NGHỀ IN KHẮC MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)
Ths. Đinh Thị Thạch Ủng
Tóm tắt báo cáo
Nhiều mộc bản của các triều đại trước còn lại hôm nay đã khiến cho nhiều
học giả đặt câu hỏi: nghề in khắc mộc bản ở Việt Nam có từ bao giờ? Nhiều nhà
nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực: lịch sử, văn hóa, tôn giáo… đã đưa ra kết luận
nghề in khắc mộc bản Việt Nam xuất hiện từ thời nhà Lý căn cứ vào sách Thiền
uyển tập anh được soạn từ thời nhà Trần, khắc in vào năm 1715 và Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú soạn năm 1821. Niên đại này có thể được nhìn
nhận vì chưa có một loại tài liệu nào đề cập đến nghề in khắc mộc bản ở Việt Nam
sớm hơn hai tài liệu nói trên. Từ lúc hình thành, nghề in khắc mộc bản liên tục
phát triển và thịnh vượng nhất vào thời nhà Nguyễn. Kỹ thuật in khắc mộc bản
triều Nguyễn không chỉ sử dụng để in sách, in kinh, in văn bản mà người dân còn
vận dụng kỹ thuật này để in tranh phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, nhu cầu nghệ thuật
qua các loại tranh thờ, tranh diễn tả đời sống sinh hoạt dân gian…, cụ thể làng
Tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội) hiện nay vẫn còn đang tồn tại
và làng in tranh Kim Hoàng (Hà Tây), Làng Sình (Thừa Thiên Huế).… Nghề in
khắc mộc bản tuy đã hình thành trước đó nhưng căn cứ vào tài liệu và những hiện
vật mộc bản còn lưu giữ đến hôm nay có thể thấy được nghề in khắc mộc bản triều
Nguyễn rất phát triển với nhiều cơ sở phường in hình thành gắn liền với nhiều ấn
phẩm ra đời trong giai đoạn này.
Summary of the Nguyen Dynasty carved-woodprint industry
Many Vietnamese woodprints have passed the past feudal dynasties
through the current time making scholars have to give a question: When did the
Vietnamese carved-woodprint industry establish? People research in history,
culture, religion etc concluded that the Vietnamese carved-woodprint industry
established in the Ly dynasty. They based on the content of Thien uyen tap anh
(composed in the Tran dynasty and carved woodprint in 1715) and Lich trieu hien
chuong loai chi (composed by Phan Huy Chu in 1821). This date can acknowledge
because no materials refer to the Vietnamese carved-woodprint industry earlier
than the two above materials. Since forming, the Vietnamese carved-woodprint
industry progressed and most likely prospered in the Nguyen dynasty. This
Nguyen dynasty technique used not only printing books, Buddhist prayer books
etc but also printing many folklore paintings to satisfy the belief and art needs by
many kinds of content of worship and life activities paintings; specifically some
printing painting villages such as Dong Ho (Bac Ninh), Hang Trong (Hanoi), Kim
Hoang (Ha Tay), Sinh (Hue) is still existing. However, the Vietnamese carvedwoodprint industry has established before, due to materials and objects have
preserved we can know in the Nguyen dynasty the carved-woodprint was
progressing with many carved-woodprint precincts and making a lot of printed
matters in this period.
2
Nội dung báo cáo
Thời kỳ phong kiến Việt Nam, tuy công nghiệp chưa phát triển, song nhiều
ngành thủ công nghiệp đã xuất hiện từ rất sớm, phát triển và lưu truyền qua rất
nhiều thời đại, trong đó có nghề in khắc mộc bản. Theo thời gian, kỹ thuật in khắc
mộc bản đã phổ biến khắp cả nước, hình thành nên những khu vực, làng nghề in
khắc mộc bản chuyên nghiệp.
1. Lịch sử hình thành nghề in khắc mộc bản tại Việt Nam
Nhiều vấn đề lịch sử dần dần được nghiên cứu và phát hiện tất cả nhờ vào
những tài liệu cổ xưa tồn tại đến hôm nay. Những tài liệu này tồn tại dưới nhiều
dạng thức khác nhau: có thể dưới dạng thức một số loại sách ghi lại rất rõ ràng
nhiều sự kiện đã từng xảy ra trong quá khứ, cũng có thể là những văn tự, hình ảnh
được khắc in trong đình chùa, hoặc cũng có thể từ những mộc bản được khắc trong
các triều đại phong kiến trước đó…. Thời kỳ phong kiến Việt Nam, tuy công
nghiệp chưa phát triển, song nhiều ngành thủ công nghiệp đã xuất hiện từ rất sớm,
phát triển và lưu truyền qua rất nhiều thời đại, trong đó có nghề in khắc mộc bản.
Theo thời gian, kỹ thuật in khắc mộc bản đã phổ biến khắp cả nước, hình thành
nên những khu vực, làng nghề in khắc mộc bản chuyên nghiệp.
Nghề in khắc mộc bản Việt Nam phát triển và phân hóa thành nhiều ngành
khác nhau như in sách, in dấu, in tranh... nhưng hai ngành chính sử dụng kỹ thuật
in khắc mộc bản lúc bấy giờ là nghề in khắc tranh dân gian và nghề in sách, in văn
bản. Trên cơ sở vận dụng kỹ thuật in khắc mộc bản, người dân Việt Nam hình
thành nghề in khắc tranh, phát triển thêm một loại hình mỹ thuật dân gian độc đáo
thuần Việt. Đây là một bước tiến triển đáng kể trong nghề in khắc mộc bản Việt
Nam. Bước tiến triển này mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, văn hóa, phù hợp với
nhu cầu xã hội trong thời đại công nghiệp máy móc chưa phát triển nên đã đứng
vững và thịnh vượng nhanh chóng. Đến thế kỷ XIX-XX, kỹ thuật này càng lan
rộng, phổ biến; nhiều cơ sở, phường, làng in khắc ra đời; nhiều loại tranh, sách
cũng vì thế liên tục xuất hiện, nối tiếp thời kỳ phát triển trước đó.
