Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng lực lượng vũ trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.38 KB, 32 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang;
Người sáng lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta. Người đã giải quyết một
loạt vấn đề then chốt về tư tưởng lý luận và lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng thành công trong thực tiễn. Lực lượng vũ trang, nồng cốt là
quân đội nhân dân, đã hoàn thành sự nghiệp cách mạng: đánh bại thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau thắng lợi vĩ đại này,
cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Bên cạnh những thành tựu to lớn, Đảng và nhân dân ta còn gặp không ít
khó khăn do kẻ thù vẫn đang tiến công chúng ta bằng nhiều thủ đoạn thâm
hiểm.
Tình hình ấy đặt ra là phải chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang, nồng cốt là quân đội nhân dân
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
trình độ, sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động xâm
lược của các thế lực thù địch.
Những chiến công huy hoàng này bắt nguồn từ đường lối quân sự của
Đảng, hạt nhân là học thuyết quân sự Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, em chọn đề tài: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang.
2. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vũ trang. Từ đó Đảng và Nhà nước ta tiếp tục
củng cố, vận dụng, hoàn thiện, phát triển những quan điểm trên của Chủ tịch

1



Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và củng cố quốc phòng toàn dân hiện nay.
3. Lịch sử nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự nói chung và lực lượng vũ trang nói
riêng được nhiều người viết và bàn đến. Tiêu biểu là quyển “Hồ Chí Minh với
các lực lượng vũ trang nhân dân”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975;
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ 1930 - 1945”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, TS. Lê
Văn Thái; “Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”, Bộ Quốc phòng,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển
văn hóa dân tộc Việt Nam, Hà Nội, 2001 - Đại tá Hoàng Cơ Quảng, Nguyễn
Xuân Dung, Nguyễn Huy Toàn, Nguyễn Minh Đức, Lê Văn Thái…
4. Phạm vi nghiên cứu
Bài viết nhỏ này chủ yếu em sử dụng tư liệu của các nhà nghiên cứu về
tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh mà cụ thể là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang. Ngoài các tài liệu vừa nêu trên, bài viết còn sử dụng
tham khảo thêm: Chiến tranh nhân dân, tập 1 - Quốc phòng toàn dân, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, Đại tá Phạm Chí Nhân (chủ biên); giáo
trình Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quân sự - Khoa Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
5. Phương pháp nghiên cứu
Người viết sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp logic
+ Phương pháp lịch sử cụ thể

2


B - PHẦN NỘI DUNG

I. NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang là một bộ phận
trọng yếu, gắn liền hữu cơ với tư tưởng cách mạng Việt Nam, nên tư tưởng
này mang các yếu tố về nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
I.1. Nguồn gốc lý luận
Về nguồn gốc lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang chịu ảnh hưởng học thuyết quân sự Mác - Lênin, truyền thống quân sự
đặc sắc của dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới trong lĩnh vực xây dựng lực
lượng vũ trang.
I.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng Việt Nam là kết quả của sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết
quân sự Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
Việc Hồ Chí Minh tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết quân
sự Mác - Lênin, tìm thấy ở đó “cái cần thiết” cho con đường giải phóng dân
tộc Việt Nam là bước quyết định trong quá trình hình thành cũng như bản chất
cách mạng của tư tưởng chính trị, quân sự Hồ Chí Minh nói chung và xây
dựng lực lượng vũ trang nói riêng.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng cách mạng và khoa học triệt để của chủ
nghĩa Mác - Lênin, vận dụng tư tưởng đó xác định mục tiêu cách mạng Việt
Nam, từ đó khẳng định lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang, quân đội
nhân dân là thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, “đi tới xã hội cộng
sản”
Năm 1848, “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” - vũ khí sắc bén của giai cấp
công nhân ra đời khẳng định: sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân và chính đảng tiên phong của nó là đập tan chế độ bóc lột, xây dựng chế độ
cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, văn minh, thật sự đem lại hạnh phúc cho mọi người.
Được tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân quốc tế soi sáng,
Hồ Chí Minh xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam: “làm tư sản dân

quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1. Hồ Chí Minh
còn khẳng định tôn chỉ của Đảng: “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp
tranh đấu để tiêu trừ đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”2.
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1996, T3, tr. 1.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1996, T3, tr. 5.

3


Từ việc khẳng định mục tiêu của cách mạng khi thành lập lực lượng vũ
trang, nồng cốt là quân đội nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định lý tưởng chiến
đấu là thực hiện mục tiêu cách mạng do Đảng xác định. Lý tưởng chiến đấu
giải phóng dân tộc, nhân dân, “đi tới xã hội cộng sản”, thật sự là bước nhảy vọt
về chất; vì rằng, trong lịch sử dân tộc, nhiều triều đại phong kiến cũng đã từng
phát huy được truyền thống yêu nước của nhân dân và xây dựng được quân đội
mạnh, đánh thắng nhiều kẻ thù để bảo vệ Tổ quốc, nhưng chưa bao giờ có mục
tiêu chiến đấu giải phóng con người, vì hạnh phúc thật sự của nhân dân. Lý
tưởng chiến đấu cao cả của lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân mà Hồ Chí
Minh xác định và chăm lo giáo dục bắt nguồn từ lý tưởng cách mạng của giai
cấp công nhân và chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân mà các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”
(1848). Đây là điểm quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh tiếp thu “phương pháp làm việc biện chứng” của học
thuyết quân sự Mác - Lênin, đề ra phương hướng và biện pháp xây dựng lực
lượng vũ trang ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp

làm việc biện chứng”. Hồ Chí Minh đã nắm chìa khóa vàng đó để giải quyết
vấn đề trong lĩnh vực quân sự. Những nguyên lý và phép biện chứng trong
học thuyết quân sự Mác - Lênin là “cẩm nang” giúp Người giải quyết vấn đề
trung tâm là chuyển hóa tương quan lực lượng ta - địch trong khởi nghĩa và
chiến tranh, thực hiện thành công trong thực tiễn lời chỉ dẫn của Ph.Ăngghen
về một quân đội yếu đương đầu thắng lợi với một đội quân mạnh để giành
độc lập dân tộc thì nhất thiết không được giới hạn trong những phương thức
tiến hành chiến tranh thông thường, mà phải khởi nghĩa quần chúng, chiến
tranh cách mạng, các đội du kích mọc ở khắp nơi.
Phép biện chứng trong học thuyết quân sự Mác - Lênin còn giúp Người
giải quyết thành công một loạt vấn đề trong việc xây dựng lực lượng vũ trang
ở một nước thuộc địa bị chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân thống trị.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề mấu chốt trong xây dựng lực lượng vũ trang là
phải xây dựng lực lượng chính trị trước. Trên nền tảng đó mà xây dựng lực
lượng vũ trang với quy mô thích hợp với phong trào cách mạng, đi từ thấp lên
cao, khi cách mạng có bước nhảy vọt thì lực lượng vũ trang đồng thời cũng
được xây dựng, phát triển tương ứng.

