,...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
1
0
Thứ nhất, luận văn khảo sát làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với
hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo.
Thứ hai, luận văn đề xuất giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước
đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy lý luận về tôn giáo nói chung và Phật giáo Hòa Hảo nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước về tôn giáo nói chung và với Phật giáo Hoà Hảo nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương và 6 tiết.
Chương 1
PHẬT GIÁO HOÀ HẢO
VÀ NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO
1.1. Phật giáo Hoà Hảo – Sự ra đời và đặc điểm cơ bản
1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo
1.1.1.1. Bối cảnh và điều kiện ra đời của Phật giáo Hoà Hảo Thứ
nhất, về bối cảnh địa lý khai sinh ra Phật giáo Hòa Hảo.
Với vị trí giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (khoảng 30 km), làng
Hoà Hảo là một địa danh mới được hình thành từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX. Từ xa xưa, nơi đây cùng với vùng núi Thất Sơn hợp thành "Châu Đốc Tân
Cương" được coi là nơi biên viễn xa xôi hiểm trở của miền Tây Nam Bộ.
Làng Hòa Hảo là một làng thuần nông và do đất chật, người đông, đã hình
thành một vùng dân cư sầm uất. Làng Hoà Hảo - nơi sinh ra và là trung tâm
Phật giáo Hoà Hảo thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc trước đây, ngày nay
thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Thứ hai, về bối cảnh kinh tế của đất nước.
Đầu những năm 1930, bắt nguồn từ chính sách “đại khai thác” của thực
dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Việt Nam bước vào cuộc khủng
hoảng kinh tế nặng nề và kéo dài, cuộc sống nhân dân đói khổ cùng cực. Nam
bộ, nhất là đồng bằng sông Cửu Long, là trọng điểm cho chúng vơ vét, bóc lột
nhân dân đến mức kiệt quệ; thiên tai, dịch bệnh, nạn đói hoành hành… càng
làm tăng thêm nỗi thống khổ của nhân dân lao động đã bùng lên nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo.
Thứ ba, về bối cảnh chính trị - xã hội.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp - Nhật tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau ở Việt Nam, làm cho tình hình nước Việt Nam thuộc địa vốn
đã căng thẳng lại càng căng thẳng thêm. Trong khi đó, Nhà nước phong kiến
Việt Nam và hệ tư tưởng của nó đang suy tàn, thì sự phản động của Nhà nước
bảo hộ và bản chất kẻ xâm lược ngày càng lộ rõ. Hệ tư tưởng tư sản đã tỏ ra bất
lực; một số trí thức yêu nước cũng bị bế tắc về đường lối. Niềm hy vọng và chỗ
dựa vững chắc của nhân dân lao động lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản. Song, vào
thời kỳ này, Đảng cộng sản bị thực dân Pháp và triều đình Huế đàn áp khốc liệt
nên phong trào yêu nước tạm thời đi vào thoái trào.
Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân, phong
kiến tay sai càng trở nên sâu sắc. Khi các phong trào cách mạng bị đàn áp và
chịu tổn thất nặng nề thì một bộ phận quần chúng, trong đó phần lớn là nông
dân, mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin, cộng thêm trình độ dân trí thấp
kém, đời sống cùng cực, quần chúng đã tìm đến tín ngưỡng, tôn giáo, cầu
mong có được chỗ dựa tinh thần và đó là tất yếu. Vì vậy, khi ông Huỳnh Phú
Sổ đứng ra khai đạo Phật giáo Hòa Hảo thì những người nông dân miền Tây
Nam bộ đã nhanh chóng tìm đến, tự nguyện làm tín đồ.
Thứ tư, về tiền đề tư tưởng.
Đó là sự suy thoái của các tín ngưỡng, tôn giáo đương thời ở Nam bộ.
Sự suy vi của Phật giáo Bắc tông truyền thống kéo dài từ mấy thế kỷ trước,
nhưng đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX càng thêm trầm trọng; thứ đến là
Nho giáo - chỗ dựa của chế độ phong kiến, tỏ ra không thích hợp với thay đổi
mọi mặt của xã hội Nam bộ. Còn các tôn giáo khác mới du nhập, như Công
giáo và Tin lành, cũng không phát triển được vì gắn với thực dân đế quốc, lại
khác lạ về văn hoá, lối sống.
