A MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hoạt động ngoại giao là công cụ đặc thù trong mối quan hệ chính trị
giữa các nước với nhau, hoạt động ngoại giao dựa trên những nguyên tắc cơ
bản của chính sách đối ngoại, được biểu hiên bằng phương pháp hoà bình trên
cơ sở thương lượng giữa các bên liên quan, nhằm giải quyết các vấn đề song
phương.
Việt Nam có được vị trí như hiện nay trên trường quốc tế trước hết là
nhờ những hy sinh to lớn và thắng lợi vẻ vang của toàn Đảng toàn dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đồng thời cũng là nhờ có đường lối
quốc tế và chính sách đối ngoại đúng đắn - sáng suốt của Đảng và nhà nước ta
mà tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Người không những là một anh
hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một chiến sĩ cộng
sản quốc tế lỗi lạc, một vị lãnh tụ thiên tài của đảng và nhà nước ta mà trước
hết Người còn là một nhà ngoại giao lỗi lạc.
Sớm nhận thấy được tầm quan trọng của ngoại giao đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn tìm cách vận dụng tư
tưởng ngoại giao Hồ chí Minh vào thực tiễn hoạt động ngoại giao trong nhiều
năm qua và đã gặt hái được những thành công quan trọng có ý nghĩa lịch sử:
Từ chỗ bị coi là một dân tộc nhược tiểu, không có tên trên bản đồ thế giới, giờ
đây Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước, quốc gia, lãnh thổ,
trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường, là
thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế, liên khu vực và khu vực như:
Liên hợp quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ chức Pháp ngữ
(1986), ASEAN (1995). Diễn đàn hợp tác á - Âu ASEM (1996), Diễn đàn hợp
tác kinh tế khu vực châu á- Thái Bình Dương APEC... giải quyết ổn thoả
nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hoà
bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA,
1
FDI, mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các
sự kiện lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là : Việt Nam
đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ (1997), Hội
nghị cấp cao ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác á - ÂU
V ( 2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006) … Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới WTO (11/2006) , Hoa
Kỳ dành cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006).
Tuy nhiên, nhiều lúc do xa rời đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh nên ngoại
giao đã gặp không ít khó khăn, làm ảnh hưởng đến nền sự phát triển kinh tế
cũng như hình ảnh của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế. Nhưng Đảng và
Nhà nước ta đã kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, mà ngành
ngoại giao mắc phải.
Những thành tựu mà ngành ngoại giao Việt Nam đã đạt được là rất to
lớn, chúng ta không thể phủ nhận, Nhưng xã hội luôn luôn biến đổi và phát
triển không ngừng, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, đặc biệt là trong
giai đoạn hiện nay. Tình hình đó đặt ra một yêu cầu mới cho ngoại giao, đó là:
Phải thay đổi cách nhìn nhận sự việc, phải có những đối sách mới trong quan
hệ với các nước. Hơn lúc nào hết chúng ta cần tìm hiểu và nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao để học hỏi những kinh nghiệm trong hoạt
động ngoại giao và rút ra những bài học về phương pháp luận, cách suy nghĩ,
ứng xử của Người; từ đó kết hợp với thực tiễn dân tộc, thời đại để tìm ra
những phương hướng, cách giải quyết mới cho hoạt động ngoại giao Việt
Nam trước những khó khăn, thách thức khi đất nước hội nhập với quốc tế.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Những hoạt động trong công tác ngoại giao của Hồ Chí Minh lúc
đương thời do có nhiều nét đặc sắc và đóng vai trò rất quan trọng trong sự
thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nên đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu, trong đó có Giáo sư, Tiến sĩ, các chuyên gia lý luận…
Những tác phẩm tiêu biểu như:
2
- Hồ Chí Minh với quan hệ Việt – Pháp thời kỳ (1945 – 1946) / Lê Kim
Hải, Nxb. Đại học quốc gia, H. 1999.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện
đại / Nguyễn Phúc Luân, Nxb. Chớnh trị quốc gia, H. 1999.
- Chúng tôi học làm ngoại giao với bác Hồ / Mai văn Bộ - Tái bản lần 1
– TP. H.C.M, Nxb Trẻ, 1999.
- Bác Hồ trong tim các nhà ngoại giao, TP.H.C.M.H, Nxb trẻ. 1999.
- Nghiên cứu, học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh / Võ nguyên
Giáp, Nxb. Cụng an nhõn dõn, 2006.
- Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc / G.s Song Thành, Nxb. Lý luận
chớnh trị, 2005.
Tuy nhiên những công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tư
tưởng của Người nói chung, tư tưởng ngoại giao chỉ là một bộ phận nhỏ trong
hề thống các tư tưởng hoặc chỉ ghi lại, hồi tưởng lại các hoạt động liên quan
đến ngoại giao của Bác mà rất ít công trình đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ
thể đối với lĩnh vực quan trọng này. Với sự đam mê và lòng nhiệt huyết về
chính trị học tôi muốn thử sức minh nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về ngoại giao dưới một góc độ khác - góc độ của
chính trị học.
