TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Tên đề tài: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về vai trò, bản chất giai cấp công nhân và nền tảng tư
tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Làm rõ sự sáng
tạo của Người trong quan điểm về sự ra đời của Đảng.
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Trần Mai Ước
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 5
Lớp: T11- ĐH28QT02
TP.HCM, tháng 5/2013
Lời mở đầu
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên Thế giới nhanh
chóng, phức tạp khó lường, những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội
ngày càng nhiều, càng đòi hỏi phải có những lời giải đáp thuyết phục, có cơ
sở lý luận và thực tiễn. Trong lúc đó, các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ
đoạn hòng xuyên tạc, phủ nhận từng luận điểm trong học thuyết Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh để đi tới xóa bỏ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và
nhân dân ta. Vì vậy hơn lúc nào hết,việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm
khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đang trở thành nhiệm
vụ quan trọng, cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sáng lập, xây dựng và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân, lèo lái con thuyền cách mạng vượt qua
mọi thác ghềnh đi đến bến bờ độc lập. Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình
cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
cho độc lập tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng là của giai cấp công nhân, lấy
giai cấp công nhân làm nòng cốt, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đã chứng minh được
vai trò to lớn của mình từ việc đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi đến
công tác quản lý Nhà nước và xã hội.Sự ra đời của Đảng là một bước ngoặt
lớn cho cách mạng Việt Nam, nó chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, là sự chuẩn
bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Đảng Cộng sản
Việt Nam, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là Đảng của giai cấp công nhân,
lấy giai cấp công nhân làm nòng cốt, đại diện cho lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Do tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm “cốt” nên quan
điểm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dựa trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản. Song, đó không phải là sự rập khuôn
hoàn toàn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin mà chủ tịch Hồ Chí
Minh với năng lực quan sát và tư duy vốn có đã vận dụng hệ thống quan điểm
đó một cách sáng tạo và phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Để làm rõ
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, về vai trò,
bản chất của Đảng, cũng như yếu tố sáng tạo trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh so với chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng em thực hiện bài tiểu luận với đề
tài: “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất giai cấp
công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Làm rõ sư
sáng tạo của Người trong quan điểm về sư ra đời của Đảng”.
1. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất
giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt
Nam.
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam
1.2. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam
1.3. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một
tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ
nghĩa Mác-Lênin chính là học thuyết khoa học “chân chính nhất, cách mạng
nhất” vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp
bức bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Mặt khác, nói tới bản
chất giai cấp công nhân của Đảng là nói tới nền tảng tư tưởng, bởi nếu Đảng
không dựa trên nền tảng tư tưởng Mác-Lênin thì Đảng không thể mang bản
chất giai cấp công nhân. Chính vì lý lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin “làm cốt” hay nói cách khác, chủ nghĩa Mác-Lênin chính là
nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt” theo Hồ Chí Minh không có nghĩa
là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ mà chính là nắm vững tinh
thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin là để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
loại, phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nghĩa là phải
biết vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, đồng thời phải giữ vững tính nguyên tắc, đấu tranh bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống lại những khuynh hướng sai lầm
như đòi xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin hay giáo điều, rập khuông, máy móc.
Trong thời kì mới Đảng cần phải chú ý hơn nữa trong việc vận dụng và
phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Một mặt phải kiên trì chủ nghĩa MácLênin, mặt khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Nếu không kiên trì chủ
nghĩa Mác-Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, rốt cuộc cũng không có sáng
tạo lý luận đích thực. Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin trong tình hình mới sẽ làm mất đi sức sống của nó mà thời đại đang yêu
cầu. Dĩ nhiên, phải luôn xác định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa MácLênin với các biểu hiện bảo thủ, giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội
chính trị.
Bên cạnh việc nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin ta còn phải thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và
nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn.
Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa, mà ở đó
giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì chủ
nghĩa Mác-Lênin sẽ góp phần quan trọng làm cho các thành phần khác khi
đứng trong hàng ngũ của Đảng kiên định lập trường của giai cấp công nhân,
giữ vững nguyên tắc của Đảng, phấn đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.