4


Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng
quân đội kiểu mới của học thuyết quân sự Mác - Lênin.
“Vũ trang cho giai cấp công nhân” là khẩu hiệu chiến đấu mà C. Mác
và Ph.Ăngghen đưa ra từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Vận dụng và phát
triển luận điểm này trong điều kiện mới của lịch sử, V.I.Lênin đã nêu lên sự
cần thiết phải xây dựng quân đội thường trực kiểu mới của nhà nước xã hội
chủ nghĩa và khẳng định: trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, nếu
nước cộng hòa Xô viết trẻ tuổi không muốn trở thành miếng mồi ngon của
chúng thì về lực lượng quân sự không thể dừng lại ở hình thức tổ chức dân

cảnh mà phải tiến lên hình thức tổ chức mới cao hơn: đó là quân đội thường
trực chính quy. V.I.Lênin nhiều lần khẳng định bản chất giai cấp công nhân
của quân đội: là công cụ bạo lực của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của nhà nước vô sản nhằm trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột sau
khi bị lật đổ. V.I.Lênin đặc biệt chăm lo xây dựng và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân, coi đó là vấn đề sống còn của quân đội cách mạng, là một
trong những nguyên lý cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới. V.I.Lênin cũng
khẳng định sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng cộng sản đối với toàn bộ
quá trình trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội.
Hồ Chí Minh đã vận dụng các nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới
của Lênin là xây dựng lực lượng vũ trang, nồng cốt là quân đội nhân dân, phải
toàn diện cả về chính trị, quân sự và cơ sở vật chất kỹ thuật. Người đặc biệt
nhất mạnh vấn đề mấu chốt trong nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới là
phải ra sức xây dựng và không ngừng bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân
cho quân đội. Theo Người, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, thực hiện
nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với quân đội, chăm lo công
tác chính trị, đoàn kết nội bộ, quân dân, quốc tế; tự giác chấp hành kỷ luật…
Như vậy, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết quân sự Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều nội dung quan trọng… là nguồn gốc
quyết định bản chất giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
I.1.2. Kế thừa và phát triển giá trị truyền thống xây dựng lực lượng
vũ trang đặc sắc của dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, dấu ấn
“truyền thống dân tộc” rất đậm nét. Điều đó bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc
giá trị to lớn truyền thống quân sự dân tộc như Người khẳng định: Chúng ta
có truyền thống quân sự quý giá của cha ông ta. Người thường nêu những tấm
5


gương cụ thể: “Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 mà vẫn đánh đông

dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên Vương
chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16
tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên”1.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc
lên một trình độ mới, phù hợp với đặc điểm mới của thời đại chống chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống đặc sắc của dân tộc về
vũ trang toàn dân, xây dựng quân đội sâu đậm tính chất nhân dân.
Vũ trang toàn dân, mỗi người dân là một người lính (tận dân vi binh),
trăm họ là lính (bách tính giai binh), xây dựng quân đội đậm đà tính chất nhân
dân, cả nước cùng đánh giặc là đặc điểm nổi bật và xuyên suốt từ cuộc kháng
chiến chống quân Tần xâm lược thế kỷ thứ III trước Công nguyên đến thời
hiện đại trong lịch sử Việt Nam.
Từ kinh nghiệm lịch sử đấu tranh giữ nước lâu dài của dân tộc, tiêu
biểu là hai vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và Nguyễn Trãi, đã đúc kết
thành những nguyên lý giữ nước. Thứ nhất, phải tăng cường khối đại đoàn kết
“vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức” (Trần Quốc
Tuấn). Thứ hai, phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc (Trần Quốc Tuấn), phải
“yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có
tiếng oán hận sầu than” (Nguyễn Trãi).
Thực chất của quan điểm “khoan thư sức dân”, “yêu thương và nuôi
dưỡng dân chúng” là gắn việc huy động và bồi bổ lực lượng vật chất và tinh
thần của nhân dân, làm cho nguồn lực trong nhân dân không bao giờ cạn kiện
mà trái lại ngày càng phát triển, qua đó mà nhà nước huy động nguồn lực trong
nhân dân ngày càng nhiều hơn để phục vụ cho sự nghiệp giữ nước. Đặc biệt
chế độ “ngụ binh ư nông” (binh gửi trong nông) được áp dụng trong suốt thời
Lý, Trần, Lê là một phương thức vừa kết hợp kinh tế với quốc phòng, vừa đảm
bảo tập trung cho nông nghiệp, vừa duy trì một lực lượng quân đội thường trực
cần thiết trong thời bình, vừa có thể huy động tối đa trai tráng, nhân lực khi có
chiến tranh. Vì vậy, nhân dân ai cũng là binh. Đi đôi với vũ trang toàn dân,

quân đội của quốc gia Đại Việt thời Lý, Trần, Lê và Tây Sơn được xây dựng
hùng hậu, chính quy, có tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chu đáo, kỷ luật nghiêm,
sẵn sàng xả thân vì đất nước. Bên cạnh quân triều đình gồm bộ binh, kỵ binh,

1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T3, tr. 216.

6


tượng binh, thủy binh còn có quân của các địa phương và các đội dân binh ở
làng xã. Quân đội nằm trong dân, mang tính chất nhân dân sâu sắc.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc.
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc về xây dựng
quân đội cốt tinh, mấu chốt là rèn luyện đội ngũ cán bộ giỏi, trung thành.
Để xây dựng quân đội mạnh, dân tộc ta đặc biệt quan tâm giải quyết hai
khâu then chốt. Thứ nhất, tuyển chọn và rèn luyện đội ngũ tướng lĩnh có năng
lực chỉ huy, tài trí, trung thành, quân sĩ được huấn luyện tốt, đánh giặc giỏi.
Thứ hai, giáo dục sự đoàn kết nhất trí, chung sức, chung lòng của tướng sĩ để
có được “đội quân một lòng như cha con”1.
Kế thừa và phát huy truyền thống xây dựng quân đội “cốt tinh” của cha
ông, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng quân đội có chất lượng cao, vững
mạnh toàn diện.
Để xây dựng quân đội mạnh, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ, phải luôn phát triển cái trí, dũng, liêm, trung của quân giải phóng.
Phát triển quan điểm làm tướng phải lấy “thông suốt cổ kim làm giỏi”,
Hồ Chí Minh cho rằng người cán bộ phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức,
kinh nghiệm để thông hiểu toàn diện, để huấn luyện quân đội, chỉ huy đội
viên đánh thắng giặc.

Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống chung sức, chung
lòng, “đồng cam cộng khổ” giữa cán bộ và chiến sĩ.
Phát huy truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
việc giáo dục tinh thần đoàn kết gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ trong quân
đội. Người căn dặn cán bộ và chiến sĩ cần phải đoàn kết vì đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn giành thắng lợi.
Như vậy, trong lĩnh vực xây dựng lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh đã
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc về vũ trang
toàn dân, về xây dựng quân đội sâu đậm tính chất nhân dân, quân cốt tinh trên
cơ sở chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ tài trí, mưu lược, trung thành,
quân sĩ thiện chiến; tăng cường giáo dục mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa cán
bộ và chiến sĩ, chung sức chung lòng thực hiện nhiệm vụ. Truyền thống xây
dựng lực lượng vũ trang đặc sắc của dân tộc là nguồn gốc có vị trí đặc biệt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt
Nam.