Cũng nhờ vào kỹ thuật này hiện nay ở Việt Nam còn tồn tại những loại tài
liệu dưới nhiều hình thức khác nhau: có thể ở dạng thức một số loại sách ghi lại rất
rõ ràng nhiều sự kiện đã từng xảy ra trong quá khứ, cũng có thể là những văn tự,
hình ảnh được khắc in trong đình chùa, hoặc cũng có thể từ những mộc bản được
khắc trong các triều đại phong kiến trước đó…. và tồn tại đến ngày nay một loại
3
hình mỹ thuật dân gian độc đáo nhờ kỹ thuật in khắc mộc bản vì vậy kỹ thuật in
khắc mộc bản đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tuyên truyền, phổ biến
và lưu giữ văn hóa của người Việt Nam vì vậy việc nghiên cứu sự hình thành của
kỹ thuật in khắc mộc bản tại Việt Nam trở thành quan trọng. Tuy nhiên “Trải qua
bao cuộc bể dâu, nhiều phen binh lửa, như cuối đời Trần bị nạn giặc Minh, sách vở
đã bị mất một lần (tướng Minh Là Trương Phụ tịch thu sách vở đưa về Kim Lăng);
đầu đời Lê gặp loạn Trần Cảo, sách vở lại tiêu tán một lần (Trần Cảo làm loạn,
kinh thành thất thủ, sĩ dân tranh nhau vào các nơi cung cấm, lấy tiền của, đem văn
thư, sách vở ném đầy ra đường)”1. Thêm nữa đất nước liên tục chiến tranh, loạn
lạc, lại thêm yếu tố thời gian sách, kinh, ván in bị hư hỏng, hoặc bị phá hủy, thất
lạc. Có thể vì vậy tư liệu sách vở được biên soạn, in ấn trước thế kỷ XV hiện nay
không còn nhiều nên việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển nghề in khắc
mộc bản ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Song trong quá trình nghiên cứu, một số
học giả đã đưa ra những giả thuyết và kết luận về thời điểm hình thành nghề in
khắc mộc bản Việt Nam trên cơ sở những sự kiện sau:
Sự kiện năm 937 Đinh Liễn, con vua Đinh Tiên Hoàng đã cho dựng tại Hoa
Lư 100 cột đá khắc kinh Phật, còn gọi là Tràng Kinh.
Sự kiện “Thiền sư Tín Học họ Tô, người làng Chu Minh phủ Thiên Đức
vốn làm nghề khắc bản in kinh. Ông mất vào ngày 12 tháng 5 năm 1190 vào đời
Lý Cao Tông”2 chép trong Thiền uyển tập anh. Thiền uyển tập anh là tập sách
chép về các vị thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỷ VI đến thế kỷ XIII, được Phan
Huy Chú (trong Lịch triều hiến chương loại chí), Lê Quý Đôn (trong Đại Việt
thông sử) cho rằng do một tác giả sống vào đời nhà Trần biên soạn.
Sự kiện Lương Nhữ Hộc (1424-1501), làm quan nhà hậu Lê, hai lần đi sứ ở
Trung Quốc đã học được nghề in khắc gỗ về truyền lại nghề này cho hai Làng
Hồng Lục và Liễu Tràng3 ở Hải Dương (Hồng Lục là quê hương của Lương Nhữ
Hộc), sau đó lan truyền sang các làng khác như Liễu Khuê (Hải Dương). Hiện ở
Hồng Liễu có đền thờ ông như là ông tổ của nghề khắc ván in gỗ. Sự kiện này
được chép trong Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám
1
Phan Huy Chú, 1972, Lịch triều hiến chương loại chí, phần Văn tịch chí, trang 8
Lê Mạnh Thát dịch, 1999, Thiền uyển tập anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 64
3
Phan Huy Chú, 1972, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Phủ quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa,
quyển thủ Dư địa chí, trang 277
2
4
cương mục, Đại Việt sử ký toàn thư.... Nhiều nhà nghiên cứu trong những công
trình của mình trên cơ sở ba sự kiện trên để suy luận và đưa ra những kết luận về
lịch sử hình thành kỹ thuật in khắc mộc bản tại Việt Nam.
Tác phẩm Phật giáo Việt Nam sử luận căn cứ vào việc năm 937 Đinh Liễn,
con vua Đinh Tiên Hoàng đã cho dựng tại Hoa Lư 100 cột đá khắc kinh Phật nên
cho rằng: thế kỷ X người Việt đã biết kỹ thuật khắc vào đá, có thể cũng đã biết kỹ
thuật khắc vào ván gỗ để in ấn.
Tác phẩm Đồ họa cổ Việt Nam (Phan Cẩm Thượng, Cung Khắc Lược, Lê
Quốc Việt) cho rằng kỹ thuật in khắc mộc bản đã phục vụ rất hữu ích trong quá
trình truyền bá Phật giáo. Một số lượng lớn kinh phật ra đời nhanh chóng nhờ vào
kỹ thuật in khắc mộc bản. Tác giả đã đưa ra một số dẫn chứng bằng việc in kinh
sách bằng kỹ thuật in khắc mộc bản của các triều đại phong kiến, trong đó có đề
cập đến sự kiện thiền sư Tín Học họ Tô làm nghề in kinh Phật trong Thiền uyển
tập anh. Chứng tỏ tác giả của công trình này đã đồng thuận với việc kỹ thuật in
khắc mộc bản ở Việt Nam ra đời vào thời nhà Lý. Cũng căn cứ vào sách Thiền
uyển tập anh, tác giả Nguyễn Ngọc Nhuận với bài viết “Lương Nhữ Hộc một tác
gia trong Toàn Việt thi lục”4 cho rằng kỹ thuật in khắc mộc bản Việt Nam ra đời
trong thời nhà Lý nhưng có đưa ra niên đại cụ thể đó là thế kỷ XII.