Trong sự mở rộng và củng cố lãnh thổ phía nam Tổ quốc, các tộc người
Chăm, Hoa, Khơme đã cùng người Việt khai hoang lập ấp đã có mối quan hệ
gắn bó trong mọi lĩnh vực xã hội, tạo ra những nét đặc trưng văn hoá của một
13
vùng vừa phong phú về nội dung vừa đa dạng về hình thức. Nam bộ còn là nơi
có nhiều tôn giáo: Hồi giáo, Công giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Cao Đài. Theo đó, làm nảy sinh quá trình dung hợp, tiếp biến văn hoá
như các tôn giáo địa phương tiếp biến giáo lý từ nhiều tôn giáo khác nhau.
Ngoài ra, thiên nhiên đa dạng, phức tạp, cùng với trình độ dân trí có hạn lại
được giải thích một cách huyền bí, cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện
nhiều đạo mang tính cứu thế suốt thế kỷ XIX và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, với hai địa điểm là miền Thất Sơn và núi Bà Đen. Những đạo
này (đạo Nằm, đạo Ngồi, đạo Dừa, Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa…) đã
có ảnh hưởng lớn đến sự xuất hiện đạo Cao Đài và Phật giáo Hoà Hảo.
Những năm 30 của thế kỷ XX Việt Nam xuất hiện “phong trào chấn
hưng Phật giáo”. Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo không chỉ có mục tiêu là
chấn chỉnh tổ chức và tín ngưỡng Phật giáo để nó thích hợp với xã hội đương
thời, mà còn để nâng cao nhận thức đối với giáo lý, nâng cao tư duy lý luận của
Phật tử, nâng cao sự hiểu biết của người dân Việt Nam đối với Phật giáo.Thông
qua phong trào này, Phật giáo Việt Nam có sự phát triển mới về nội dung và
mục đích hành đạo.
Kết quả của Phong trào Chấn hưng Phật giáo đã mở đường cho Phật giáo
canh tân, ảnh hưởng đến các "Ông Đạo" ở Nam bộ, tạo điều kiện cho các tôn
giáo mới xuất phát từ tư tưởng Phật giáo, đã ra đời. Ông Đoàn Minh Huyên
(1807-1856)- người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương đã có ảnh hưởng to lớn đến
người sáng lập cũng như đến toàn bộ nội dung của Phật giáo Hoà Hảo.
Thứ năm, về người sáng lập Phật giáo Hoà Hảo:
Ông Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) sinh tại làng Hoà Hảo, là con thứ ba
trong gia đình, nhưng là trưởng nam của ông Huỳnh Công Bộ (Hương Cả Bộ)
và bà Lê Thị Nhậm.
14
Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông phải bỏ học vì mắc nhiều bệnh. Ông lên
vùng Thất Sơn chữa bệnh và tại đây ông bắt đầu học đạo, học làm thuốc. Có
thể nói đây là bước ngoặt trong cuộc đời ông.
Năm 1939, sau 5 - 6 năm ở vùng Thất Sơn chữa bệnh, Huỳnh Phú Sổ về
quê vừa bốc thuốc vừa tuyên truyền tư tưởng của đạo Đoàn Minh Huyên (Bửu
Sơn Kỳ Hương) là "Tứ Ân Hiếu Nghĩa". Ông tự nhận là người được Đức Di đà
phái xuống trần để truyền dạy những tư tưởng của Đức Phật.
Ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939), ông Huỳnh Phú Sổ tổ chức lễ Cáo
Hoàng Thiên, thành lập Phật giáo Hoà Hảo, hay đạo Hoà Hảo. Ông Huỳnh Phú
Sổ được tín đồ tôn làm Giáo chủ (Đức Huỳnh Giáo chủ hay Đức Thày). Trong
hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ở thời đó của đất nước thì Phật giáo Hoà Hảo được
xem là một "phương thuốc" cứu thế của một bộ phận nông dân Nam Bộ.
1.1.1.2. Các giai đoạn phát triển của Phật giáo Hoà Hảo
Giai đoạn thứ nhất, từ ngày thành lập đạo (1939) đến trước năm 1975.
Từ ngày thành lập đạo (1939) đến năm 1947 là thời kỳ "hoàng kim" của
Phật giáo Hoà Hảo. Ông Huỳnh Phú Sổ trở thành Phật sống vì những việc làm
và lời lẽ "siêu phàm". Chính trong khoảng thời gian ngắn này, Huỳnh Phú Sổ
đã cho ra đời 6 tác phẩm trong "Sấm giảng giáo lý".