2. Sư sáng tạo của Người trong quan điểm về sư ra đời của
Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học
thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân, được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Trong đó, V.I.Lê-nin chỉ rõ, Đảng Cộng sản ra đời là tất yếu khách quan, là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Ở đây, Lênin đã cụ thể hóa vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của
cách mạng vô sản, “giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào cách mạng,
là người lãnh đạo của nhân dân lao động” và khẳng định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân “là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và người sáng tạo
ra xã hội mới”. Theo V.I.Lê-nin, chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau: chủ nghĩa Mác là cơ sở tư tưởng của phong
trào công nhân, phong trào công nhân đóng vai trò như là cơ sở xã hội của
chủ nghĩa Mác. Thật vậy, giai cấp công nhân dù có tiên tiến đến đâu, phong
trào công nhân có lớn mạnh đến đâu nhưng không được tiếp cận, thấm nhuần
tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác thì phong trào công nhân đó cũng như
“con rắn không đầu”, chỉ dừng lại ở trình độ “tự phát” và sớm muộn gì cũng
thất bại.Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
khi có một chính đảng của giai cấp công nhân vững mạnh, nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, có đường lối đúng đắn lãnh đạo.Lê-nin kiên quyết bảo vệ
luận điểm mac-xít nói rằng: “Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh vì một thế
giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào
cách mạng, thông qua chính đảng của mình lãnh đạo”. Chủ nghĩa Mác nếu
không có phong trào công nhân làm nòng cốt để thực hiện sứ mệnh lịch sử,
lãnh đạo cách mạng thì cũng như “cây không có đất bám rễ”, trở thành lý luận
suông. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để giành thắng lợi,
cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân thông qua chính đảng của
mình lãnh đạo, Đảng Cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân”. Sự
tất yếu quyết định lẫn nhau của hai yếu tố trên đã dẫn tới sự ra đời của Đảng
Cộng sản.
V.I.Lênin cho rằng, Đảng Cộng Sản ra đời ở những nơi phong trào công
nhân phát triển nhất, quan điểm của ông về sự ra đời của Đảng Cộng sản xuất
phát từ điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình phong trào công nhân
Châu Âu.Tuy nhiên, Đảng ra đời là sản phẩm của lịch sử và diễn ra trong điều
kiện không gian và thời gian nhất định. Vì vậy, học thuyết Mác – Lê-nin về
Đảng Cộng sản không hoàn toàn phù hợp với những “quốc gia nông dân” vốn
là thuộc địa và phụ thuộc. Điều này đã đặt ra một niềm trăn trở: liệu Việt
Nam, trên cái nền của một xã hội thuộc địa - nửa phong kiến, một nước nông
nghiệp lạc hậu với số lượng công nhân chiếm không quá 2% dân số, có hình
thành và xây dựng được Đảng Cộng sản theo học thuyết Mác – Lê-nin hay
không? Nhận thấy được tính hạn chế đó trong học thuyết của Lê-nin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thông qua việc vận dụng sáng tạo, nêu ra nhiều luận điểm
làm phong phú thêm học thuyết Mác – Lê-nin dựa trên tình hình cụ thể của
Việt Nam để đưa đến sự ra đời của một đảng vô sản kiểu mới - Đảng Cộng
sản Việt Nam vào năm 1930. Sự độc đáo của Hồ Chủ tịch là Người đã sáng
lập ra Đảng trong điều kiện đặc biệt của một nước có số lượng công nhân ít và
truyền thống yêu nước phát triển mạnh mẽ. Theo Người, Đảng Cộng sản “là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước sôi nổi của nhân dân ta trong những năm 20 của thế kỷ
XX”.
Trước hết cần khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản phát triển từ học thuyết Mác – Lê-nin nên Người đã nhận thấy rõ vai trò
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng như đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam và sự hình thành Đảng Cộng
sản Việt Nam. Song, so với “công thức” của V.I.Lê-nin, “công thức” của Hồ
Chí Minh có sự sáng tạo hơn ở yếu tố “phong trào yêu nước”. Người không
chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào công nhân mà còn
truyền bá vào phong trào yêu nước ở Việt Nam. Sở dĩ “phong trào yêu nước”
trở thành yếu tố sáng tạo, kết hợp được với phong trào công nhân và chủ
nghĩa Mác – Lê-nin để hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là vì những lý do
sau:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá
trình phát triển của dân tộc.Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn
trong lịch sử, trở thành dòng văn hóa chủ lưu trong tư tưởng của dân tộc Việt
Nam.Trước phong trào công nhân đã có phong trào yêu nước. Nó đóng vai trò
quan trọng trong lịch sử phát triển của nước ta. Từ xa xưa, chủ nghĩa dân tộc
đã tạo nên sức mạnh chống lại kẻ thù xâm lăng, bảo vệ đất nước như ba lần
chống quân Mông – Nguyên của nhà Trần, vua Quang Trung đại phá quân
Thanh,… Trong bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”. Ngay cả khi giai cấp công nhân ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất của Pháp, (1897-1914), phong trào yêu nước vẫn phát triển mạnh
mẽ, giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng do phong trào công nhân
giai đoạn này vẫn chỉ dừng lại ở trình độ “tự phát”. Các phong trào đấu tranh
đòi thả Phan Bội Châu, đòi để tang Phan Châu Trinh những năm 1925-1926,
các cuộc bãi khóa của học sinh sinh viên,… là những minh chứng cụ thể cho
sức mạnh của phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Phong trào yêu nước liên tục,
bền bỉ đã kết thành giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc ta.