1

Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H., 1985, T II, tr. 77.

7


I.1.3. Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự thế giới về
xây dựng lực lượng vũ trang
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt
Nam không chỉ có nguồn gốc từ học thuyết quân sự Mác - Lênin và kết tinh
những giá trị truyền thống tốt đẹp về xây dựng lực lượng vũ trang dân tộc, mà
còn có yếu tố tinh hoa quân sự thế giới.
Tuổi thiếu niên, Hồ Chí Minh tiếp cận với những yếu tố văn hóa

phương Tây qua trường học Việt - Pháp, trước hết là tư tưởng “tự do, bình
đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản đương thời đang lên đã nêu cao để tập hợp
lực lượng nhằm lật đổ chế độ phong kiến.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sinh sống và hoạt
động ở những trung tâm văn minh đương thời phương Tây. Tại Pari - thủ đô
nước Pháp - Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều vấn đề quân sự của cách mạng tư
sản Pháp, của Công xã Pari và quân đội nước Pháp lúc đó. Hồ Chí Minh ca
ngợi tấm gương anh dũng chiến đấu của quần chúng lao động. Về sau, trong
tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927), Người viết: “Hồi ấy lính cách mệnh gọi
là “lính không quần”, người không có nón, kẻ không có giày, áo rách quần tua,
mặt gầy bụng đói. Thế mà lính ấy đi đến đâu thì lính ngoại quốc thua đến đấy,
vì họ gan liều hy sinh quá, không ai chống nổi” 1. Nghiên cứu quân đội của đế
quốc Pháp, Hồ Chí Minh nhận thấy quân đội đó có cơ cấu “non một nửa” là
những người bản xứ: “Trong số 150 trung đoàn của quân đội Pháp, có 10 trung
đoàn da trắng ở các thuộc địa, 30 trung đoàn người châu Phi và 39 trung đoàn
người bản xứ ở các thuộc địa khác”2. Đế quốc Pháp sử dụng binh lính thuộc địa
để đàn áp cách mạng ở cả chính quốc lẫn cách mạng ở thuộc địa. Từ việc
nghiên cứu này, năm 1923, bài báo với nhan đề Đội quân chống cách mạng là
kết quả nghiên cứu của Hồ Chí Minh về một loại hình tổ chức quân đội - quân
đội của chủ nghĩa đế quốc, thực dân góp phần làm phong phú vốn hiểu biết của
Hồ Chí Minh, đặt cơ sở cho việc tuyên truyền địch vận về sau.
Hồ Chí Minh còn tìm hiểu về nhiều danh tướng của nước Pháp, nước
Anh. Về danh tướng Pháp Napôlêông, Hồ Chí Minh viết: “Trong chiến lược
của Nã Phá Luân có nói: “Rút một ngày (12 giờ) thành 10 giờ để mà tiến quân
và tác chiến rồi sau sẽ nghỉ ngơi””3. Khi đề cập đến yếu tố này, Hồ Chí Minh
nhắc đến chiến lược của Thủy sư đô đốc người Anh: “Một danh tướng về hải
quân là Nelson cũng có nói: “Giờ phút là đồng chí yêu quý của ta. Ta nên quý
1
2
3


Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 2, tr. 272.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 2, tr. 201.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 4, tr. 231.

8


trọng người đồng chí ấy hơn những đồng chí khác””4. Từ đó Hồ Chí Minh lưu
ý quân đội ta yếu tố thời gian trong tác chiến, mối quan hệ giữa yếu tố đó với
cơ mưu, phải vừa nhanh vừa có mưu mới giành được thắng lợi.
Hoạt động nhiều năm trên quan hệ cách mạng tháng Mười, Hồ Chí
Minh có điều kiện nghiên cứu về Hồng quân Xô Viết và rút ra bốn ưu điểm
của Hồng quân mà ta cần học tập.
Thứ nhất, Hồng quân Xô Viết “biết phép chiến đấu”, biết phát huy cao độ
tinh thần yêu nước của quân sĩ và biết sử dụng tốt vũ khí nên giành được thắng
lợi, hơn nữa còn biết “tạo ra những phép đánh mới” nên là quân đội vô địch.
Thứ hai, Hồng quân Xô Viết được hưởng một nền văn hóa giáo dục tốt
đẹp. Ở chiến trường am hiểu kỹ thuật như pháo thủ, làm chủ vũ khí, phương
tiện chiến đấu. Ở hậu phương, “hiểu biết được quân sự tinh vi” nên họ phát
huy được tài năng và lập chiến công oanh liệt. Từ đó, Người rút ra kết luận:
một đội quân đã được huấn luyện theo lối mới, lại có trình độ giác ngộ chính
trị cao, tất nhiên làm tròn được nhiệm vụ.
Thứ ba, Hồng quân Xô Viết là đội quân có mối quan hệ đặc biệt giữa
quân và dân. Quân, dân một trí. Người nêu rõ: Quân và dân hợp tác triệt để là
một đặc điểm nổi bật trong quân đội Xô Viết.
Thứ tư, Hồng quân Xô Viết có những vị chỉ huy tối cao sáng suốt, đủ
đức, tài. Nhờ đó, Hồng quân Xô Viết lập được nhiều chiến công, hoàn thành
nhiệm vụ được giao…
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách

mạng Việt Nam là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
quân sự Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, kết hợp với kế thừa, phát
triển những giá trị tốt đẹp của truyền thống quân sự dân tộc và chắt lọc những
yếu tố tích cực của tinh hoa quân sự thế giới về xây dựng lực lượng vũ trang.
I.2. Nguồn gốc thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang
Ngoài nguồn gốc lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng Việt Nam còn có nguồn gốc thực tiễn. Bởi vì, bất cứ tư
tưởng lý luận nào, ngoài sự kế thừa những tư tưởng trước đó, còn phải bắt
nguồn từ thực tiễn, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và phát triển sáng tạo qua
hoạt động thực tiễn, lý luận nào cũng hình thành từ sự tổng kết lịch sử và tổng
kết thực tiễn.
4

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 4, tr. 232.

9


I.2.1. Thực tiễn thời đại
Năm 1848, với sự ra đời của “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, chủ nghĩa
Mác đã phát triển đến độ chín muồi. V.I.Lênin kế tục tư tưởng và sự nghiệp
của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai đoạn lịch sử mới, đã cùng với Đảng
Bônsêvích lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công. Đây
là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại, mở đầu cho thời đại mới.
Cách mạng tháng Mười Nga là tấm gương, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ
đối với phong trào giải phóng dân tộc. “Từ những người nông dân An Nam
đến người dân săn bắn trong các rừng Đahômây cũng đã thầm nghe nói rằng ở
một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột và
hiện đang tự quản lý lấy đất nước mình mà không cần tới bọn chủ và bọn toàn

quyền”1. Cách mạng Nga đối với cách mạng An Nam như thế nào? Hồ Chí
Minh nêu rõ: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công
và thành công đến nơi… Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, hy sinh, phải thống nhất”2.
Những kết luận ấy phản ánh sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc của cuộc
Cách mạng tháng Mười Nga đối với Nguyễn Ái Quốc, giúp Người xác định
đúng đắn phương hướng chiến lược cách mạng giải phóng thuộc địa, hướng
cách mạng Việt Nam vào con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Quốc tế cộng sản (1919) và bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920) của Lênin đã
tác động sâu sắc, trực tiếp đối với hoạt động và sự hình thành tư tưởng cách
mạng, tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, gia nhập Quốc tế Cộng
sản: “Mỗi đảng cam đoan tiến hành một công tác cổ động có hệ thống trong
quân đội nước mình nhằm chống mọi ách áp bức dân chúng thuộc địa; và mỗi
đảng phải ủng hộ, không những bằng lời nói mà cả bằng hành động, phong
trào giải phóng của các thuộc địa” 3 tác động mạnh đến việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang.
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở các châu lục là căn
cứ thực tiễn để Nguyễn Ái Quốc đúc kết phương pháp cách mạng. Người đặc
biệt lưu ý kết luận của C.Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin về bạo lực là quy
luật phổ biến của cách mạng, nó có thể diễn ra bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng
chiến tranh cách mạng hoặc kết hợp giữa các hình thức đó, lưu ý đến những
1
2
3