Thời kỳ này, Phật giáo Hoà Hảo phát triển mạnh mẽ về giáo lý; hình
thành nghi lễ ổn định, đặc biệt là việc phát triển số lượng tín đồ. Thời kỳ này,
người theo Phật giáo Hoà Hảo có đóng niên liễm là 2,1 triệu người. Nguyên
nhân cơ bản là do quần chúng ngưỡng mộ giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tự nguyện
theo theo đạo để thoả mãn nhu cầu tinh thần và họ có đức tin bền vững.
Từ năm 1947 Phật giáo Hoà Hảo chuyển sang một thời kỳ mới: có tổ
chức hành chính đạo, nhưng cũng là thời kỳ nó dần bị suy giảm, biến dạng.
Tháng 11 năm 1964, Ban Trị sự Phật giáo Hoà Hảo nhiệm kỳ I chính thức
hoạt động và đây là mốc mở đầu cho thời kỳ Phật giáo Hoà Hảo có tổ chức,
15
nhưng cũng là tiền đề gây ra sự bất đồng và suy thoái trong nội bộ giáo hội. Phật
giáo Hoà Hảo chia ra 2 hệ phái, một do Lương Trọng Tường đứng đầu, (đây là
hệ phái có tổ chức quân sự), có quan hệ mật thiết với chính quyền nguỵ và đế
quốc Mỹ. Hệ phái khác do Nguyễn Duy Hinh - Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu.
Phái này có ảnh hưởng lớn trong tín đồ ở miền Tây, sinh hoạt tôn giáo thuần tuý,
còn đối với chính trị phải có chủ trương ôn hoà. Năm 1972 xuất hiện hệ phái thứ
3 do Lê Quang Liêm làm hội trưởng. Lê Quang Liêm nguyên là cố vấn kiêm
giám đốc trung tâm phổ thông giáo lý của hệ phái Lương Trọng Tường, nhưng
do mâu thuẫn mà tách ra thành lập giáo hội mới. Lê Quang Liêm không phải là
tín đồ thuần tuý mà là người từng hoạt động chính trị, từng phục vụ cho cả Pháp
và Mỹ, tham gia bộ máy nguỵ quyền Sài Gòn.
Giai đoạn thứ hai, từ năm 1975 đến tháng 5/1999 (giai đoạn trước khi
Phật giáo Hoà Hảo được công nhận tư cách pháp nhân).
Sau khi Sài Gòn giải phóng, ngày 19/6/1975, đại diện tổ đình là bà
Huỳnh Thị Kim Biên và Huỳnh Văn Quốc ra thông cáo giải tán Ban Trị Sự các
cấp của Phật giáo Hoà Hảo. Phật giáo Hoà Hảo từ đây không còn tổ chức hành
chính và nó tồn tại thông qua hoạt động tôn giáo của từng cá nhân tín đồ.
Trong môi trường chế độ xã hội mới, sự đạo của Phật giáo Hoà Hảo vẫn duy trì
bình thường.
Giai đoạn thứ ba, từ tháng 5/1999 đến nay (Giai đoạn từ Đại hội lần thứ
I đến Đại hội lần thứ IV tháng 6/2014).
Phật giáo Hoà Hảo tiến hành Đại hội đại biểu toàn đạo lần thứ nhất vào
tháng 5/1999, bầu chọn ra Ban Đại diện. Đại hội đại biểu toàn đạo lần thứ II,
tháng 6/2004, đã xây dựng Hiến chương, khẳng định đường hướng hành đạo
của Phật giáo Hoà Hảo là: "Vì đạo pháp, vì dân tộc"; kiện toàn tổ chức, bao
bồm Ban Trị sự 2 cấp: cấp toàn đạo và cấp cơ sở. Đại hội đại biểu toàn đạo lần
thứ III, tháng 5/2009, đại hội nhất trí thành lập Ban Đại diện ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có Phật giáo Hoà Hảo do Ban Trị sự Trung ương
16
Phật giáo Hoà Hảo phân công (trước đây là Đại diện tỉnh). Tháng 6/2014 Đại
hội đại biểu toàn đạo lần thứ IV. Trải qua bốn nhiệm kỳ hoạt động, Phật giáo
Hoà Hảo đã từng bước lớn mạnh và có tổ chức giáo hội 2 cấp, gồm có 01 Ban
Trị sự Trung ương và 379 Ban Trị sự xã, phường, thị trấn (cấp cơ sở), cùng 13
Ban Đại diện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Đến nay, Phật giáo Hoà Hảo có 1,3 triệu tín đồ, ở 20 tỉnh, thành phố mà
chủ yếu là ở 09 tỉnh miền Tây Nam bộ là: An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang, Long An và Kiên Giang.
Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo đã từng bước được củng cố và
nâng cao chất lượng hoạt động. Giáo hội đã vận động tín đồ tự nguyện tham gia
có hiệu quả cao trong hoạt động từ thiện- xã hội, như: xây mới và sửa chữa cầu
nông thôn; sửa chữa và nâng cấp đường bộ; sửa chữa và xây dựng nhà tình
thương; quyên góp để tổ chức cứu trợ xã hội. Thời gian qua, tín đồ Phật giáo
Hoà Hảo đã nêu cao trách nhiệm công dân sống, hoạt động theo luật pháp, kịp
thời đấu tranh với những hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn
giáo; góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng quê hương đất nước “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.1.2. Đặc điểm về giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức của Phật giáo Hoà Hảo
1.1.2.1.
Giáo lý của Phật giáo Hoà Hảo
Kinh sách của Phật giáo Hoà Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ viết bao gồm
phần Sấm giảng giáo lý và phần Thi văn giáo lý viết theo dạng thơ sấm vãn
truyền ngôn, giản dị dễ nhớ.
Phần Sấm giảng gồm 6 cuốn:
- Cuốn 1: Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, được viết theo thể lục bát gồm
912 câu.
- Cuốn 2: Kệ dân của người khùng, thơ 7 chữ, dài 846 câu.
17
Hai cuốn trên đều được viết năm 1939, chứa đựng nội dung tiên tri
những cảnh lầm than trong thời kỳ Hạ nguyên, tác giả tự xưng mình được phái
xuống trần làm kẻ điên để giảng đạo cho dân chúng, tỉnh ngộ họ mau mau tu
niệm kẻo muộn. Ông tự nhận là kẻ "điên" vì không làm theo những điều mà
những người bình thường vẫn làm trong một xã hội chạy theo những ham
muốn vật chất.
- Cuốn 3: Sấm giảng, viết năm 1939, theo thể lục bát, dài 612 câu, trong cuốn
này ông dạy người ta phải tu nhân đạo.
- Cuốn 4: Giác mê tâm kệ, viết năm 1939, thơ 7 chữ, dài 846 câu, viết về các
khái niệm Phật giáo, như Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Ngũ uẩn, Lục trần… và
khuyên người tu cốt ở lòng thành, không câu nệ hình thức, nghi lễ.
- Cuốn 5: Khuyến thiện, viết năm 1941, gồm 756 câu thơ lục bát, kể chuyện
Thích Ca ngộ đạo, luận khổ về tịnh độ, diệt ngã trược, trừ thập ác, hành thập
thiện.
- Cuốn 6: Cách tu hiền và cách ăn ở của người bổn đạo, viết năm 1945, dưới
dạng văn xuôi. Cuốn này bàn về cách tu của Phật giáo Hoà Hảo là học phật
tu nhân; lý giải Tứ Ân, Tam nghiệp, Thập ác, Bát chính đạo; quy định cách
thờ phượng, hành lễ, những kiêng kỵ, cấm kỵ. Cuốn sách là kết quả của một
thời kỳ đạo đã hình thành, phát triển, có hệ thống tổ chức, giáo luật.
Phần thi văn giáo lý bao gồm những bài thi văn xướng hoạ được tập hợp
lại từ năm 1939 đến 1947, gồm 253 bài văn vần và văn xuôi.
Giáo lý của Phật giáo Hoà Hảo tóm gọn trong 4 chữ: Học Phật tu nhân.
Cốt lõi của học Phật tu nhân là tứ ân:
1- Ân tổ tiên, cha mẹ.
2- Ân đất nước.
3- Ân tam bảo.
18
4- Ân đồng bào nhân loại.