Thứ hai, cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước đều tồn tại
mục tiêu chung, đó là: giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, xây dựng đất
nước giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc. Trong điều kiện một nước thuộc địa
như Việt Nam, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ thì tất cả các tầng lớp, giai cấp
khác đều có mâu thuẫn cơ bản với bọn đế quốc và tay sai.Chính sự tồn tại mâu
thuẫn cơ bản này làm cho phong trào công nhân, ngay từ khi ra đời, đã kết hợp
nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước.Đôi khi không thể phân biệt rạch ròi
đâu là đấu tranh dân tộc, đâu là đấu tranh giai cấp bởi chính bản thân phong
trào công nhân đã mang tính chất của phong trào yêu nước. Trong Báo cáo về
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ viết tại Mátxcơva bằng tiếng Pháp năm 1924,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”,
giải phóng dân tộc bao gồm cả lợi ích của giai cấp công nhân. Vậy, phong trào
công nhân chẳng những đấu tranh chống áp bức giai cấp mà còn chống ách áp
bức dân tộc của thực dân Pháp.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân.Nói đến
phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân.Từ xa xưa,
trong các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc ta, lực lượng chủ yếu là nông
dân.Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác đã chỉ ra tầm quan
trọng của khối liên minh công – nông : “ Công nhân Pháp không thể tiến lên
một bước nào và cũng không thể đụng đến một sợi tóc của chế độ tư sản,
trước khi đông đảo nhân dân nằm giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức
là nông dân và giai cấp tiểu tư sản, nổi dậy chống chế độ tư sản” (1). Ở Việt
Nam, vốn là một nước nông nghiệp, “đông đảo nhân dân nằm giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản” chủ yếu là nông dân với số lượng chiếm gần 90% dân
số Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân lại là bạn đồng minh tự nhiên, giai cấp công nhân xuất thân trực tiếp
từ người nông dân nghèo: nông dân mất ruộng trở thành công nhân, công
nhân mất việc trở thành nông dân. Vì vậy, phong trào nông dân có khả năng
kết hợp với phong trào công nhân và sự kết hợp đó là tất yếu, nó hợp thành
đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam.Bằng chứng là các cao trào trào
Cách mạng từ khi Đảng thành lập đều mang dấu ấn của liên minh công –
nông, đặc biệt là cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ
- Tĩnh.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.Nói đến phong trào yêu nước ở Việt Nam cũng phải nói đến phong trào
của trí thức – lực lượng đã ghi dấu ấn lớn vào tiến trình cách mạng Việt
Nam.Tuy số lượng không đông nhưng tầng lớp trí thức lại là những người
châm “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp bùng
lên.Nặng lòng với quê hương đất nước, lại có điều kiện làm việc đặc thù, họ
nhanh nhạy và chủ động tiếp thu những cái mới, các trào lưu tư tưởng thế giới
tưởng chừng như đã cũ với nhiều nước nhưng “rất mới” ở Việt Nam, từ đó
đứng ra tổ chức hoặc đi theo những tổ chức, phong trào cách mạng theo tư
tưởng mới đó. Đầu thế kỷ XX đã có không ít các tổ chức cách mạng rộ lên sôi
nổi mà những người lãnh đạo không ai khác chính là những giáo viên, học
sinh sinh viên và những người trong đội ngũ trí thức Việt Nam. Trong hàng
ngũ những trí thức tham gia các tổ chức yêu nước đó tất yếu có sự phân hóa,
số đông trong họ ngã dần khuynh hướng cộng sản vào cuối những năm 20.
Vây, đội ngũ trí thức đã góp phần đưa lý luận cách mạng vào phong trào công
nhân, làm cho phong trào công nhân chuyển từ “tự phát” sang “tự giác”.
Trong hành trình đi tìm con đường cứu nước mới cho đất nước, Hồ Chí
Minh phê phán hành động cầu viện Nhật Bản hay tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến
bộ” của các nhà trí thức đi trước và tự định ra cho mình hướng đi hoàn toàn
mới: phải tìm hiểu cho rõ bản chất Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Pháp –
nước đang thống trị dân tộc mình, xem xét họ làm thế nào rồi trở về giúp
đồng bào mình. Tìm thấy con đường cứu nước, có sự chuyển biến về chất
trong tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lê-nin, Người đã gắn
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, đưa nhân
dân ta đi theo con đường mà Người đã trãi qua và nhấn mạnh sự cần thiết phải
có Đảng, đó là Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính tất yếu của việc thành lập một Đảng Cộng sản
theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng là một sự sáng tạo trong tư
tưởng so với những nhà trí thức cùng thời.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập
2. Lê-nin toàn tập 13 Sđd NXB Tiến Bộ - Ma-xcơ-va 1978, tr. 390.