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích:
Mục đích của đề tài nghiên cứu là luận giải nguồn gốc hình thành, các
nội dung cơ bản trong tư tưởng ngoại giao của Hồ Chủ tịch và ảnh hưởng của
nó đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Từ lý luận đến thực tiễn, xem
xột thực trạng hiện nay của nền ngoại giao Việt Nam, nhỡn nhận những thành
tựu và hạn chế mới cú thể tỡm thấy giải phỏp để vận dụng vào công tác chỉ
đạo hoạt động ngoại giao của Đảng và nhà nước ta trong thực tiễn hiện nay.
3
Thụng qua quỏ trỡnh nghiờn cứu và trỡnh bày của đề tài, đề tài này có
thể trở thành tài liệu nghiên cứu, tham khảo của nhiều đối tượng khác nhau
đang và muốn quan tâm.
IV. CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp lý luận chung là phương pháp duy vật lịch sử, phương
pháp logic. Ngoài hai phương pháp đóng vai trò chủ đạo trên để nghiên cứu,
bài tiểu luận còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp
nghiên cứu phi thực nghiệm.
Trong quá trình trình bày, bài tiểu luận có sử dụng bài nói, viết của Hồ
Chí Minh, C. Mác, Ăngghen, Lênin…, các tác phẩm nghiên cứu, các công
trình nghiên cứu của nhiều học giả, bài viết trên các báo, tạp chí và các báo
cáo xung quanh vấn đề
V. KẾT CẤU
Bài tiểu luận gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung (gồm 3 nội dung lớn)
I. CƠ SỞ HèNH THÀNH VÀ QUÁ TRèNH PHÁT TRIỂN CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH Vẩ
NGOẠI GIAO
III. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO
TRONG CễNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA HIấN NAY
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tỏc giả đã cố gắng dành nhiều thời
gian để thu thập tài liệu, nghiên cứu tài liệu và quan sát trực quan để từ đó
đưa ra những đánh giá riêng trong bài viết của mình. Tuy do thời gian, số
lượng tài liệu tham khảo và kiến thức thực tiễn còn hạn chế nên bài tiểu luận
khụng trỏnh khỏi thiếu sót về néi dung cũng như cách thức trình bày. Mong
4
rằng cỏc thầy (cô) sẽ đóng góp ý kiến để đề tài nghiờn cứu này được hoàn
chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn thầy (cô).
5
B/ NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC HèNH THÀNH VÀ QUÁ TRèNH PHÁT TRIỂN
CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là hệ thống những
nguyên lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới, thời đại, về
đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hiện đại..
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Tây Giao, Bắc Kinh, mùa đông 1952
1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao
1.1.Nguồn gốc lý luận
1.1.1. Từ truyền thống ngoại giao hoà hiếu của dân tộc :
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
phải nhiều lần đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình bằng mọi
hình thức, trong đó có đấu tranh ngoại giao.
6
Lịch sử ngoại giao Việt Nam đã ghi lại biết bao kì tích, huyền thoại, thể
hiện sáng ngời ý chí độc lập, sách lược linh hoạt tài ba ứng đối của cha ông ta.
Những kinh nghiệm, sách lược về đối ngoại trong lịch sử ngoại giao của dân
tộc có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng ngoại giao của Hồ chí
Minh, để hiểu được sự ảnh hưởng đó cần phải hiểu rõ truyền thống ngoại giao
Việt Nam trong lịch sử.
Về mặt địa - chính trị, nước Đại Việt là láng giềng của đế chế Trung
Hoa hùng mạnh (có diện tích lớn gấp 32 lần nước ta) một nhà nước phong
kiến liên tục thi hành chính sách bành trướng, xâm lược đối với các nước
xung quanh. Là một nước láng giềng của Trung Hoa, Đại Việt phải luôn luôn
đương đầu với chính sách bành trướng, xâm lược của phong kiến Trung Hoa.
Hoạt động ngoại giao của Đại Việt trong lịch sử chủ yếu nhằm đối phó với đế
chế Trung Hoa, khi còn bị hộ đô hộ cũng như khi ta đã giành lại độc lập, khi
dùng quân sự, chính trị - ngoại giao, cương nhu khác nhau, tuỳ tương quan
lực lượng mỗi thời kỳ.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta đã không ngừng nổi lên khởi
nghĩa giành độc lập dưới sự lãnh đạo của các vị anh hùng như : Hai Bà Trưng,
Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo,
Dương Đình Nghệ,… Có lúc đấu tranh thắng lợi ,ta xưng vương. Xưng đế,
nhưng có lúc lợi dụng suy yếu, đổ nát của nhà Đường, ta khôn ngoan chỉ
xưng tiết độ sứ, tranh thủ giành lấy bộ máy cai trị về tay mình, thực hiện
quyền tự chủ đẻ chuyển sang quyền độc lập. Đó là sự khôn ngoan và khéo léo
của cha ông ta.
Trong thời kỳ độc lập, vào thời Lý, để chống lại cuộc chiến tranh xâm
lược và âm mưu trả thù của nhà Tống Lý Thường Kiệt đã thực hiện chính
sách “vừa đánh vừa đàm”, “biện sĩ bàn hoà”, để “không nhọc tướng sĩ, khỏi
tổn máu xương mà lại bảo toàn được tôn miếu”. Khi thấy quân Quách Quỳ
tinh thần sa sút, hoang mang, tiến thoái lưỡng nan, ông đã cử Kiều Văn Ung
đi thương thuyết , nếu nhà Tống chịu rút lui thì sẽ sai sứ sang ‘tạ tội’ và “triều
7
cống” Quách Quỳ chấp nhận ngay và chịu rút quân về nước…Từ đấy đến 200
năm sau còn lại của nhà Tống, họ không dám đả động gì đến Đại Việt nữa.