Bên cạnh đó, một số tác phẩm của các tác giả như Trịnh Quang Vũ trong
công trình Lược sử Mỹ Thuật Việt Nam, Chu Quang Trứ trong Văn hóa Việt Nam
nhìn từ mỹ thuật (tập II), Vũ Ngọc Khánh trong Lược sử thần tổ các ngành nghề,
Bùi Văn Vượng trong Nghề giấy dó, Tranh dân gian Việt Nam… dựa vào sự kiện
Lương Nhữ Hộc đi sứ Trung Quốc đã học được kỹ thuật in khắc mộc bản về
truyền lại cho dân hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng cho rằng Việt Nam biết đến
kỹ thuật in khắc gỗ từ thế kỷ XV.
Các tác giả đã dựa vào những sự kiện lịch sử để phân tích và kết luận
những niên đại hình thành kỹ thuật in khắc mộc bản tại Việt Nam. Tuy nhiên trong
ba kết luận trên có thể nhìn nhận kết luận: kỹ thuật in khắc mộc bản ra đời vào thời
nhà Lý, khoảng thế kỷ XI - XII vì những lý do sau: Thứ nhất nếu dựa vào những
tràng kinh đã được Đinh Liễn cho khắc trên cột đá để chứng minh rằng kỹ thuật in
khắc mộc bản ra đời vào thế kỷ X thì cũng chỉ là suy luận. Thực chất kỹ thuật khắc
chữ vào cột đá và khắc vào gỗ để làm bản in là hai kỹ thuật khác nhau vì khắc để
4
Tạp chí Hán Nôm, năm 2004, trang 369-373
5
làm bản in gỗ người thợ cần phải để khi khắc ngược để khi in trên giấy không
giống như khắc vào cột đá người trực diện có thể đọc trực tiếp. Vả lại, kỹ thuật
khắc chữ trên đá để ghi dấu sự kiện, ghi công… đã được người Việt biết từ rất lâu
trước đó nên giả thuyết trên không có cơ sở để khẳng định rằng người Việt biết
khắc trên đá là có thể biết khắc các bản in gỗ. Vì vậy giả thuyết nghề in khắc mộc
bản có từ thế kỷ X vẫn chưa phải là kết luận chính xác.
Thứ hai hiện nay không có sách vở, tài liệu nào ngoài Thiền uyển tập anh
đề cập đến kỹ thuật in khắc mộc bản ra đời trước thời nhà nhà Lý. Thêm vào đó,
thời nhà Trần có khắc in hơn 5000 quyển kinh phật5; Hồ Quý Ly năm 1396, “mùa
hạ, tháng Tư cho phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao. In xong ra lệnh cho người
dân đến đổi…., tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền
vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị
tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu”6. Nghề in khắc mộc bản chắc hẳn đã ra đời
trước đó và đã đã được biết đến, phổ biến trong dân gian nên nhà nước mới lo sợ
và ngăn ngừa việc in tiền giả.
Thứ ba: Kỹ thuật in khắc mộc bản được truyền vào Việt Nam đầu tiên phục
vụ nhu cầu in ấn kinh Phật. Triều Lý, Trần là những triều đại coi trọng Phật giáo,
việc truyền bá Phật giáo trong nước được chú tâm vì vậy nhu cầu kinh sách ngày
càng cao, việc in ấn kinh Phật trở thành nhu cầu thiết yếu của triều đình và cộng
đồng Phật giáo trong cả nước. Từ khi Phật giáo truyền vào nước ta khoảng thế kỷ I
công nguyên, sách kinh lưu hành chủ yếu là phải chép tay lại từ sách của Trung
Quốc; trong khi đó ở Trung Quốc từ thế kỷ VIII đã biết đến kỹ thuật khắc in mộc
bản, các loại sách kinh phần lớn ra đời chủ yếu bằng phương pháp này.
Như vậy có thể nói rằng kỹ thuật in khắc mộc bản ở Việt Nam có từ thời
nhà Lý và đã được nhà nước phong kiến, các cơ sở thờ tự Phật sử dụng để in kinh
Phật nhưng phải đến thế kỷ XV khi Lương Nhữ Hộc chính thức truyền bá thì nghề
in khắc mộc bản ở Việt Nam mới trở nên phổ biến nên ngoài việc in kinh Phật rất
nhiều loại sách trên nhiều lĩnh vực cũng được khắc in; như Vũ Ngọc Khánh đã
5
6
Nguyễn Lang, 1994, Phật giáo Việt Nam sử luận, Nxb Văn học Hà Nội, tập 1, trang 401
Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện sử học dịch), 1998, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Nxb Giáo dục Hà Nội, trang 318
6
nhận định “nghề khắc ván in ở nước ta đã có từ lâu. Nhưng công lao cải tiến và
phát triển có chất lượng cao thuộc về Lương Nhữ Hộc”7.
2. Nghề in khắc mộc bản triều Nguyễn
Như những triều đại phong kiến trước, các nghề thủ công nghiệp ở triều
Nguyễn chiếm một vị trí quan trọng, nếu như các ngành nghề thủ công như làm
gốm, đúc đồng… sản phẩm của chúng để phục vụ nhu cầu vật chất của triều đình
và đông đảo dân chúng thì nghề in khắc mộc bản sản phẩm của nó phần lớn để
phục vụ nhu cầu tinh thần. Qua thời gian tích lũy được nhiều kinh nghiệm, cải tiến
hoàn thiện kỹ thuật, nghề in khắc mộc bản không chỉ bó hẹp ở việc in sách, in
kinh... mà còn phát triển thêm nghề in tranh. Tranh khắc gỗ thời kỳ này chủ yếu
phục vụ tầng lớp nhân dân trong xã hội; nguyên vật liệu để làm tranh cũng hết sức
đơn giản: từ nguyên liệu làm màu, gỗ khắc ván in, loại giấy để in tranh đến giá cả
của thành phẩm cũng rất rẻ, đề tài - nội dung gắn liền với những sinh hoạt đời
thường… vì vậy người ta gọi dòng tranh khắc gỗ này là tranh khắc gỗ dân gian.