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T1, tr. 236.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T2, tr. 280.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T1, tr. 196.


10


quy tắc và nghệ thuật khởi nghĩa được trình bày trong các tác phẩm dưới dạng
khái quát sâu sắc. Người còn quan tâm đến nhiều bài học về khởi nghĩa ở
nước Nga năm 1917 do V.I.Lênin trực tiếp tổ chức và lãnh đạo.
Người theo dõi sát sao các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
dưới các màu sắc khác nhau đang diễn ra lúc đó ở các nước thuộc địa. Qua
khảo sát thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc rút ra hai kết luận quan trọng. Thứ nhất,
theo quy luật, có áp bức thì có đấu tranh. Nhưng các cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước thuộc địa có những nét riêng biệt so với các cuộc đấu tranh giai
cấp ở các nước chính quốc. Họ bị kẻ thù đàn áp khốc liệt. Người viết: “Dân
bản xứ, không nhịn nhục được nữa, vùng lên. Thế là cuộc đàn áp đẫm máu
được tiến hành. Người ta dùng những biện pháp cương quyết. Người ta đưa
quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến; người ta hạ lệnh giới
nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt” 1. Bởi vậy, muốn tổ chức bạo
động, phải có kế hoạch chu đáo, có quyết tâm cao, có tổ chức chặt chẽ. Thứ
hai, trong các cuộc đấu tranh giải phóng ở thuộc địa, lần đầu tiên xuất hiện
một lực lượng mới tham gia. Đó là giai cấp công nhân. Vấn đề đặt ra là phải
tăng cường tình đoàn kết giai cấp cùng chống kẻ thù chung.
Từ những kết luận đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: phương pháp cách
mạng ở các nước thuộc địa bằng khởi nghĩa vũ trang. Khởi nghĩa vũ trang là
một phương thức cơ bản để giành chính quyền thông qua việc lật đổ hệ thống
chính quyền thực dân thuộc địa. Người nhấn mạnh rằng, cuộc khởi nghĩa vũ
trang ở Đông Dương muốn thắng lợi phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa vũ
trang chứ không phải một cuộc nổi loạn, cả dân tộc tiến hành, tất yếu phải dẫn
đến xây dựng lực lượng vũ trang.
Những quan điểm trên của Nguyễn Ái Quốc là cơ sở để Người và
Trung ương Đảng hoàn chỉnh lý luận khởi nghĩa vũ trang, đề ra các chủ

trương, biện pháp tiến hành chuẩn bị, tiến lên khởi nghĩa từng phần, tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước về sau.
I.2.2. Thực tiễn của dân tộc và hoạt động thực tiễn phong phú, đa
dạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- Thực tiễn dân tộc bị ách áp bức thực dân
Giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp biến Việt Nam từ một quốc gia phong
kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng chia cắt Việt
Nam thống nhất thành ba kỳ với ba chế độ chính trị khác nhau để dễ bề cai trị.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T1, tr. 173.

11


Chúng vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy. Năm 1940,
phát xít Nhật vào Đông Dương. Từ đó nhân dân ta bị bóc lột thậm tệ hơn.
Thực tiễn đất nước bị nô lệ, nhân dân ta bi thực dân Pháp bóc lột vô
cùng dã man về mọi phương diện là những cứ liệu xác thực để Nguyễn Ái
Quốc viết hàng loạt bài báo kết án chủ nghĩa thực dân lần lượt công bố trên
các báo: Người cùng khổ, Nhân đạo… và kết tinh trong tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925).
Sau khi phân tích chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy đặc
trưng thống trị của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa là: trực tiếp và bằng bạo
lực. Vì thế theo Người muốn thắng chủ nghĩa đế quốc phải dùng bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Tư tưởng cách mạng bạo lực theo quan điểm Mác - Lênin là một nội
dung cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
- Thực tiễn đời sống và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
Trong các nhà hoạt động cách mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh Nguyễn Ái Quốc là người có cuộc sống và hoạt động thực tiễn đa dạng,

phong phú nhất.
Rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
đi nhiều nước và tiếp xúc với nhiều lớp người thuộc nhiều dân tộc khác nhau.
Qua thực tiễn đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận quan trọng: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu
ái vô sản”1. Tất cả hun đúc ở Người tình cảm cách mạng nồng thắm.
Hoạt động ở nhiều nước trên thế giới không chỉ hun đúc ở Người tình
cảm cách mạng nồng thắm, mà còn bồi bổ cho Người trí tuệ anh minh.
Thời gian dừng chân ở nước Mỹ, Người ở Brúclin, đến chiêm ngưỡng
tượng thần Tự do và đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
Người cũng đã phát hiện ra nghịch lý, đó là sự nghèo đói, bất bình đẳng và
nạn phân biệt chủng tộc.
Ở Pari - thủ đô nước Pháp - Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều vấn đề
trong lĩnh vực quân sự. Người đã tự làm giàu trí tuệ của mình khiến nhiều
người trọng nể. Cụ Phan Châu Trinh vui mừng nhận xét Nguyễn Ái Quốc:
“nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”2.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T1, tr. 266.
Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm Xuân Nam, Bùi Đình Thanh: Lịch sử Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, H., 1985, T II, tr. 207.
2