Sang thời Trần : Để chống lại đế quốc Mông Cổ đang làm mưa làm gió
từ châu Á sang châu Âu nhà Trần đã thực hiện nhiều chính sách ngoại giao
mềm dẻo như: Chấp nhận triều cống, đồng ý 6 điều của vua Nguyên đó là đưa
con em sang làm con tin, kê khai dân số nộp thuế, chịu phục dịch, cử Trần Di
ái đóng giả vua sang chầu, chấp nhận việc giám sát…để tránh căng thẳng, làm
cho chúng không kiếm cớ gây chiến sớm với ta.Nhờ những hoạt động ngoại
giao mềm dẻo mà nhà Trần có đủ thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
vì thế ta đã đánh thắng 3 cuộc chiến tranh xâm lược của quân Nguyên Mông.
Thời Quang Trung: Sau khi đại phá quân Thanh, để đề phòng Càn Long
phục thù,Quang Trung đã chủ động dâng sớ giảng hoà, cử giả vương sang
chầu, nhờ đó giữ được quan hệ bình thường.
Ta có thể rút ra những bài học khinh nghiệm trong truyền thống ngoại
giao của ông cha ta ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao đó là:
1)
Kiên quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân
tộc lên trên hết.
2)
Giữ vững nguyên tắc, nhưng có sách lược thích hợp,khi cương, khi
nhu. Trước chính sách của thiên triều trung quốc, ông cha ta ứng xử theo
phương châm: trong xưng đế, ngoài xưng vương, nghĩa là giữ vững chủ quyền
độc lập chủ quyền, nhưng nhân nhượng,hoà hiếu những vấn đề không phải
nguyên tắc.
3)
Kết hợp quân sự và ngoại giao, chiến đấu trên chiến trường và trên
bàn thương thuyết, vừa đánh vừa đàm, lúc dung ngoại giao phục vụ chiến
trường, lúc dùng thắng lợi trên chiến trường để gây áp lực cho kẻ địch trên
bàn ngoại giao.
4)
Biết mình, biết người, nắm bắt xu thế phát triển để xác định mục
tiêu chính sách.
8
1.1.2. Từ tinh hoa văn hoá cổ kim Đông – Tây
Để có được một đường lối ngoại giao đúng đắn, hiệu quả ngoài lập
trường quan điểm vững vàng, ngoại giao còn đòi hỏi phải có một tầm hiểu
biết sâu rộng về văn hoá, một nền kiến thức uyên bác và một trình độ nghệ
thuật giao tiếp bậc thầy. Qua các năm tháng bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ được những tinh hoa của văn hoá nhân
loại, Đông và Tây; đã tiếp thu những thành tựu dân chủ và tiến bộ của các
cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu ở châu Âu, châu Mỹ; lý tưởng tự do, bình
đẳng. bác ái của cách mạng tư sản Pháp,…
Tinh hoa văn hoá phương Đông, Người tiếp cận và học hỏi những mặt
tích cực trong tư tưởng, học thuyết của những người đi trước để tự trang trải
cho vốn kiến thức của mình. Người phê phán những bất cập hạn chế trong tư
tưởng của Nho giáo như: tư tưởng bảo thủ, phân biệt đẳng cấp, khinh lao
động chân tay, khinh phụ nữ trọng nam,…Người nói: “Tư tưởng của khổng
Tử chỉ thích hợp với một xã hội bình yên không đổi”, “Bộ óc của Khổng Tử
không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng”.
nhưng người
lại đề cao những mặt tích cực của Nho giáo như: “ triết lý hành động, nhân
nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hoà mục, thế giới đại đồng; về một
triết lý nhân sinh, tu thân tể gia; đề cao văn hoá trung hiếu “dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh”
Đối với phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác
ái, cứu khổ, cứu nạn; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp,
chăm lo điều thiện…Ngoài ra Người còn tiếp thu được những điều trong chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn phù hợp với điều kiện nước ta đó là dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Đặc biệt Người kế thừa được tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của
triết học phương Đông đó là: vạn vật sinh hoá đều do điều lí của nó chi phối,
nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của
9
trời đất, nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự cái vạn biến, lấy tĩnh chế
động, lấy nhu thắng cương…Đây là cơ sở cho việc hình thành tư tưởng “Dĩ
bất biến ứng vạn biến” trong công tác ngoại giao cũng như tư tưởng của Hồ
Chí Minh sau này.
Tinh hoa văn hoá phương Tây, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng về ngoại giao nói riêng chịu ảnh hưởng khá lớn của nền văn hoá dân
chủ và cách mạng của phương Tây. Khi ở Pháp, Người đã được tiếp xúc trực
tiếp với tư tưởng dân chủ của các nhà tư tưởng khai sáng như: Voltaire,
Rouseau, Montesquieu,…Ngoài ra Người còn hấp thụ tư tưởng dân chủ và
hình thành được phong cách dân chủ trong cuộc sống thực tiễn.
Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá Đông và
Tây, những hiểu biết sâu sắc của Bác về văn hoá của nhân loại là cơ sở cho sự
hình thành văn hoá ứng xử trong giao tiếp cũng như trong các hoạt động
ngoại giao, vốn hiểu biết văn hoá phong phú rộng lớn của người góp phần tạo
nên sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ của phong cách ngoại giao của mình.
Sự lịch lãm về nhiều mặt và kinh nghiệm thu được đã có lúc giúp
Người dễ dàng giành được thế chủ động ngay trong cả những tình huống bất
ngờ nhất. Là người Mácxít luôn tỉnh táo và sang suốt, Hồ Chí Minh đã biết
khai thác và học tập những tinh hoa văn hoá nói chung và văn hoá ứng xử,
giao tiếp nói riêng để phục vụ hiệu quả cho hoạt động ngoại giao với các
nước, các phe đối lập, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lê nin
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về ngoại
giao có sự kề thừa
truyền thống ngoại
giao dân tộc và tinh
10
Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Xó Hội Phỏp Nưm 1920
tại Tua
hoa cổ kim đông tây và được nâng lên một tầm cao mới dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Khi ra đi tìm đường cứu nước , ở tuổi 20, Nguyễn Tất Thành đã được
dân tộc, quê hương và gi đình trang bị cho một vốn học chắc chắn, một năng
lực trí tuệ sắc sảo giúp người có thể tiếp thu một cách dễ dàng những tư tưởng
tiến bộ của nhân loại. Trong quá trình hoạt động của mình, Người đã không
ngừng tự hoàn thiện cho mình một vốn văn hoá, vốn chính trị và vốn sống
thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà cách
mạng trẻ tuổi Việt Nam nào thời ấy có thể so sánh được. Cái bản lĩnh đó đã
nâng cao khả năng độc lập, tự chủ và sang tạo ở người khi tiếp thu và vận
dụng chủ nghĩa Mác – Lênin để không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn,
mà biết tiếp thu và vận dụng một cách khoa học những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác – Lênin phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam
lúc bấy giờ.
Khác với nhiều trí thức tư sản phương Tây, đến với chủ nghĩa Mác
Lênin chủ yếu như đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề tư
duy hơn là hành động, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác Lênin là để
tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu
cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Trong bài Con đường dẫn tôi đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa một cách chân thành và
giản dụ quá trình hình thành tư tưởng của mình: “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách
mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên…Tôi tham gia Đảng Xã hội
Pháp chẳng qua là vì các ‘ông bà” ấy – đã tỏ vẻ đồng tình với tôi, với cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn đảng là gì, thì tôi chưa hiểu”. Về
động lực đưa người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin Người đã viết : “Lúc đầu,
chính chủ nghĩa yêu nước chưa phải chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo quốc tế ba”. Mặc dù dã là một đảng viên Đảng Xã hội Pháp ,
nhưng căn bản Nguyễn Ái Quốc vẫn là một người dân mất nước, khát khao đi
tìm độc lập, tự do cho dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức khác. Tác phẩm
11
của Lênin đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
giai cấp với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ Lênin, Người đã
tìm thấy “con đường giải phóng chúng ta và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên
cứu các học thuyết của Mác sâu hơn.
Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận
thức mácxít, đồng thời theo lối “đắc ý, vong ngôn” của phương Đông, cốt
nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ bọc
ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ
không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
1.2. Nguồn gốc thực tiễn
Bối cảnh nước ta và thế giới vào cuối thế kỷ XIX cho đến những năm
60 của thế kỷ XX cùng với hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh đã mang lại
những luận điểm quan trọng trong tư tưởng ngoại giao cua Người.
1.2.1. Bối cảnh trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ giữa kỷ XIX thực dân pháp đã tiến hành xâm lược Việt Nam, biến
nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến của chính sách chia để trị trong
khuôn khổ liên bang Đông Dương.
Ngay từ khi thực dân pháp nổ sung xâm lược nước ta, phong trào chống
Pháp cứu nước liên tục diễn ra nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân chủ
yếu là sự khủng hoảng về đường lối vào thời điểm mà tương quan lực lượng
giữa ta và địch quá chênh lệch. Nước ta đang ở phương thức sản xuất phong
kiến, kinh tế lạc hậu, còn kẻ địch là một nước đã đi vào phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa với nền công nghiệp hiện đại, quân đội được trang bị hết sức
tối tân. Tình hình đó đòi hỏi phải đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu và giải
quyết theo con đường mới.
1.2.2. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
12
Bước sang thời kỳ cận - hiện đại thế giới đã diễn ra cuộc đương đầu
lịch sử giữa các nước tư bản phương Tây với nền văn minh công nghiệp và
các nước phương Đông với nền văn minh nông nghiệp lạc hậu.Tiếp theo sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản là các cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô
từ nhỏ đến lớn để chiếm lĩnh thuộc địa, phân chia thị trường thế giới. Chủ
nghĩa tư bản phương Tây đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, mở rộng việc
xâm chiếm thuộc địa và áp đặt sự thống trị lên hầu hết các nước châu á, châu
Phi, châu Mĩ la tinh.
Cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong
phong trào công nhân châu Âu diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự
chuyển biến trong nội bộ các đảng Xã hội dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số
đảng viên bị phân hoá. Phái tả trong các đảng tách ra, thành lập các Đảng
cộng sản. tháng 3 – 1919, Lênin thành lập Quốc tế III, đưa phong trào cộng
sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuôi các chính quyền tư sản của các
đảng Xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các Văn kiện Đại hội II Quốc tế Cộng
sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận về việc thực hiện mối quan hệ hữu
cơ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa cố ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
1.3. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân Hồ Chí
Minh
Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở vùng quê
Nam Đàn (Nghệ An) - một nơi có truyền thống hiếu học. Với tố chất thông
minh tuyệt vời Bác Hồ chúng ta đã luôn luôn tìm tòi và học hỏi những điều
hay của truyền thống dân tộc và đã tự trau dồi cho mình được một vốn hiểu
biết sâu sắc về con người, quê hương, đất nước. Trí thông minh và khả năng
thiên bẩm cùng với sự khổ công học tập trong quá trình bôn ba khắp năm
châu bốn biển đã tạo nên cơ sở vững chắc góp phần hình thành nên tư tưởng
của người về ngoại giao.
13
Đã có rất nhiều nhà yêu nước khác được tiếp cận với Luận cương của
Lênin nhưng chỉ duy nhất Bác mới là người tìm ra được chân lí. Điều đó
thuộc vào những yếu tố chủ quan từ bản thân Hồ Chí Minh, đó là:
1)
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê bình tinh
tường, sang suốt trong nghiên cứu và tìm hiểu.
2)
Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn kiến thức phong
phú của thời đại, vốn kinh nghiệm ngoại giao của các bậc “tiền bối”
đi trước để lại.
3)
Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt
thành cách mạnh, chịu đựng hy sinh tất cả vì độc lập của tổ quốc, tự
do hạnh phúc của đồng bào.
2. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn
liền với những năm tháng Người bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước:
Từ (1917 - 1923): Người hoạt động ở Pari, trung tâm chính trị của châu
Âu. Tại đây, Người đã bắt gặp Luận Cương của Lênin, tán thành Quốc tế thứ
Ba, trở thành người cộng sản việt nam đầu tiên. Người cùng phan chu trinh,
phan văn trường tổ chức ra Hội người Việt Nam yêu nước, cùng các nhà cách
mạng thuộc địa khác có mặt tại Pari lập ra Hội liên hiệp thuộc địa , ra tờ Le
Paria. Năm 1919, Người đã thực hiện hoạt động ngoại giao đầu tiên: thay mặt
nhân dân ta đưa Yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Vécxây, đòi các quyền tự
do, dân chủ và đẳng cho dân tộc Việt Nam. Trong thời gian này, Người đã tự
trang bị cho mình một vốn kiến thức sâu và rộng (cả về văn hoá và lý luận
cách mạng) để phục vụ cho công cuộc đấu tranh và giải phóng dân tộc, trong
đó có đấu tranh ngoại giao.
Năm 1923, Người sang Liên Xô, tham dự Hội nghị nông dân quốc tế
vào học Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông,
Đại hội V của quốc tế cộng sản và Đại hội của nhiều tổ chức quốc tế khác;
14
nhờ hoạt động trong Quốc tế cộng sản, Người có dịp tiếp xúc với bộ tham
mưu của cách mạng vô sản thế giới. Đây là thời kỳ Người vừa học tập lý luận,
vừa tích cực tham gia sôi nổi trong các hoạt động thực tiễn của phong trào
quốc tế và được coi là một trong những nhân vật xuất sắc của Quốc tế Ba, đã
có những đóng góp to lớn vào việc xác lập đường lối và phương pháp cách
mạng ở các nước thuộc địa phương Đông. Cuối năm 1924, Hồ Chí Minh về
Quảng Châu Trung Quốc, liên lạc với các lực lượng yêu nước và cách mạng
Việt Nam. Tại đây, Người mở các lớp huấn luyện chính trị, sáng lập ra Hội
việt nam cách mạng thanh niên, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng
và tổ chức để tiến tới sang lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Thời gian này, Người cũng đã chủ động phối hợp với các nhà cách mạng châu
Á có mặt tại Quảng Châu lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức, do Liêu
Trọng Khảo làm hội trưởng, Lý Thụy làm Bí thư. Tháng 6 – 1931, Người bị
đế quốc Anh bắt giam trái phép tại Hồng Kông.
Năm 1934: Người trở lại
Liên Xô vào học trường Quốc tế
Lênin, rồi vào công tác tại Viện
nghiên cứu các vấn đề dân tộc
thuộc địa, tại đây, Người tham
gia lớp nghiên cứu sinh của Viện.
Tình hình chính trị thế giới biến
đổi, cuối năm 1938, Người về
nước qua đường Trung Quốc,
vừa tham gia hoạt động trong
Bát lộ quân Trung Quốc, vừa tìm
bắt liên lạc, gây dựng lại các cơ
sở cách mạng nước ta tại Quảng
Bác Hồ ở Trung quốc năm 1934
15
Tây và Vân Nam, chuẩn bị tìm đường về nước. Đầu năm 1941, người về Cao
Bằng, triệu tập và trực tiếp
chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5
– 1941), chỉ đạo việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam,
đưa tới thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Từ 1941 – 1945: Người đã tiến hành nhiều hoạt động có tính chất ngoại
giao để gây thanh thế cho cách mạng Việt Nam:
Sách lược ngoại giao với Trung Quốc và Mỹ
Với Trung Quốc,
Tháng 11 – 1941, Hồ Chí
Minh cho lập Văn phòng
hải ngoại của Việt Nam
độc lập đồng minh để hợp
pháp hoá tổ chức và hoạt
động của ta, đồng thời đề
phòng khi “Hoa quân nhập
Việt”, ta có thể đoàng
Bác Hồ với Chủ tịch Mao trạch Đông
hoàng nói chuyện với họ.