In tranh và in sách tuy là hai loại hình khác nhau nhưng có nguồn gốc
chung từ kỹ thuật in khắc mộc bản. Sự phát triển của cả nghề in sách và in tranh
Việt Nam chính là sự phát triển của nghề in khắc mộc bản Việt Nam.
2.1.
Nghề in văn bản
Những ấn bản và ván khắc hiện nay đang được bảo quản tại các trung tâm
lưu trữ, Bảo tàng, cơ sở tư nhân có niên đại từ thời Lê Trung Hưng trở về sau,
nhưng phần lớn có niên đại từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX thuộc về thời triều
Nguyễn. Ván khắc của triều Nguyễn còn lại khá nhiều vì đây là triều đại phong
kiến gần với thời hiện đại nhất, hơn nữa nhà nước cũng đã ứng dụng “tích cực”
nghề in khắc mộc bản để in ấn để lưu giữ, phổ biến, tuyên truyền văn hóa, chính
trị…; nhân dân thì ứng dụng vào mục đích kinh doanh. Theo thống kê của Hồng
Mai và Nguyễn Hữu Mùi8 thời nhà Nguyễn có 318 cơ sở in khắc mộc bản, nhiều
ấn phẩm thời kỳ này gắn với tên tuổi của những cơ sở in ấn trên khắp đất nước.
Trong số những cơ sở, phường in đã có những cơ sở, phường in ra đời sớm như
Hồng Lục- Liễu Tràng 211 tuổi (1683-1904), Đa Bảo tự 216 tuổi (1665-1881),
7
8
Vũ Ngọc Khánh, 2007, Lược truyện thần tổ các ngành nghề, trang 110
một số phương thức thư tịch cổ Việt Nam truyền vào
Trung Quốc-Vũ Thị Thanh Tâm
7
Vĩnh Khánh tự 157 tuổi (1750-1907), Đoan Nghiêm tự 140 tuổi (1763-1903),
Quốc Tử Giám 89 tuổi (1820-1909), Liễu Văn đường 91 tuổi (1834-1925),… Gắn
với một số nhân vật khởi xướng phục hưng công nghệ in khắc trong giai đoạn này
như hòa thượng Phúc Đường (chùa Liên Phái), Trần Công Hiến (Hải Học đường),
Kiều Oanh (Ánh Hiên hiệu), tổng tài Trương Đăng Quế, Cao Xuân Dục,… 9.
Những nhà in trên vừa làm công việc in cho triều đình (khi triều đình có lệnh) vừa
làm công việc kinh doanh, in ấn cho mọi người khi có nhu cầu. Với số lượng
phường in, cơ sở in như vậy có thể khẳng định nghề in khắc mộc bản triều Nguyễn
rất phát triển và phổ biến; đã trở thành một nghề thủ công mà bộ phận dân chúng
dựa vào đó làm kế sinh nhai, đảm bảo đời sống vật chất cho bản thân và cho gia
đình, góp phần vào sự phát triển kinh tế Việt Nam thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Nghề in khắc mộc bản Việt Nam, đặc biệt là in kinh sách giai đoạn thế kỷ
XIX – XX, phát triển một phần nhờ vào nhu cầu và chính sách của nhà nước.
Triều đình vì muốn lưu lại những bộ sử trước kia đã soạn, muốn giữ lại tinh hoa
văn hóa của các triều đại trước cũng như đương thời nên đã cho in khắc rất nhiều
loại sách khác nhau. Vấn đề lưu giữ các giá trị văn hóa của dân tộc, không đợi đến
nhà Nguyễn mà từ thời Lê công việc san định, in khắc sách sử và nhiều loại sách
về tôn giáo, văn hóa đã được nhà nước quan tâm. Đầu niên hiệu Cảnh Trị (Lê
Chiêu Tông 1662-1672) nhận thấy các bản sử trước chỉ chép tay, chưa được khắc
in ban bố đến nỗi truyền tục sai lẫn nên đã cho san định, soạn lại quốc sử, sai thợ
khắc và in thành sách để ban hành. Ngoài các loại kinh kệ, các loại sách sử, nhà
nước còn khắc in các loại sách Nho học. Khoảng vào năm 1734, chúa Trịnh Tạc
đã cho khắc in các loại sách như Tứ thư, Ngũ Kinh ban hành khắp cả nước và cấm
không cho dùng sách của Tàu nữa10. Thời nhà Nguyễn, nhà nước càng quan tâm
hơn đến việc bảo tồn và truyền bá văn hóa đất nước, lưu giữ sử sách nước nhà.
Các vua đã cho sưu tầm, nhiều loại sách xưa của các triều đại trước, để biên soạn
và in ấn lưu giữ. Vua Minh Mệnh (1820-1840) từ những năm đầu lên ngôi đã ban
hành chiếu chỉ cho “Thần dân, lê thứ phàm nhà nào có biên tập ghi chép được
những cổ điển của tiên triều, không kể tường hay lược, đều đem nguyên bản tiến
9
my thuat số 17-18/ Nghề in và đồ họa sách thời
Nguyễn
10
Trần Trọng Kim, 1999, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa-Thông tin, trang 338
8
nạp hoặc đưa cho các quan sao lục được tưởng thưởng..”11; một năm sau, 1821 lập
Quốc Sử quán để biên soạn và in khắc thành sách những bộ sử đồ sộ từ trước thời
Minh Mệnh.... Ngoài ra triều đình còn xây dựng nhiều cơ sở để làm nơi lưu trữ
sách: Ngoài Quốc sử quán còn có Tàng thư lâu (xây dựng năm 1825), Đông các
(xây dựng năm 1826), Tụ Khuê thư viện (xây dựng năm 1852), Tân thư viện (xây
dựng năm 1909)… chứng tỏ triều đình rất quan tâm đến việc bảo quản văn hóa
dân tộc để truyền lại đời sau. Từ vua Minh Mệnh trở về sau các vua nhà Nguyễn
đều theo nếp cũ, một mặt bảo lưu các giá trị văn hóa quá khứ, một mặt phổ biến,
tuyên truyền, lưu giữ những giá trị văn hóa đương đại. Chính vì vậy các cơ sở in
khắc của nhà nước và một số cơ sở tư nhân hoạt động không ngừng nghỉ, qua đó
thúc đẩy sự phát triển của nghề in khắc mộc bản cả nước. Một số ẩn phẩm đã được
in trong thời nhà Nguyễn:
Vua Gia Long từ khi lên ngôi đã ra lệnh cho văn thần Lê Quang Định soạn
bộ Hoàng Việt nhất thống dư địa chí để kiểm soát và khẳng định lãnh thổ quốc
gia, sách này cũng được khắc bản gỗ và in thành sách để ban hành.