Nhìn chung, giáo lý Phật giáo Hoà Hảo chứa đựng các tư tưởng của Nho,
Phật, Lão, bởi "Tứ ân" là một hình thức tam giáo mà tính trội thuộc về Nho giáo,
thứ đến là Đạo giáo vì dùng phù phép trừ tà chữa bệnh, cuối cùng mới đến là
Phật giáo (ân Tam bảo). Nhưng đối với đạo Hoà Hảo, tư tưởng Phật giáo lại là
tính trội. Theo Phật giáo Hoà Hảo thì “tu nhân” tạo nên “công”, “học Phật” tạo
nên “đức”, có công có đức mới trở thành bậc hiền nhân.
1.1.2.2. Giáo luật của Phật giáo Hoà Hảo
Tín đồ thực hiện 8 điều răn của Đức Giáo chủ:
1. Không nên uống rượu, cờ bạc, thuốc phiện, chơi bời, đàng điếm, phải giữ
trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
2. Không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chân
chất, không nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng
giận.
3. Không nên ăn xài chưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân
nghĩa đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
4. Không nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay nguyền rủa vì thần thánh
không can phạm đến ta.
5. Không ăn thịt trâu, bò, chó và sát sinh hại vật mà cúng thần, Thánh vì Thần
Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta vì nếu ta làm tội sẽ chịu
tội, còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà Thần: Nếu ta cúng kiếng mãi
thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
6. Không nên đốt giấy, tiền, vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi
Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta mà cũng không xài được nữa,
phải để tiền lãng phí ấy trợ cứu cho những người đói rách, tàn tật.
19
7. Đứng trước mọi việc gì về sự đời, hay đạo đức, phải suy xét cho minh lý rồi sẽ
phán đoán việc ấy.
8. Tóm lại phải yêu thương lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào con
đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây phương an
dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Rõ ràng những lời khuyên răn trên là những tư tưởng tiến bộ của Phật
giáo Hoà Hảo không chỉ phù hợp với thời kỳ trước mà còn có ích với thời nay.
Về thủ tục nhập đạo:
Trước năm 1975, người nhập đạo phải tự nguyện, đủ 18 tuổi, có hai tín
đồ tiến cử và bảo lãnh. Phải xin phép cha mẹ, phải nguyện trước bàn thờ ông
bà, tổ tiên. Trưởng Ban trị sự cơ sở phát cho họ cuốn sách “Cách tu hiền và sự
ăn ở của một người bổn đạo” để hướng dẫn cách thờ phượng, cách hành xử
của tín đồ, coi đó là sách gối đầu giường. Tín đồ mới sẽ được giới thiệu với
Ban trị sự cơ sở. Sau khi nhập đạo, họ được phát thẻ tín đồ và đóng nguyệt
liễm, được tham gia các sinh hoạt đạo... Ai muốn ra khỏi đạo thì báo trước cho
người tiến cử và Ban trị sự cơ sở để xoá tên trong danh sách.
Ngày nay, người muốn vào đạo phải đủ 18 tuổi, tự nguyện viết đơn xin
nhập đạo, có hai tín đồ giới thiệu. Họ đến Ban Trị sự cơ sở ghi danh, học giáo
lý, giáo luật và phải xin phép cha mẹ mình về tự nguyện quy y theo đạo.
Về những ngày lễ trọng:
Cho đến nay các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo đã nhìn nhận tôn giáo của họ
có một ngày lễ trọng, đó là ngày 18/5 âm lịch hàng năm là ngày khai đạo Phật
giáo Hoà Hảo, với tín đồ thì điều đó đã trở thành đức tin bền vững. Vào ngày
này, tín đồ dù xa xôi cũng cố gắng về thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang để viếng Tổ đình Đức Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo và An Hoà tự.
20
Ngoài ra còn một số ngày lễ khác: ngày 7/3 âm lịch giỗ Đức ông, ngày
26/4 âm lịch giỗ Đức Bà, ngày 12/8 âm lịch vía Phật Thầy Tây An, ngày 25/11
âm lịch ngày sinh Đức Huỳnh Giáo chủ.