Quả nhiên, đại diện của tổ chức ta, qua giới thiệu của Hồ Học Lãm đã được
Lý Tế Thâm - chủ nhiệm hành dinh Tây – Nam của Tưởng tiếp và còn hứa
giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Cuối năm 1940, Người cho lập ra Trung – Việt
văn hoá công tác đòng chí hội, giúp cho địa vị hợp pháp của Việt - Minh tại
Trung Quốc được mở rộng thêm. Tháng 3 – 1943, Hội nghị các lực lượng
cách mạng Việt Nam ở hải ngoại được họp kín tại Liễu Châu. Hồ Chí Minh đã
đọc hai bản báo cáo “Về phân hội quốc tế chống xâm lược ở Việt Nam”, và “
Về các đảng phái ở trong nước”. Sau Hội nghị, Hồ Chí Minh được bầu làm uỷ
viên dự khuyết Trung ương Việt Nam cách mạng đồng minh Hội, tức là họ đã
chấp nhận Đảng Cộng sản Việt Nam than gia vào Liên minh Trung - Việt,
16
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít Nhật, tạo điều kiện thuận lợi để
người trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam(Tháng 9 – 1943, qua đường Thuỷ
Khẩu, Hồ Chí Minh trở về nước).
Với Mỹ, Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc lần
thứ hai nhân việc máy bay Mỹ bị Nhật bắn rơi, phi công W.Sô nhảy dù được
ta cứu sống, Người quyết định đích thân trao trả W.Sô cho bộ chỉ huy không
quân Mỹ để thiết lập quan hệ với họ. Người thấy cần thiết phải tranh thủ Mỹ
vì qua các Hội nghị Teheran (11 – 19430 và Yalta (2 – 1945), Hồ Chí Minh
phát hiện ra giữa Mỹ và Anh có mâu thuẫn về vấn đề Đông Dương(Phía Mỹ
muốn lập chế độ thác quản quốc tế, nhưng Anh lại sợ rằng, chế độ thác quản
cũng sẽ bị áp dụng tại các thuộc địa của Anh, nên kịch phản đối Mỹ và ủng
hộ Pháp).
Nhận thấy chính sách phi thực dân của Rudovan cần được lợi dụng ,
nên Người đến Côn Minh để gặp người Mỹ, giới thiệu về tổ chức kháng
chiến của Việt Nam và yêu cầu Mỹ công nhận Việt Minh. Tuy đến lúc kết
thúc chiến tranh và sau đo, Mỹ vẫn chưa có sự công nhận chính thức nào với
tổ chức kháng chiến của Hồ Chí Minh, nhưng những việc tranh thủ liên hệ với
người Mỹ có cảm tình với cách mạng Việt Nam với cá nhân Người, đã tạo ra
nhiều thuận lợi cho việc giao dịch với Mỹ sau khi cách mạng Tháng Tám
thành công.
Sách lược ngoại giao Hồ Chí Minh với Pháp sau khi cách mạng Tháng
Tám thành công
Tháng 7 – 1945, trong khi ba nước đang họp Hội nghị ở
Pốtxđam(Đức), Hồ Chí Minh đã qua thiếu tá A.Tômát – Toán trưởng toán
“Con nai” gửi đến G.Xanhtơny, Trưởng phái đoàn cơ quan tình báo Pháp(M5)
ở Côn Minh một bức điện 5 điểm:
1)
Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một Nghị viện do người một
người Pháp làm Chủ tịch, cho đến lúc nền độc lập được trao lại cho
Việt Nam.
17
2)
Nền độc lập sẽ trao trả lại cho Việt Nam sau 5 năm, chậm nhất là
sau 10 năm.
3)
Tài nguyên của đât nước Việt Nam phải trả về cho nhân dân Việt
Nam, có sự đền bù công bằng, nước Pháp được hưởng những ưu tiên
về kinh tế.
4)
Các quyền tự do mà Liên hiệp quốc gia đã khẳng định phải được
trao lại cho người Việt Nam.
5)
Việc bán thuốc phiện phải bị cấm.
Bỏc Hồ với toỏn “Con nai”
Những đề nghị khá khiêm tốn ấy đã không được chính phủ Đờ - Gôn
chấp thuận và hoạt động ngoại giao của Người từ sau ngày về nước cho thấy:
Trong cơn bão tố mịt mùng của thời cuộc, bằng nhãn quan chính trị sắc bén,
bằng sự phân tích khoa học chính xác để nắm bắt đúng xu thế phát triển của
thời cuộc, dự đoán được thời cơ và chớp thời cơ, Hồ Chí Minh đã đưa Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám đi đến thắng lợi rực rỡ.