Năm 1812, vua Gia Long đã phê duyệt bản Hoàng triều luật lệ, đến năm
1813 công việc khắc bản in được thực hiện, hoàn thành và ban bố khắp cả nước
cũng vào năm này.
Bên cạnh đó Quốc sử quán còn đảm nhận việc biên soạn và khắc in những
sách như: Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam
liệt truyện, Đăng khoa lục, Việt sử cương mục… và rất nhiều loại sách khác.
Thời nhà Nguyễn nhà nước, không độc quyền kỹ thuật in khắc mộc bản mà
phổ biến ở khắp dân gian do đó bộ phận thứ hai góp phần thúc đẩy nghề in khắc
phát triển là dân chúng. Chính nhu cầu của dân chúng là động lực cho nhiều cơ sở,
phường in ấn tư nhân ra đời phục vụ nhiều thành phần nhân dân trong cả nước.
Với số lượng cơ sở, phường in (như Hồng Mai và Nguyễn Hữu Mùi thống kê) thì
việc khắc in trong dân gian cũng nhộn nhịp không kém, tiêu biểu là hai phường in
Hồng Lục và Liễu Tràng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Chính Hòa thứ
18 (1697) đã được khắc in ở đây, bộ sách mà đến hôm nay vẫn còn là tài liệu quý
giá của những người nghiên cứu sử học.
11
Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch của Hoàng Du Đồng và Hà Ngọc Xuyền), 1972, Minh Mệnh
chính yếu, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, trang 62
9
Trấn thủ Hải Dương Trần Công Hiến năm 1814, đã cho in ấn các loại sách
như: Hải Dương phong vật chí, Hải học danh thi tuyển, Danh văn tinh tuyển…
Sau đó Trần Công Hiến mất, bạn của ông là Đốc học Nguyễn Thế Trung và học
trò đã tổng hợp, thâu góp những sách sử, thi văn khắc và in thành tập Hải học
đàng12.
Lịch đại sách lược: sách tổng hợp những bài văn hay của các kỳ thi từ triều
Lê Hồng Đức đến vua Gia Long được khắc và in vào năm 1814.
Năm 1879, vua Tự Đức đã phê duyệt và cho khắc in các loại sách của Phạm
Phú Thứ soạn, dịch, những sách khoa học thực nghiệm được Phạm Phú Thứ ghi
lại trong quá trình quan sát thành tựu khoa học kỹ thuật phương Tây từ chuyến đi
công cán ở châu Âu năm 1863. Điều đặc biệt hơn ở đây là những sách được in ra
đó không chỉ phố biến cho vua, quan mà triều đình còn khuyến khích việc kinh
doanh. “Sách Bác vật tân biên nói thiên văn địa khí có quan hệ với phép làm lịch;
cùng các sách Vạn quốc công pháp, Hàng hải kim châm, Khai môi yếu pháp đều là
học thiết thời vụ, khiến quan tỉnh Hải Dương in cho nhiều mà bán để quan lại, học
trò học tập cho biết mà dùng”13… Vậy mới nói rằng: nghề in khắc mộc bản triều
Nguyễn đã góp phần vào quá trình lưu giữ, tuyên truyền, phổ biến tri thức, văn
hóa của dân tộc; góp phần làm phong phú ngành nghề thủ công truyền thống Việt
Nam và đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Khác với những loại sách mà triều đình và cơ sở tư nhân in ấn, các chùa
cũng tồn tại một hoặc nhiều cơ sở in khắc mộc bản riêng. Cuối thời Lê, sắc lệnh
cấm dân chúng, nhà chùa tự do in ấn kinh Phật, Lão hoặc các loại văn chương trái
với quan điểm chính thống của triều đình do đó việc in ấn kinh Phật, Lão ở các cơ
sở tư nhân và chùa rất hạn chế. Nhưng từ năm 1820, lệnh này không còn mấy giá
trị, tại kinh đô Huế có rất nhiều cơ sở khắc in ra đời tại các chùa: Từ Đàm, Bảo
Quốc và Viên Thông… hoạt động in ấn trở nên sôi nổi. Cơ sở in khắc mộc bản
phần lớn in ấn những loại kinh sách liên quan đến tôn giáo, một số mộc bản hiện
nay đang còn lưu giữ tại các chùa: Bổ Đà (Bắc Giang) hơn 2000 tấm, chùa Vĩnh
Nghiêm (Bắc Giang) hơn 3000 tấm được khắc từ thời vua Tự Đức đến thời vua
12
13
Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục chủ biên), 2004, Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb
Văn học, trang 54
Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục chủ biên), 2004, Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb
Văn học, trang 204
10
Bảo Đại, một số chùa tại Huế. Kho mộc bản tôn giáo cũng minh chứng khối lượng
sách kinh rất lớn được in ra trong thời kỳ này.