1.1.2.3. .3. Lễ nghi của Phật giáo Hoà Hảo Về
cầu cúng:
Tín đồ Phật giáo Hoà Hảo là cư sỹ tại gia, họ không có nghi thức hành lễ
tập thể tại nơi thờ tự chung mà chỉ có nghi thức hành lễ cá nhân trước bàn thờ
tổ tiên, bàn thờ Phật và bàn thông thiên. Tại các bàn thờ mỗi tín đồ đều có các
hoạt động: xá, lạy, nguyện (bài đọc) và niệm Phật. Mỗi gia đình có 3 bàn thờ:
Bàn thờ Phật đặt nơi cao nhất chỉ treo tấm vải Trần Dà; bàn thờ Tổ tiên đặt
dưới bàn thờ Phật; bàn thờ Thông thiên ở trước của nhà. Sau này họ có thờ ảnh
ông Huỳnh Phú Sổ, thường đặt dưới tấm Trần Dà.
Đi làm ruộng khi xa nhà đến giờ cúng ngó về hướng Tây nguyện rồi xá
bốn hướng. Đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.
Về tang lễ:
Bắt nguồn từ quan niệm người thân và anh em đồng đạo thông qua cầu
nguyện có thể giúp cho vong linh người chết được siêu linh nơi cõi thọ, nên
nghi lễ đối với người chết vẫn thực hành theo truyền thống địa phương kèm
theo sự cầu nguyện. Trong tang lễ, Phật giáo Hoà Hảo không xử dụng thầy
cúng, không đốt vàng mã. Giáo lý còn khuyên mọi người đừng nên khóc lóc
mà ảnh hưởng đến sự siêu thoát của người chết
Về ăn chay:
Ăn chay theo ngày tuần, ăn chay trường.
Về lễ phục:
Không quy định song hiện nay trong những ngày lễ hoặc cúng tại chùa,
tín đồ đều vận áo đen, khăn đóng đen.
21
Về lễ vật thờ cúng:
Phật giáo Hoà Hảo thờ Phật, nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh, mà
chỉ bằng tấm Trần Dà thay cho tấm vải Trần Điều của Bửu Sơn Kỳ Hương, cùng
một quan niệm là “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Đồ thờ cúng Phật, cúng trời đất
thường có nước lạnh, hoa, hương và được giải thích như sau:
- Nước lạnh thể hiện sự trong sạch,
- Hoa thể hiện sự tinh thiết,
- Hương thơm xua đuổi tà khí.
Lễ vật cúng ông bà tổ tiên là đồ chay hoặc mặn tuỳ ý. Không dùng vàng
mã trong cúng giỗ, họ cho rằng đó là điều giả tạo, lãnh phí không cần thiết.
Phật giáo Hòa hảo không lạy người lúc sống, trừ ông bà, cha mẹ. Thông
thường, khi tín đồ làm lễ cầm hương vái 3 vái rồi quỳ xuống khấn theo bài quy
định, sau đó cầm hương đứng thẳng, chắp tay trước ngực, tiếp tục khấn lời
khấn theo quy định của Phật giáo Hòa Hảo. Kết lúc việc lễ, tín đồ lạy 4 lạy.
Khi làm lễ ở bàn thờ Thông thiên, lần lượt vái cả 4 hướng.
Về cúng giỗ:
Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ không nên làm giỗ linh đình tốn kém,
vì Thánh thần, người chết không ăn được những thứ đó và không dùng vàng
mã khi cúng giỗ.
Nơi thờ tự:
Tại gia đình, tại An Hoà tự, tại Tổ đình Đức Giáo chủ Phật giáo Hòa hảo
và tại chùa của Phật giáo Hoà Hảo.
1.1.2.4. Tổ chức của Phật giáo Hoà Hảo
Khi mới khai đạo Phật giáo Hoà Hảo chủ trương không có hàng giáo
phẩm và không có tổ chức của đạo. Nhưng sau này (1964) đạo phát triển mạnh,
một số người có tham vọng chính trị lập ra hệ thống các Ban Trị sự từ Trung
ương đến cơ sở. Cùng tồn tại song song với các Ban Trị sự là các cấp của Đảng
Dân xã mà đảng viên chủ yếu là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo. Ngoài ra, trong thời
gian từ 1945 đến 1975, còn tồn tại các lực lượng vũ trang Hoà Hảo khác nhau,
gần như độc lập với nhau và độc lập với hệ thống tổ chức đạo.
Hiện nay, tại Điều 4 của Hiến chương quy định Hệ thống tổ chức của
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo gồm 2 cấp:
- Cấp toàn đạo gọi là Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
- Cấp cơ sở gọi là Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã).