Trong công tác đối ngoại, Người đã kiên trì gắn cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam với cách mạng thế giới, tranh thủ mọi sự giúp đỡ có
thể của quốc tế. Người luôn đánh giá đúng từng loại kẻ thù, âm mưu và ý đồ
của chúng đối với đất nước ta, khéo léo khai thác chỗ yếu và mâu thuẫn giữa
18
chúng để phân hoá hàng ngũ của chúng, cô lập kẻ thù nguy hiểm nhất. Đồng
thời Người cũng thấy rõ chỗ mạnh, chỗ yếu, khả năng và giới hạn của ta để đề
ra sách lược, bước đi phù hợp với thực tế.
19
CHƯƠNG II
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NGOẠI GIAO
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là hệ thống các quan điểm về
đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc
tế, các chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,
là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng
Việt Nam.
1. Giương cao đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Độc lập, tự chủ là đặc điểm quán xuyến trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ bước đầu ra đi tìm đường cứu nước, lựa chọn con đường giải phóng
dân tộc, xác định đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, cho đến việc
hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta mỗi thời kì,
trong đó có hoạt động ngoại giao.
Độc lập, tự chủ tự cường tức là dựa vào sức mình là chính, có tham
khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy
nghĩ tìm tòi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm tự giải
quyết lấy công việc của đất nước mình, không nhận bất cứ một sức ép nào từ
bên ngoài, không để biến thành con bài trong tay người khác. Mức độ độc lập,
tự chủ trong hoạt động ngoại giao phụ thuộc vào sức mạnh chính trị, kinh tế,
quân sự… của đất nước nhưng cũng còn phụ thuộc vào trình độ tư duy, trí tuệ,
kinh nghiệm, phương pháp và khả năng ứng xử của Đảng và lãnh tụ ta trong
hoạt động và chỉ đạo ngoại giao.
Ở buổi đầu dựng nền cộng hoà dân chủ, ta ở giữa vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc, chưa được một quốc gia nào trên thế giới công nhận, quân đội
nước ngoài đóng trên đất nước ta (Tưởng, Anh, Pháp, Nhật…) có lúc đến nửa
20
triệu, ta có thể dựa vào ai và phải có đối sách thế nào để giữ vững được thành
quả cách mạng ?
Dựa vào tinh thần yêu
nước và sức mạnh đoàn kết
của toàn dân, nắm bắt được
xu thế của thời đại, dự đoán
được sự phát triển của tình
hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chủ trương tiến hành cùng
một lúc cả ngoại giao song
phương và đa phương. Một
mặt tiến hành thương lượng để tạm hoà hoãn với Tưởng, rồi với Pháp nhằm
có thời gian chuẩn bị lực lượng; mặt khác tranh thủ mọi cơ hội để gửi thư,
điện tới Liên Hợp Quốc và các nước đồng minh, yêu cầu được kết nạp vào
Liên Hợp Quốc, tham gia vào đời sống chính trị quốc tế, làm cho họ hiểu
được lịch sử chiến đấu và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Từ đầu năm 1950, ta đặt được quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu, chính thức trở thành
thành viên của phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng sang đầu những năm 60, mâu
thuẫn Xô - Trung từ âm ỉ đã bùng nổ thành xung đột công khai. Cả hai nước
lớn đều yêu cầu ta phải có thái độ “nhất biên đảo”, trong lúc công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền
Nam đang phụ thuộc vào sự viện trợ rất lớn của cả hai nước về cả kinh tế lẫn
quân sự. Trong bối cảnh phức tạp đó Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ nhận
định, cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam vì độc lập và thống
nhất tổ quốc là sự nghiệp cao cả và chính nghĩa đã trở thành lương tâm và
vinh dự của thời đại, được cả loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ đồng tình
ủng hộ. Vì vậy, trong cuộc tranh chấp Xô - Trung, để tập hợp lực lượng, cả
hai nước đều cần đến ngọn cờ Việt Nam.
21
Bằng thiên tài trí tuệ, tình cảm quốc tế chân thành và trong sáng, bằng
nghệ thuật ứng xử ngoại giao tinh tế, có lý, có tình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta vẫn kiên trì đường lối độc lập tự chủ, kiên trì vận động thuyết phục,
làm cho bạn hiểu ta, tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ ta cho đến khi sự nghiệp thống
nhất đất nước của ta hoàn toàn thắng lợi.
Giữ vững độc lập, tự chủ trong đường lối cách mạng nói chung và
đường lối đối ngoại nói riêng là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
của cách mạng Việt Nam.
2. Kết hợp dân tộc với quốc tế, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh, đã có những tư tưởng
vượt thời đại. Đó là tư tưởng hoà bình cho dân tộc mình và hoà bình cho dân
tộc khác. Độc lập, tự chủ tự cường không có nghĩa là tự cô lập, tách rời dân tộc
với thời đại. Trong mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh tinh thần độc lập, tự chủ, “đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta”, dựa vào sức mình là chính, có sức mạnh bên trong bao giờ cũng là nhân tố
quyết định; đồng thời Người cũng khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, muốn giành được thắng lợi, cách mạng Việt Nam
phải tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của cách mạng thế giới.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được trong đường lối
chính trị của mình sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lợi ích dân tộc với nghĩa vụ
quốc tế, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở Trung Quốc, đã hoạt động không mệt mỏi để tăng
cường tình đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với các dân
tộc thuộc địa.