Cơ sở in khắc ở chùa ngoài việc in ấn những loại sách tôn giáo còn in ấn
cho những cá nhân, tập thể có nhu cầu như bộ Hải thượng Y tông tâm lĩnh của Lê
Hữu Trác được khắc in ngay tại chùa Đồng Nhân (Bắc Ninh). Theo Henry Oger
trên cơ sở khảo sát thực tế tình hình nghề in ấn từ năm 1908 đến năm 1909 đã
miêu tả trong tác phẩm Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của người An
Nam): “phần lớn cơ sở in ấn đều đặt tại chùa, lợi thế lớn nhất của nhà in không
phải trả tiền thuê chỗ và có thể tập hợp các thiết bị cồng kềnh mà không phải lo
lắng cho ngày mai”14. Trong thời phong kiến, đặc biệt là nhà Nguyễn, khi một
chùa ra đời triều đình đều ban đất, bên cạnh đó còn có ruộng đất hiến tặng của
quan lại, địa chủ … vì vậy chùa sở hữu một diện tích ruộng đất khá lớn. Ruộng đất
của chùa cũng có thể coi như ruộng đất tư được người dân tôn trọng và giữ gìn, thế
nên có thể những cơ sở tư nhân đã mượn đất của chùa để xây dựng xưởng in khắc.
Nhìn chung, thời nhà Nguyễn các cơ sở, phường khắc ván gỗ in sách, in
kinh kệ, văn bản tồn tại ba hình thức sở hữu: hình thức sở hữu thứ nhất là nhà
nước; hình thức sở hữu thứ hai là các cơ sở tư nhân và hình thức thứ ba là nhà
chùa. Những cơ sở in ấn thuộc ba khu vực trên trong thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
để lại một khối lượng mộc bản đáng kể, và hiển nhiên cũng đã có một khối lượng
sách như vậy hoặc nhiều hơn (vì một mộc bản có thể in nhiều lần) được in ra, nghề
in khắc mộc bản cũng vì vậy mà thịnh vượng hẳn lên.
2.2. Nghề in tranh
Hiện nay chưa thấy tư liệu lịch sử nào đề cập đến niên đại ra đời của nghề
tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam một cách trực tiếp, rõ ràng. Nhiều nhà nghiên
cứu căn cứ vào những sự kiện được ghi chép trong cổ sử, suy đoán và đưa ra nhiều
niên đại khác nhau; phần lớn các nhà nghiên cứu dựa vào niên đại ra đời của nghề
in khắc mộc bản ở Việt Nam mà bàn về sự ra đời của nghề in khắc tranh dân gian.
Tuy nhiên niên đại ra đời của nghề khắc ván in tranh chưa được xác định một cách
chính xác. Trong lúc chưa có một cơ sở chắc chắn về niên đại hình thành nghề
tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam nhưng căn cứ vào một số ván in tranh niên đại từ
14
Henri Oger, 2009, Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của người An Nam), Nxb Thế Giới,
trang 232
11
thế kỷ XVIII trở về sau đang được bảo quản tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam,
Bảo tàng Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh và một số cơ sở tư nhân làm nghề
này lâu đời thì thế kỷ XVIII có thể tạm thời được coi là niên đại hình thành nghề
này. Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, nghề khắc ván in tranh dân gian trở nên phổ
biến, hình thành những làng nghề, tập trung đông đảo nghệ nhân: như làng tranh
Đông Hồ (Bắc Ninh), làng tranh Hàng Trống (Hà Nội), làng tranh Kim Hoàng (Hà
Tây), làng tranh Sình (Huế)... Đó là những làng làm nghề in khắc ván tranh dân
gian rất phát triển và tiêu biểu ở Việt Nam, trong đó có một số làng tranh tồn tại
đến ngày nay như Đông Hồ, Hàng Trống…
Tranh dân gian có thể đã xuất hiện và phát triển trước đó nhưng
sang thế kỷ XVIII – XIX, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định
và phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu như cả
nước và phân hóa thành những làng sản xuất tranh chuyên nghiệp. Cũng
có làng nghề trước đây không phải làm nghề in khắc tranh mà chuyên làm một loại
sản phẩm khác như làng Sình ở Huế. Làng Sình ban đầu là một làng chuyên làm
hàng mã sử dụng vào việc thờ cúng; nghề làm hàng mã dần chuyển hóa thành
nghề in tranh để phục vụ nhu cầu mới của đông đảo nhân dân tại làng trong quá
trình sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Một số làng tranh như Đông Hồ, Hàng
Trống…. bên canh in ấn các loại tranh để thờ cúng, còn có nhiều loại tranh khác
sử dụng trong các dịp lễ, Tết, trang trí nhà cửa, chúc tụng. Các làng tranh này
không chỉ phát triển về kỹ thuật, số lượng tranh mà phát triển về cả mặt đề tài. Khi
một mộc bản hoàn thành có thể in được nhiều tấm tranh giống nhau, bên cạnh đó
từ màu sắc đến các loại giấy đều sử dụng các nguyên vật liệu rất đơn giản, nguyên
liệu hầu như có thể tìm kiếm được ở các khu vực trong nước, thậm chí có thể gần
các làng tranh nên giá thành từng tấm tranh tương đối rẻ, phù hợp với điều kiện
kinh tế của người dân. Đầu thời Nguyễn, từ vua Gia Long chính sách chấn hưng
kinh tế đất nước được thực thi, cuộc sống nhân dân ngày càng ổn định, nhu cầu
tinh thần ngày càng cao, tranh dân gian đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo, văn hóa mà giá thành lại rẻ nên được nhân dân ưa chuộng, số lượng tranh in
ra ngày càng nhiều, nghề in khắc tranh dân gian chính vì thế thịnh vượng hơn ở
thế kỷ XIX - XX.