12


Thời gian sống ở Liên Xô, hoạt động trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn
Ái Quốc có điều kiện bổ sung kiến thức về xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, kinh nghiệm xây dựng các tổ chức quần chúng, kinh nghiệm

xây dựng Hồng quân Xô Viết.
Người cũng đã có nhiều năm hoạt động trên đất nước Trung Quốc. Đặc
biệt trong thời gian hoạt động trong tập đoàn quân thứ 18 của Bát lộ quân và
cùng với Diệp Kiếm Anh tham gia huấn luyện lớp đào tạo cán bộ du kích
Nam Nhạc khóa II từ ngày 20/6/1939 đến ngày 20/9/1939 nên kiến thức quân
sự của Người được bồi bổ thêm, tạo thuận lợi cho Người khi về nước trực tiếp
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng Việt Nam có nguồn gốc hình thành phong phú. Tư tưởng đó của Người
là kết quả của quá trình nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, học thuyết quân sự Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Những vấn đề chủ yếu Người tiếp thu là tư tưởng cách mạng và khoa học kết
tinh trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, từ đó xác định lý tưởng chiến
đấu của lực lượng vũ trang là thực hiện mục tiêu cách mạng do Đảng xác
định. Phép biện chứng (Người gọi là phương pháp làm việc biện chứng) giúp
Người xác định chính xác phương hướng xây dựng, định ra trọng điểm, trọng
tâm trong mỗi thời kỳ, đề ra các giải pháp đúng đắn để thực hiện. Người đặc
biệt quan tâm vấn đề cốt lõi là xây dựng quân đội mang bản chất giai cấp
công nhân, vững mạnh, toàn diện cả về chính trị và quân sự. Tư tưởng đó của
Người còn là kết quả của sự kế thừa và phát triển truyền thống quân sự đặc
sắc của dân tộc. Người đặc biệt kế thừa và phát triển những điểm then chốt:
vũ trang toàn dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Xây dựng quân đội “cốt
tinh” trên cơ sở chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ tài trí, mưu lược,
trung thành, quân sĩ thiện chiến, chăm lo giáo dục sự đoàn kết nội bộ, quân dân chung sức, đồng lòng hoàn thành mọi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, Người còn
hấp thụ những yếu tố tích cực, tinh hoa quân sự thế giới từ những nguồn gốc
khác nhau, từ cổ chí kim, từ đông sang tây để phục vụ cho việc xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Trong ba nguồn gốc đó, học thuyết quân
sự Mác - Lênin là nguồn gốc quyết định bản chất giai cấp, truyền thống quân
sự dân tộc có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngoài ba nguồn gốc lý luận cơ bản
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt
Nam còn có nguồn gốc thực tiễn. Thực tiễn của thời đại, của dân tộc, của bản

thân cuộc sống và hoạt động của Người cũng là nguồn gốc, là cơ sở quan
13


trọng làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang hình
thành, hoàn thiện và phát triển. Các nguồn gốc đó không tác động riêng lẻ mà
tác động trong mối quan hệ biện chứng thông qua sự thâu hóa, chiêm nghiệm
và đúc kết thực tiễn sáng tạo của Người trước nhu cầu xây dựng lực lượng vũ
trang làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc và sự toàn thắng của cách mạng.
Bởi thế, tư tưởng đó của Người có tính chất cách mạng và khoa học sâu sắc.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG

II.1. Khái niệm lực lượng vũ trang
Là lực lượng có tổ chức được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật và
huấn luyện quân sự do một giai cấp nhà nước hoặc một tập đoàn xã hội lập ra
nhằm những mục đích nhất định. Là sản phẩm của chế độ tư hữu phân chia xã
hội thành giai cấp đối kháng. Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu, nguyên tắc
xây dựng, tổ chức, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là do bản chất giai cấp,
đường lối, chính sách của nhà nước, của tập đoàn xã hội tổ chức ra nó quyết
định.
Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang bao gồm Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng quân đội bao gồm hải - lục không quân và biên phòng đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự
điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng công an bao gồm cả lực lượng
an ninh và cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công an. Riêng lực lượng dân
quân tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành
chính địa phương.
Lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng vũ trang do giai cấp công
nhân lãnh đạo, mang bản chất cách mạng và tính nhân dân sâu sắc (từ dân mà
ra, vì dân mà chiến đấu), là bộ phận ưu tú của giai cấp công nhân, được tuyển

chọn làm nồng cốt để đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
II.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng để tiến hành
khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng bao gồm lực lượng chính trị quần chúng
và lực lượng vũ trang nhân dân.
Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Tư tưởng về xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân đã từng bước được phát triển và hoàn
14


chỉnh, từ xây dựng các đội quân du kích, đội tự vệ đến xây dựng “đội chủ lực”;
từ đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” đến “Việt Nam giải phóng
quân” thống nhất lực lượng vũ trang trong cả nước, đến Vệ quốc quân, Quân
đội quốc gia Việt Nam và đến Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, hiện đại.
Người luôn đánh giá cao du kích, dân quân tự vệ, đồng thời cũng đặc
biệt coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù đánh
chớp nhoáng, dù đánh lâu dài, dù giữ thế công hay thế thủ, bao giờ cũng cần
đến lục quân. Vì vậy, về quốc phòng không thể không tổ chức lục quân được.
Trong lục quân, người ta thường chia ra bộ binh, kỵ binh, pháo binh, công binh,
chí trọng binh”1.
Trong một cuộc chiến tranh, đấu tranh quân sự là hình thức chủ yếu nhất.
Bởi vì cuối cùng bao giờ cũng phải thắng địch bằng quân sự, phải đập tan những
đội quân nhà nghề là công cụ chủ yếu của kẻ xâm lược. Trên tiền tuyến cũng
như ở sau lưng địch, phải đánh địch ở khắp mọi nơi, kết hợp chiến tranh du kích
với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị nhằm tiêu hao sinh lực địch và phương tiện
chiến tranh của chúng. Phải vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang làm nồng cốt, xây dựng bộ đội chủ lực mạnh để quyết định chiến trường.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo, bồi dưỡng ý thức chính trị và
xây dựng bản chất cách mạng cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Người
khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng
lại có hại”2. Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì nhân dân mà
chiến đấu; quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, trung với Đảng; mục tiêu
chiến đấu của quân đội là “vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội”. Người hết
sức chăm lo đến công tác xây dựng Đảng trong quân đội, thực hiện nguyên
tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện đối với lực lượng vũ trang
nhân dân, đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu lên một quan điểm hết sức quan trọng, đó là quan điểm: “Người trước
súng sau”. Nghĩa là vũ khí cần thiết, không thể thiếu trong việc xây dựng lực
lượng vũ trang nhưng điều quyết định là con người cầm vũ khí. Chính vì vậy,
Người thường xuyên chăm lo, giáo dục bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh
chính trị, có tri thức quân sự, có trình độ văn hóa, có sức khỏe, có năng lực
hoàn thành nhiệm vụ của một đội quân chiến đấu, sản xuất và công tác, vì
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 4, tr. 290.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 6, tr. 318.