22
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta,
Người đã giáo dục toàn dân phân biệt rõ ràng bọn thực dân cướp nước, bọn đế
quốc hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý ở các nước đi
xâm lược. Nhờ đó, trong kháng chiến cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn, có hiệu
quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân tiến bộ trên thế giới
mà biểu hiện rực rỡ nhất là sự hình thành trên thực tế một mặt trận nhân dân
thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, góp phần đưa sự nghiệp độc lập và thống
nhất tổ quốc đi tới thắng lợi trọn vẹn.
Mặt khác, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế cho dân tộc mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đồng thời không quên nhắc nhở phải hoàn thành tốt nghĩa vụ
quốc tế, coi “giúp bạn là tự giúp mình”, nhất là với cách mạng Lào và cách
mạng Campuchia. Trong hai cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo thành lập mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương, phối hợp và giúp đỡ
bạn cùng chiến đấu, góp vào thắng lợi chung.
Nhìn lại toàn bộ cuộc chiến tranh 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo
vệ tổ quốc, cần phải khẳng định rằng, chúng ta không hề bỏ lỡ một cơ hội nào
để tranh thủ hoà bình. Hoà bình đối với Hồ Chí Minh là hoà bình trong độc
lập, tự do và thống nhất đất nước; hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng và cùng có lợi. Trong thư gửi Tổng
thống Mỹ H. Truman (2-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: “Nhân dân
Việt nam sau bao nhiêu năm bị cướp bóc, tàn phá, mới bắt đầu công việc xây
dựng cần phải có hoà bình và tự do. Nền hoà bình và tự do đó chỉ có thể có
được bằng nền độc lập của chúng tôi khỏi mọi cường quốc thực dân, bằng sự
hợp tác với các nước khác”.
3. Phát huy truyền thống hoà hiếu của dân tộc, giương cao ngọn cờ
độc lập và hoà bình, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ
23
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã sử
dụng ngoại giao như một vũ khí sắc bén và đã để lại cho chúng ta những bài
học kinh nghiệm vô giá. Trước hết là truyền thống “đem đại nghĩa để thắng
hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” để bảo vệ độc lập dân tộc và từng
tấc đất của non sông gấm vóc, cha ông ta đã kiên quyết chiến đấu hy sinh,
không chút nhân nhượng; nhưng khi đất nước đã được giải phóng, non sông
đã quy về một mối, kẻ thù đã chịu đầu hành thì cha ông ta lập tức chuyển
ngay sang chính sách ngoại giao hoà hiếu, tạo điều kiện cho họ rút về nước,
“đi thuỷ cho thuyền, đi bộ cho ngựa” 1 nhằm nối lại mối giao hảo giữa hai
nước để tạo ra cuộc sống yên bình cho nhân dân.
Ở bên cạnh một nước lớn mà bành trướng, bá quyền đã trở thành một
quốc sách nhất quán qua mọi triều đại, cha ông ta để giữ vững chủ quyền độc
lập, trong lúc chiến tranh cũng như khi hoà bình, đã phải vận dụng bao sách
lược ngoại giao khôn khéo: khi cương, khi nhu, vừa đánh, vừa đàm, có khi
phải nhân nhượng những vấn đề không phải nguyên tắc (triều cống, vào chầu,
trong xưng đế ngoài xưng vương…).
- Phát huy truyền thống hoà hiếu của cha ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
sau khi giành được độc lập đã nhiều lần tuyên bố: “chính sách ngoại giao của
Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ
trên thế giới để giữ gìn hoà bình” 2. “Thái độ nước Việt Nam đối với các nước
A châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè” 3.
Ngay đối với nước Pháp, nước đang tiến hành chiến tranh thù địch chống Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “ Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân
thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương
gia hay trí thức; nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân
dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn” 4. Năm 12949, trả lời một
nhà báo Mỹ hỏi sau khi đã độc lập, Việt Nam sẽ hoan nghênh tư bản ngoại
quốc không? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “Bất kỳ nước nào (gồm cả
24
Pháp) thật thà muốn đem tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích
làm lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản
đến để ràng buộc, át chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt” 1. Có
thể xem những tuyên bố trên đây là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm
đa phương hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay.
4. Phối hợp mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự và mặt trận
chính trị
Từ buổi đầu dựng nước cộng
hoà, ngoại giao đã bước vào chiến đấu
như một mặt trận, nhưng chỉ riêng
hoạt động ngoại giao thôi, không làm
nên được thắng lợi. Năm 1944, khi lực
lượng ta còn yếu, một số đồng chí ta
muốn tiến hành quan hệ ngoại giao
với Chính phủ Tưởng Giới Thạch và
Mỹ để cầu viện, Hồ Chí Minh đã nói
tại Hội nghị Liễu Châu (Trung Quốc)
tháng 3 – 1944 rằng: “Nếu mình chưa
có lực lượng làm cơ sở thì hãy khoan
nói đến ngoại giao”2. Tại Tân Trào (8-1945), Người cũng từng nói với đồng
chí Trưởng đoàn đại biểu Hà Nội dự Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng tại
Tân Trào, một ý tương tự: “Cây có cao thì bóng mới dài”, ý nói thực lực cách
mạng có mạnh mới có thắng lợi trong đấu tranh ngoại giao. Cũng có khi
Người nói: “Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to,
tiếng mới lớn”. Qua đó, ta thấy rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ chặt
chẽ, biện chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, mặt trận chính
trị. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) ra nghị quyết đẩy mạnh đấu
25