Cùng với sự phát triển và phổ biến rộng rãi, nhiều làng tranh xuất
hiện, mỗi làng mang phong cách riêng. Trong từng khâu kỹ thuật, khắc
12
ván, in tranh, tô màu đều có những nét khác biệt. Tranh Đông Hồ thường in
trên giấy điệp, ván in tranh không chỉ in lấy nét mà còn in lấy màu, bức tranh có
bao nhiêu màu thì có bao nhiêu ván khắc. Tranh Hàng Trống: tranh được in trên
nền giấy dó trắng, ván in chỉ in lấy nét và dùng tay tô màu; tranh làng Kim Hoàng:
làng chỉ làm nghề này trong mỗi dịp gần tết, tranh được in trên nền giấy màu đỏ;
tranh làng Sình chỉ phục vụ nhu cầu thờ cúng, trước đây khi đã thờ cúng xong, tờ
tranh được mang đốt đi… Người thợ khắc ván in tranh chưa bao giờ là một nghệ sĩ
thực thụ, được đào tạo qua các trường lớp về mỹ thuật; người khắc ván đơn thuần
là những người đã được học kỹ thuật khắc ván gỗ ở chỗ một người thợ lành nghề,
dày dạn kinh nghiệm nào đó trong làng hoặc một làng nghề làm tranh nổi tiếng
trong nước. Họ thực hiện các bước khắc ván gỗ trên tấm gỗ thị (hoặc gỗ thừng
mực) như một công việc quen thuộc, thuần thục và kết quả hết sức mỹ mãn, giống
như Henri Oger đã miêu tả việc khắc gỗ của người thợ ở các làng tranh: “Người
bản xứ chỉ là người “thực hành”. Anh ta hoàn toàn không có hiểu biết về hội họa.
Mỗi chủ xưởng sở hữu một sưu tập các mẫu chủ đề trên các tấm gỗ phẳng. Người
ta dùng bút để tái tạo lại nó trên tấm gỗ khắc và người thợ khắc vào việc mà không
bao giờ rời khỏi các mẫu lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong vai trò
người thực hành, người thợ khắc An Nam thể hiện các phẩm chất mạnh mẽ đáng
ngạc nhiên. Các chỗ lõm, chỗ phẳng được nhấn với sự mạnh mẽ thú vị, mặc dù kĩ
thuật và công cụ rất sơ đẳng”15. Và chính ông đã nhờ những nghệ nhân tại các làng
tranh dân gian khắc ván và in hơn 4000 tấm tranh để minh họa khi khảo cứu các
ngành nghề thủ công Việt Nam đầu thế kỷ XX, sau đó in thành cuốn sách “La
technique du peuple Annamite” (Kỹ thuật của người An Nam). Chứng tỏ nghề in
sách, in tranh là những nghề thủ công phát triển, được xã hội chú ý. Nghề này
không chỉ là nghề giải quyết lao động, đảm bảo kinh tế cho một số nông dân lúc
nông nhàn mà sản phẩm của nó còn là biểu hiện của văn hóa, mỹ thuật dân gian
Việt Nam.
Nghề in khắc mộc bản gồm in văn bản và in tranh, tuy xuất hiện từ nhiều
thế kỷ trước, nhưng đặc biệt từ khoảng giữa thế kỷ XIX, khi nền kinh tế hàng hóa
nở rộ, điều kiện giao thông trở nên thuận lợi, các đô thị lớn và nhỏ manh nha hình
thành, xã hội Việt Nam có sự chuyến biến nhanh chóng cùng với nhu cầu tinh thần
15
Henri Oger, 2009, Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của người An Nam), Nxb Thế Giới,
trang 228
13
của con người ngày một tăng đã làm cho nghề in khắc mộc bản phát triển. Các cơ
sở in ấn tư nhân thi nhau mọc lên, phong phú các loại ấn phẩm ra đời chính vì vậy
thư tịch, tranh, ván khắc xuất hiện từ thế kỷ XIX trở về sau còn lại khá nhiều.
Nghề thủ công này và những sản phẩm của nó gắn liền với văn hóa truyền thống
của dân tộc vì vậy chúng càng trở nên quý giá trong giai đoạn mà văn hóa phương
Tây ngày càng lan rộng ở Việt Nam vào thế kỷ XX.
Nhìn chung vì chính sách của triều đình, vì nhu cầu của xã hội Việt Nam
giai đoạn thế kỷ XIX – XX nên nghề thủ công in khắc mộc bản khá phát triển. Về
chính sách, các vua nhà Nguyễn rất có ý thức trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
đất nước, đặc biệt là vua Minh Mệnh. Vua đã có chủ trương trong việc sưu tầm,
bảo lưu sách vở đã được biên soạn trước đó, thu thập và san định lại để lưu giữ.
Chính sách đó của nhà nước đã làm động lực cho việc phát triển các nghề in khắc
mộc bản trong dân gian. Nhu cầu của triều đình cao, nhu cầu của dân chúng tăng
đã thúc đẩy các phường, cơ sở in ấn ra đời để đáp ứng đủ nhu cầu trong xã hội lúc
bấy giờ.
Nghề in khắc mộc bản ra đời một phần xuất phát từ nhu cầu in kinh Phật
của triều đình và cộng đồng Phật giáo. Theo thời gian, nhu cầu này tuy có biến
động tùy theo mỗi triều đại nhưng chưa bao giờ việc in kinh kệ được coi nhẹ trong
các chùa. Đến thời nhà Nguyễn, nhà nước tuy chọn Nho giáo làm hệ tư tưởng
chính thống để trị quốc nhưng vẫn có sự quan tâm đúng mực đến Phật giáo, chính
vì vậy công việc in ấn kinh sách của chùa thậm chí không bị gián đoạn mà còn rất
phát triển. Bằng chứng là một số chùa trong cả nước (như đã kể trên) còn lưu giữ
rất nhiều mộc bản được khắc từ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Cũng một phần
vì nhu cầu trong sinh hoạt tín ngưỡng mà nghề in khắc tranh dân gian đã ra đời.
Dòng tranh dân gian Việt Nam bên cạnh các đề tài mô tả đời sống sinh hoạt dân
gian, chúc tụng, lịch sử.... còn có nhiều tranh khắc in đề tài Phật giáo, tín ngưỡng
dân gian.