15


nhân dân mà phục vụ. Trong khi nêu cao vai trò của con người, Người không
coi nhẹ vai trò của vũ khí, kỹ thuật. Người luôn lo lắng trang bị vũ khí cho bộ
đội ngày càng tốt hơn, quan tâm xây dựng các binh quân chủng hiện đại: pháo
binh, công binh, thông tin, phòng không, không quân, hải quân.
Đời sống vật chất của bộ đội cũng luôn được Người hết sức quan tâm với

tinh thần “thực túc, binh cường”. Người coi đảm bảo hậu cần vật chất, kỹ thuật
cho bộ đội, cho tiền tuyến là hết sức quan trọng, là yếu tố quyết định chiến
thắng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ
quân sự vì: “Tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi thì nước mạnh. Tướng xoàng
thì nước hèn”1. Người nêu ra sáu yêu cầu đối với người làm tướng: “Trí Dũng - Nhân - Tinh - Liêm - Trung”. Đó là những yêu cầu cơ bản đối với
người chỉ huy quân sự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định phải không ngừng nâng cao
chất lượng quân đội, sức chiến đấu của quân đội. Bộ đội phải tinh, sức chiến
đấu phải mạnh. Người căn dặn: cán bộ phải “học tư tưởng chiến lược, chiến
thuật, học cách dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu” 2,
“toàn quân ta phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hóa”3.
Ngay từ những ngày đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn
đề tổ chức lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Người đã lập Bộ Tổng tham mưu với
nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện quân đội cho giỏi, tổ chức nắm địch nắm ta rõ
ràng, bày mưu kế khôn khéo để tổ chức chỉ huy thông suốt. Về công tác chính
trị, lúc đầu lập Cục Chính trị, về sau là Tổng cục Chính trị trong quân đội. Về
công tác hậu cần, lúc đầu lập các cơ quan quân nhu, tài vụ, tiếp đó đổi thành
Tổng cục cung cấp về sau là Tổng cục Hậu cần để chăm lo công tác bảo đảm
đời sống vật chất và trang bị vũ khí, khí tài, kỹ thuật cho quân đội.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang là một trong hai lực
lượng cơ bản trong đấu tranh cách mạng, “là lực lượng nồng cốt trong khởi
nghĩa toàn dân” và “chiến tranh nhân dân”. Do vậy, việc tổ chức và xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân theo Hồ Chí Minh là một điều tất yếu khách quan
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Để tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Hồ Chí Minh và
Đảng ta coi trọng tuyên truyền, vận động tổ chức quần chúng. Những năm 1941
- 1944, Người đã trực tiếp tổ chức một số đội vũ trang, trong đó có đội vũ trang
1
2

3

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 3, tr. 529.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 6, tr. 319.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 2000, T 8, tr. 163.

16


Cao Bằng (11/1941). Yêu cầu đối với đội vũ trang lúc này là vũ trang tuyên
truyền để đi vào quần chúng, gây thanh thế cách mạng trong quần chúng, mở
rộng căn cứ cách mạng. Phương châm xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ
trang tập trung là đi vào dân, dựa vào dân, dựa vào căn cứ làm chỗ đứng.
Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân: “Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự,
nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên theo chỉ thị mới
của đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số
cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ
khí để lập ra đội chủ lực” 1. Người nêu rõ thêm: “Về chiến thuật, vận dụng lối
đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh,
khứ vô tung”2.
Tư tưởng về sự cần thiết phải tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang
cho cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng trở
thành hiện thực. Lực lượng vũ trang ta ra đời đã hỗ trợ đắc lực cho quần
chúng khởi nghĩa từng phần thắng lợi, bảo vệ khu giải phóng, bảo vệ cơ quan
lãnh đạo và lãnh đạo cách mạng… cùng toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến, đập tan
xiềng xích nô lệ, lập nên nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á,
là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu trong công cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi, đưa dân tộc ta tiến vào thời kỳ xây dựng

chủ nghĩa xã hội trên cả nước, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả của
Đảng và Nhà nước ta đối với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
II.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là
một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng Việt Nam.
II.3.1. Khái niệm Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt của Đảng,
thuộc quyền thống lĩnh của Chủ tịch nước và chỉ huy điều hành của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng.
Là quân đội kiểu mới - quân đội của nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, là lực lượng nồng cốt của lực lượng vũ
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 3, tr. 507.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 3, tr. 507.

17


trang nhân dân Việt Nam trong giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Mang
bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân, từ dân mà ra, vì
dân mà chiến đấu với một mục tiêu nhất quán là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Quân đội nhân dân Việt Nam gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
bộ đội biên phòng. Có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, có các quân
binh chủng: hải quân - phòng không - không quân. Binh chủng đặc công, binh
chủng pháo binh…

III.3.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam
III.3.2.1. Quân đội do Đảng tổ chức lãnh đạo, là quân đội của dân, do
dân và vì dân
Trung thành với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về tổ chức quân
sự của giai cấp vô sản, vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về xây dựng
Hồng quân công nông vào thực tiễn cách mạng nước ta; Hồ Chí Minh khẳng
định Đảng phải tổ chức và lãnh đạo lực lượng vũ trang.
Năm 1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đề cập
vấn đề quan trọng: “Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Đến
“Chính cương vắn tắt” do Người khởi thảo trình hội nghị thành lập Đảng
3/2/1930 đã khẳng định phải “tổ chức quân đội công nông” 1. Luận cương
chính trị tháng 10/1930, Đảng ta nêu rõ “phải vũ trang cho công - nông”, “lập
quân đội công - nông” và “tổ chức tự vệ công - nông”.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang là một công cụ của một giai cấp để
tiến hành đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Trong sự nghiệp tổ chức xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, việc thấm nhuần quan điểm giai cấp và đấu
tranh giai cấp là vấn đề sinh tử, vấn đề quyết định hàng đầu. Vì thế, lực lượng vũ
trang cách mạng của nhân dân ta nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng mới bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn trung thành với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân; mới có phương hướng chính trị đúng
đắn, luôn là nồng cốt trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối cách mạng
của Đảng và trong mọi hoàn cảnh của cách mạng vẫn tỏ ra vững vàng.
Quân đội do Đảng tổ chức ra nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Do vậy quân đội tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 3, tr. 1.


18


của Đảng. Nếu Đảng không lãnh đạo thì quân đội sẽ không phục vụ, bảo vệ
lợi ích giai cấp.
Quân đội nhân dân Việt Nam là sản phẩm (kết quả) của phong trào đấu
tranh cách mạng của quần chúng, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng ra đời nhằm thức tỉnh quần chúng, tổ chức ra quân đội để đấu tranh, bảo
vệ lợi ích nhân dân lao động. Như vậy quân đội do dân nuôi dưỡng, do dân
sinh ra, bảo vệ lợi ích của dân nên quân đội là quân đội của dân, do dân và vì
dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn quân đội thật sự là quân đội của dân, do dân,
vì dân thì phải xây dựng quân đội mang đậm tính chất nhân dân.
Muốn xây dựng quân đội mang đậm tính chất nhân dân thì:
Thứ nhất, phải xây dựng quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nhân
dân nói chung trên cơ sở phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là “cha mẹ” của bộ đội. Sức
mạnh của lực lượng vũ trang bắt nguồn từ sức mạnh vô địch của quần chúng.
Mọi sự tiến bộ, trưởng thành của lực lượng vũ trang đều do sự ủng hộ tinh thần,
nhân lực, tài lực của nhân dân mà có. Không có phong trào cách mạng quần
chúng thì không có lực lượng vũ trang rộng khắp. Ngược lại, không có lực lượng
vũ trang làm hậu thuẫn, bảo vệ thì phong trào đấu tranh của nhân dân khó phát
triển. Và Nguyễn Ái Quốc là người giải quyết rất thành công mối quan hệ này.
Thứ hai, quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung luôn luôn
nhất quán mục tiêu chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhân dân là đối tượng
phục vụ của quân đội và điều đó thể hiện ở hai nhiệm vụ: nhiệm vụ thứ nhất là
bảo vệ dân, giải phóng dân khỏi ách nô lệ; nhiệm vụ thứ hai là giúp dân “xây
dựng một đời sống tự do, sung sướng hơn”. Hai nhiệm vụ này có quan hệ hữu cơ
với nhau, đòi hỏi quân đội nỗ lực phấn đấu thực hiện đầy đủ, vô điều kiện. Hết
lòng phục vụ nhân dân là tiêu chuẩn phản ánh bản chất cách mạng của lực lượng