- Tại những tỉnh, thành phố có đông tín đồ Phật giáo Hòa Hảo lập Ban Đại
diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, thành phố.
- Ban Trị sự các cấp có tư cách pháp nhân, có con dấu và được đăng ký tài
khoản ở ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. Ban Đại diện tỉnh, thành phố và
các ban chuyên ngành, văn phòng (trực thuộc Ban Trị sự Trung ương) có
con dấu sử dụng lưu hành nội bộ theo quy định của pháp luật.
Giúp việc cho Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và
nối liên hệ với cơ sở, tại mỗi tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có Ban
Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, thành phố do Ban Trị sự Trung ương Giáo
hội Phật giáo Hòa Hảo bổ nhiệm.
Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo do Đại hội Đại biểu
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo toàn đạo suy cử có từ 25 đến 29 Trị sự viên, nhiệm
kỳ là 5 năm, là tổ chức hợp pháp duy nhất của Phật giáo Hòa Hảo, đại diện cho
toàn thể tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (Điều 5).
Như vậy, Phật giáo Hòa Hảo là 1 tôn giáo”dung dị hóa” Phật giáo nên
với người nông dân Nam bộ, nó trở nên dễ gần, dễ theo. Phật giáo Hòa Hảo có
23
người giáo chủ mà tín đồ luôn sủng ái, tin tưởng dù đã “vắng bóng” từ lâu. Về
mặt tổ chức, tôn giáo này từ chỗ không có để rồi như một quy luật, đến một lúc
nào đó lại có tổ chức. Đó là những đặc điểm của Phật giáo Hòa Hảo cần phải
nắm vững từ phương diện quản lý.
1.2. Nhận thức chung về quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo
Hoà Hảo
1.2.1. Lý luận về quản lý nhà nước về tôn giáo
1.2.1.1. Các khái niệm liên quan Khái
niệm quản lý:
Tùy từng mục tiêu, góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta có thể đưa ra
những quan niệm khác nhau về “quản lý”. Có quan điểm coi “quản lý” là tiến
trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra của các
thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực để đạt mục tiêu. Quan
điểm khác cho rằng “quản lý” là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ
thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những
quy luật nhất định. Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ “quản lý” được
thống nhất ở hai nội dung:
- Quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý.
- Mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với
ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Vậy, Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước.
Khái niệm về tôn giáo:
Thuật ngữ tôn giáo xuất phát từ tiếng La tinh (Relegere), nghĩa là: thu
lượm thêm sức mạnh siêu nhiên.
24
Theo từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học chủ biên xuất bản năm
2005 thì tôn giáo: "1. Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên
cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có lực lượng siêu
tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ; 2.
Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng; sùng bái một hay những vị thần linh
nào đó và những lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy" [58, 305].
Ở nước ta hiện nay, tôn giáo thường được hiểu từ phương diện là một
thực thể xã hội, hơn nữa là tôn giáo có cơ cấu. Đó là: tôn giáo là niềm tin của
con người vào lực lượng siêu nhiên, với một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức.
Khái niệm hoạt động tôn giáo:
Điều 3, khoản 5 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã xác định: “Hoạt
động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ
chức của tôn giáo”[27, tr 9]. Như vậy có thể hiểu truyền bá giáo lý, giáo luật là
việc tuyên truyền lịch sử hình thành, phát triển, nội dung giáo lý, giáo luật, lễ
nghi,…của tôn giáo; thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt
động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật,
thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ; quản
đạo là hoạt động quản lý của tổ chức tôn giáo nhằm thực hiện quy định theo
giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì
trật tự hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Khái niệm quản lý nhà nước:
Hoạt động quản lý bao gồm nhiều loại, trong đó quản lý xã hội là một
dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù
hợp với ý chí nhà quản lý và qui luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ
thể tiến hành. Khi Nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan
25
trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm và quản lý nhà nước ra đời. Khái niệm
quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của nhà nước,
được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan nhà nước (Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã
hội.
- Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền
lực nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp).
Như vậy, quản lý nhà nước là việc các cơ quan nhà nước sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của con người, phù
hợp với ý chí nhà quản lý và qui luật khách quan.
Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo:
- Theo nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác
động nhằm điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt
động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt
được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
- Theo nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quản lý nhà nước về tôn giáo là hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền
tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các hoạt động tôn giáo