3. Kết luận
Trong thời đại các phương tiện máy móc trong sản xuất chưa phát triển, các
ngành nghề thủ công vẫn là các ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Vào đầu thế kỷ XIX, máy in kim là loại máy móc chưa được biết đến ở Việt
14
Nam16 nên kỹ thuật in khắc mộc bản vẫn là sự lựa chọn duy nhất của nhiều giai
tầng xã hội có nhu cầu in ấn. Từ thế kỷ XIX, sau một cuộc nội chiến tàn phá kinh
tế, cơ sở vật chất của đất nước, từ vua Gia Long đã có nhiều chính sách khôi phục
kinh tế và cơ sở vật chất khắp cả nước, nhu cầu mua bán trao đổi ngày càng cao,
kỹ thuật in khắc mộc bản có nhiều ưu điểm, đáp ứng được nhu cầu văn hóa, tôn
giáo, thẩm mỹ và cả kinh tế của đông đảo nhân dân nên đã tạo điều kiện cho nghề
in khắc mộc bản phát triển. Khi sử dụng kỹ thuật in khắc mộc bản có thể cùng một
lúc in rất nhiều bản giống nhau, bên cạnh đó lại còn bảo quản được ván khắc, khi
có nhu cầu còn có thể in ấn lại mà nội dung vẫn không thay đổi, giá thành lại rẻ.
Bản thân nghề thủ công nghiệp in khắc mộc bản có thể đảm bảo được đời sống
kinh tế cho người dân làm nghề này mà sản phẩm của chúng còn được sử dụng
vào việc tuyên truyền, giáo dục. Thời vua Tự Đức những sách của Phạm Phú Thứ
dịch từ tiếng nước ngoài đã được triều đình phê chuẩn cho ban hành rộng rãi đến
các trường học, để học trò biết mà học hỏi17.
Nếu như nghề in khắc mộc bản ở Trung Quốc rất thịnh hành từ thời Tống –
Minh thì ở Việt Nam nghề in khắc mộc bản lại rất phổ biến và phát triển ở triều
đại phong kiến cuối cùng này. Chính nghề in khắc mộc bản rất phát triển thời nhà
Nguyễn nên đã để lại ngày nay rất nhiều ấn phẩm của nhiều lĩnh vực: từ tôn giáo,
chính trị đến văn hóa xã hội ra đời và rất nhiều mộc bản có nội dung khác nhau.
Ngoài các loại sách, tranh, vẫn còn 34.618 tấm mộc bản được lưu giữ tại Trung
tâm lưu trữ quốc gia 4 (năm 1960 đã thống kê còn hơn 50.000 tấm mộc bản); một
số lượng lớn mộc bản đang còn lưu giữ ở các chùa như Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang),
Bổ Đà (Bắc Giang), và một số chùa ở Huế… nhiều ván khắc tranh hiện đang được
bảo quản tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí
Minh và gia đình nghệ nhân có truyền thống làm nghề in khắc tranh lâu đời. Với
số lượng hiện vật còn lại ngày hôm nay sẽ là nguồn tư liệu quý trong việc nghiên
cứu lịch sử dân tộc Việt Nam.
16
Chiếc máy in kim xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1861 nhưng phải gần một thế kỷ sau, việc
in ấn bằng máy mới phổ biến.
17
Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục chủ biên), 2004, Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb
Văn học, trang 204
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Sách
1. Đỗ Bang, 1998, Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn
- Những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa
2. Trần Văn Cẩn, 1978, Tranh khắc gỗ Việt Nam, Nxb Văn hóa Hà Nội
3. Phan Huy Chú (Bản dịch của Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực), 1974, Lịch
triều hiến chương loại chí, Nxb Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, tập
Dư địa chí và Văn tịch chí
4. Vũ Ngọc Khánh, 2007, Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb Thanh
Niên
5. Trần Trọng Kim, 1999, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin
6. Nguyễn Lang, 1994, Phật giáo Việt Nam sử luận, Nxb Văn học Hà Nội, tập 1
7. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên), 1992, Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế,
Nxb Hội Nhà văn
8. Trần Đình Sơn, 2006, Tản mạn Phú Xuân 2, Nxb Văn Nghệ
9. Lê Mạnh Thát dịch, 1999, Thiền uyển tập anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
10. Chu Quang Trứ, 2002, Văn hóa Việt Nam: nhìn từ mỹ thuật, Nxb Mỹ Thuật, tập II
11. Trịnh Quang Vũ, 2002, Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Hà Nội
12. Bùi Văn Vượng, 2010, Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam: Nghề giấy dó,
nghề tranh dân gian, Nxb Thanh Niên
13. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch của Nguyễn Du Đồng và Hà Ngọc
Xuyền), 1972, Minh Mệnh chính yếu, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn
hóa, tập 1
14. Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục chủ biên – bản dịch của Viện
sử học), 2004, Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb Văn học
15. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch của Viện sử học), 1998, Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục Hà Nội
16. Henri Oger, 2009, Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của người An
Nam), Nxb Thế Giới
B. Tạp chí
17. Hà Văn Tấn, tháng 7-1965, Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở
Hoa Lư, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 76
16
18. Hà Văn Tấn, tháng 6-1970, Cột kinh Phật thời Đinh thứ hai ở Hoa Lư, Tạp
chí Khảo cổ học số 5
19. Nguyễn Thị Dương, 2000, Nơi bán sách và nghề in sách mộc bản ở Hà Nội
đầu thế kỷ XX, Tạp chí Hán Nôm số 4
C. Website
20. my thuat so 17-18/
Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn
21. tin my thuat so 17-18/Trần
Đức Anh Sơn/Tranh Sình
22. Thị Thanh Trâm/Một số
phương thức thư tịch cổ Việt Nam truyền vào Trung Quốc
PHỤ LỤC
Tranh Đông Hồ: Hứng dừa
(Sưu tập tranh dân gian Bảo tàng Mỹ Thuật Tp.
HCM)
17
Tranh Đông Hồ: Đám
cưới chuột
(Sưu tập tranh dân gian
Bảo tàng Mỹ Thuật Tp.
HCM)
Tranh Hàng Trống: Mẫu Thượng Ngàn
(Sưu tập tranh dân gian Bảo tàng Mỹ Thuật
Tp. HCM)
18