vũ trang. Rời khỏi tiêu chuẩn đó quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nói
chung sẽ tự cắt đứt quan hệ với dân và do đó sẽ như con thơ lìa nguồn sữa mẹ.
Thứ ba, phải giáo dục quân đội có kỷ luật nghiêm ngặt. Người căn dặn
quân đội có 5 điều nên làm và 5 điều không nên làm trong mối quan hệ với quần
chúng. Năm điều nên làm là: 1. Giúp dân những công việc thiết thực hàng ngày;
2. Tìm hiểu và tôn trọng phong tục tập quán; 3. Thạo tiếng địa phương, dạy hát,
dạy chữ, gây cảm tình tốt với dân; 4. Tùy nơi, tùy lúc mà tuyên truyền cho thích
hợp; 5. Làm cho dân thấy mình là đúng đắn, chăm công việc, trọng kỷ luật, do
đó dân càng tin yêu và giúp đỡ. Năm điều nên tránh là: 1. Tránh việc gì thiệt hại
19


đến dân, tránh làm bẩn, làm hỏng nhà cửa, ruộng vườn của dân; 2. Tránh năn nỉ
mua hoặc mượn cái gì đó cho bằng được; 3. Tránh sai lời hứa; 4. Tránh phạm
đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân; 5. Tránh lộ bí mật.
Thứ tư, phải tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Quân đội
không được đặt mình ra ngoài nhân dân hoặc trên nhân dân. Trong tác phẩm
“Cách đánh du kích”, Người nêu rõ: muốn đánh du kích cần phải có dân chúng
tham gia và giúp sức. Du kích như cá, dân chúng như nước, cá không có nước
thì cá chết, du kích không có dân chúng thì du kích chết. Quân du kích đánh
Tây, Nhật để bảo vệ dân chúng, vậy dân chúng phải hết sức ủng hộ du kích.
Còn quân du kích trong bất cứ tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa
vào dân để tồn tại, hoạt động và trưởng thành.
Như vậy, xây dựng bản chất công nhân, tính chất nhân dân của quân đội
là vấn đề cốt lõi, quan trọng hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang. Người khẳng định: Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó
là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.
II.3.2.2. Quân đội nhân dân Việt Nam phải được xây dựng vững mạnh
toàn diện trên cơ sở vững mạnh về chính trị
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, từ đặc điểm về tổ chức, hoạt

động và tính chất, nhiệm vụ của quân đội nên đòi hỏi quân đội phải được xây
dựng vững mạnh toàn diện.
Hồ Chí Minh xác định rằng: “Tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật
khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng”1. Còn “chính trị khá nhưng quân sự
kém, hoặc chính trị, quân sự đề khá nhưng thân thể yếu đuối thì cũng không thể
thắng được”2. Do vậy khi xây dựng quân đội phải coi trọng xây dựng sức mạnh
toàn diện, cả về bản chất cách mạng và khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu thắng lợi: “Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn luôn phát triển, cái kỷ
luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật cường tất
thắng, cái đạo đức: trí - dũng - liêm - trung”3. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và bảo vệ đất nước đòi hỏi lực lượng vũ trang nhân dân ta phải đảm bảo
cả số lượng và chất lượng ngày càng cao, quân đội luôn luôn có đủ sức mạnh và
khả năng sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi. Ngay từ Hội nghị Trung ương
tháng 4/1952, Hồ Chí Minh đã nêu: “Muốn cho quân đội ta quyết chiến, quyết
thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến
1
2
3

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 5, tr. 393.
Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H., 1975, tr. 184.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 5, tr. 330.

20


thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững
chắc, lập trường của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”1.
Cũng theo Hồ Chí Minh, quân đội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, quá trình tổ chức xây dựng đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, thì sự vững

mạnh toàn diện chỉ có thể có được trên cơ sở xây dựng vững mạnh về chính trị,
chính trị quyết định quân sự, quân sự phục tùng chính trị. Luận điểm sáng tạo
này xuất phát từ lý luận Mác - Lênin về vai trò của yếu tố chính trị tinh thần.
Theo Lênin yếu tố chính trị, tinh thần quyết định nhất đến thắng lợi chiến tranh:
“Suy cho cùng thắng lợi hay thất bại của mọi cuộc chiến đấu đều phụ thuộc vào
trạng thái tâm lý tinh thần của kẻ ở chiến trường” (Lênin). Xuất phát từ thực tiễn
xây dựng quân đội ở nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến nghèo nàn,
lạc hậu. Vì thế quân đội ta không được trang bị vũ khí hiện đại mà phải đánh
giặc bằng gậy gộc, giáo mác. Muốn đánh thắng giặc phải phát huy thế mạnh của
ta là yếu tố chính trị tinh thần: truyền thống dân tộc, lòng yêu nước…
Vì lẽ trên, Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn xây dựng lực lượng vũ
trang phải xây dựng quân đội chính trị trước. Người luận giải: “Muốn có đội
quân vũ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị
trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng
đông. Như ở ta, muốn đánh Pháp, Nhật thì ai là người vác súng? Ta phải có
quần chúng giác ngộ chính trị vác súng thì mới đánh thắng được”2.
Lực lượng chính trị theo Hồ Chí Minh gồm: Mọi người dân Việt Nam
được giác ngộ, được tổ chức trong các đoàn thể cách mạng, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng cơ bản nhất, nền tảng của cách
mạng và là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó,
Hồ Chí Minh đã coi trọng trước hết là việc thức tỉnh dân chúng, làm cho “ai ai
cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm”, phải “đoàn kết nhau mà làm”. Phải có
quần chúng giác ngộ chính trị đông đảo, tự nguyện, tự giác đứng vào hàng
ngũ để từ đó xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cơ sở tiến lên xây
dựng đội quân chủ lực là một điểm mới được xác định trong lý luận và vận
dụng sáng tạo trong thực tiễn. Kế tiếp Hồ Chí Minh chủ trương thành lập mặt
trận Việt Minh, tổ chức quần chúng vào các hội cứu quốc do Đảng lãnh đạo.
Nông dân phải vào “Nông dân cứu quốc hội”, thanh niên phải vào “Thanh
niên cứu quốc hội”, phụ nữ phải vào “Phụ nữ cứu quốc hội”… Và trên thực


1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 4, tr. 510.
Vũ Anh: Bác Hồ, Nxb Văn học, H., 1975, tr. 148.

21


tế đã hình thành một lực lượng chính trị mạnh mẽ tập hợp trong các tổ chức
cứu quốc.
Tháng 12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập.
Hồ Chí Minh xác định nguyên tắc hoạt động của đội là: chính trị trọng hơn
quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Nhờ vậy lực lượng chính trị phát
triển nhanh chóng trong khởi nghĩa từng phần, trở thành lực lượng to lớn và
quyết định thắng lợi Tổng khởi nghĩa.
Trong khi xây dựng quân đội, Hồ Chí Minh luôn quán triệt quan điểm
“Người trước súng sau”, “Quân sự mà không có chính trị như cây không có
gốc, vô dụng mà có hại”.
Xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng về chính trị
theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với quân đội, làm cho
quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục tiêu lý tưởng của cách mạng,
thật sự là công cụ sắc bén của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người dạy:
“Trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề
nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của
nước ta”1. Trong tuyên bố về chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời, Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Thống nhất các đội vũ trang dưới quyền chỉ huy của Chính
phủ, các đảng phái không được có quân đội riêng”2. Lực lượng vũ trang nhân
dân ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, do vậy trong xây dựng vững

mạnh về chính trị đòi hỏi phải xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết với
nhân dân, “phụng sự nhân dân”, “vì nhân dân quên mình”, biết dựa chắc vào dân
để phát huy sức mạnh nơi dân. Bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân du kích đều phải bám lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là
làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kỳ việc gì
khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi”.
II.3.2.3. Quân đội nhân dân là đội quân chiến đấu, đội quân công tác
và đội quân sản xuất
Kế thừa truyền thống và kinh nghiệm tổ chức quân sự của dân tộc, vận
dụng phát triển sáng tạo nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh
xác định chức năng của quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung là
đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất.
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 4, tr. 510.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 4, tr. 411.

22


Với chức năng chủ yếu là làm nồng cốt cho toàn dân khởi nghĩa và tiến
hành chiến tranh nhân dân phải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng
và chính quyền Nhà nước, quân đội trước hết phải làm tròn nhiệm vụ chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi. Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ”. Người nêu rõ: “Bộ đội là người đánh giặc để giữ gìn tài sản và tính
mệnh cho đồng bào, để tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”1.
Quân đội ta từ dân mà ra vì thế phải vì dân mà chiến đấu.

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước ta, với nền kinh
tế còn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân phần đông là nông dân trình độ hiểu biết
mọi mặt còn hạn chế, bộ đội ta chủ yếu là con em của nông dân… Vì thế,
cùng với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu, các lực lượng vũ trang nhân
dân phải thực hiện tốt việc tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng,
tích cực tăng gia sản xuất nâng cao đời sống, giúp dân sản xuất. Hồ Chí Minh
nêu vấn đề: “Tổ chức du kích khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi”. Tháng
7/1952, trong Hội nghị chiến tranh du kích, Người yêu cầu: “Bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương và du kích không nên chỉ biết đánh. Biết đánh là tốt nhưng
chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức
là chỉ biết có một mặt”. Người cũng thường xuyên giáo dục và nhắc nhở:
“Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội… phải làm cho bộ đội được dân
tin, dân phục, dân yêu. Muốn như thế thì phải đốc thúc bộ đội siêng giúp”2.
Quân đội ta là một đội quân công tác vì điều kiện nước ta là một nước
lạc hậu, dân trí thấp, do vậy quân đội phải tích cực tham gia vào việc tuyên
truyền vận động nhân dân. Mặt khác, quân đội ta so với quân đội các nước
xâm lược thì nhỏ, yếu về trang bị vũ khí, muốn thắng địch ta phải dựa vào
dân. Do vậy, quân đội phải làm tốt chức năng tuyên truyền, vận động.
Quân đội ta xây dựng trên một nền tảng nghèo nàn nên quân đội phải
tham gia lao động sản xuất nhằm cải thiện đời sống quân đội và giảm chi phí
cho quốc phòng.
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng luôn làm tròn chức năng, nhiệm vụ vừa
chiến đấu, vừa tuyên truyền vận động nhân dân, vừa tham gia sản xuất, xây
dựng kinh tế, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 5, tr. 649.

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H., 1995, T 5, tr. 393.

23


III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là
một bộ phận quan trọng trong di sản tư tưởng quân sự của Người. Tư tưởng
đó có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với việc xây dựng lực lượng vũ
trang và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Quán triệt và vận dụng tư tưởng của
Người để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh là vấn đề hết sức quan
trọng góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân hiện nay cần chú ý một số vấn đề sau.
III.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực
lượng vũ trang
Đất nước ta đã độc lập thống nhất, đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Cuộc cuộc xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra
bước chuyển biến mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tạo đà cho đất
nước phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản để xây dựng lực lượng vũ
trang vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức mới. Cuộc
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra hết sức gay go, quyết liệt và
phức tạp. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tuy đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng những mặt trái của cơ chế thị trường
đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhận thức tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ

trong lực lượng vũ trang ta. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ tăng cường
chống phá nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong đó
Việt Nam là một trọng điểm. Thực hiện mục tiêu đó, chúng đang ráo riết thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ở nước ta. Một trong những mũi nhọn mà
kẻ thù tập trung vào chống phá là các lực lượng vũ trang nhân dân. Bằng mọi
thủ đoạn chúng hòng thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” và lực lượng vũ
trang… Trong khi đó, để đáp ứng với tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa có những yêu cầu và nội dung mới: Bảo vệ độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ gắn chặt với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ an ninh chính trị của đất nước. Chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu… Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
24


gắn với tình hình thực tiễn trên đòi hỏi phải giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, hơn bao giờ hết lực lượng vũ trang ta
phải luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng trong bất kỳ tình huống nào
nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang thực hiện được vai trò là lực lượng trụ
cột bảo vệ hòa bình, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Củng cố và tăng cường thế trận
chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tiếp tục thực
hiện tốt ba chức năng, thực sự là đội quân chính trị tin cậy của Đảng và nhân
dân. Chống mọi biểu hiện mơ hồ trước những luận điệu chiến tranh tâm lý che
đậy âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch,
đứng đầu là đế quốc Mỹ. Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng ta chỉ rõ: “Phải
giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, đấu
tranh làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và
các loại tội phạm khác, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc
những thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới là một

nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
III.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, với lực lượng vũ
trang cách mạng ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng vũ
trang đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, thường xuyên phải đối phó với thế
lực đế quốc thực dân có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta nhiều lần thì
vấn đề cơ bản, cốt yếu nhất là phải coi trọng xây dựng vững mạnh về chính
trị, phải “người trước súng sau”, “chính trị trọng hơn quân sự”. Nhờ tư tưởng
và sự lãnh đạo đúng đắn đó của Hồ Chí Minh và Đảng ta mà lực lượng vũ
trang nhân dân ta luôn luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân, “chiến đấu, hy sinh quên mình vì dân, vì nước”.
Trong điều kiện cách mạng hiện nay, khi mà các thế lực thù địch, đứng
đầu là đế quốc Mỹ đang tìm mọi cách công kích ta từ nhiều phía, dùng chiến
lược “diễn biến hòa bình” để phá ta từ bên trong, đặc biệt là về chính trị tư
tưởng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, các lực lượng vũ trang quân
đội với Đảng và Nhà nước, làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng chiến đấu của các
lực lượng vũ trang ta… Trong khi đó, lực lượng vũ trang ta đang phải cùng toàn
Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh rất nặng nề “… nâng cao
chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
1

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H., 1991, tr. 85 - 86.

25


×