VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌCLÂM
VIỆN
KHOA
HỌC
XÃ HỘI
VIỆN HÀN
KHOA
HỌC
XÃ HỘI
VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ NGỌC TRÂM
LÊ THỊ NGỌC TRÂM
QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
QUYỀN
HÀNH
Ở VIỆT
Chuyên
ngành:PHÁP
Luật Hiến
pháp NAM
và LuậtHIỆN
Hành NAY
chính
Mã số: 62 38 01 02
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 62 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.
Nguyễn
Hồi
NGƯỜI1.
HƯỚNG
DẪN
KHOAThị
HỌC:
PGS.TS.Nguyễn
Tô VănThị
Hòa
1.2.PGS,TS.
Hồi
2. PGS,TS. Tô Văn Hòa
HÀ NỘI - năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu và báo cáo trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Thị Ngọc Trâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............................................................................................................ 9
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước............................................... 9
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền hành pháp ................................................. 14
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành pháp với các quyền
khác ...................................................................................................................................... 19
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .............................. 21
CHƢƠNG 2: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP ........... 26
2.1. Khái niệm quyền lực và quyền lực nhà nước ............................................................... 26
2.2. Nội dung quyền hành pháp và mối quan hệ của quyền hành với quyền lập pháp, quyền
tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước .......................................................................... 32
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP Ở
VIỆT NAM ......................................................................................................................... 72
3.1. Khái quát thực trạng về tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam trước khi có
Hiến pháp năm 2013 ............................................................................................................ 72
3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp từ năm 2014 tới nay ........................ 103
3.3. Thực tiễn thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay ...................................... 125
CHƢƠNG 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN
HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỚI ........................................................... 132
4.1. Định hướng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam giai đoạn tới ............... 132
4.2. Giải pháp tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam giai đoạn tới ................... 135
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..….. 159
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt
Nam và Điều 2 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân…. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”. Việc xác định cụ thể các chủ thể thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền.
Có thể nói ở Việt Nam, từ sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ
sung tên gọi “quyền hành pháp” mới chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp, thể
hiện sự đổi mới trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về việc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước. Quan điểm trên tiếp tục được phát triển thêm trong Hiến pháp
năm 2013 qua quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp” (Điều 94
Hiến pháp năm 2013). Những thay đổi đó có ý nghĩa như thế nào? Thực chất
“Quyền hành pháp” là gì? Đây là những điều mà các học giả và các cơ quan có
thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu khi triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013
trong thực tế.
Trong các Hiến pháp Việt Nam trước đây, dường như các nhà làm Hiến pháp
nhấn mạnh nhiều hơn đến “quyền lập pháp”, đó là sự phản ánh của tư duy truyền
thống, theo đó, Hiến pháp dường như “quên” đề cập đến thuật ngữ “quyền hành
pháp” và “quyền tư pháp”. Đây là điều không dễ giải thích một cách thấu đáo.
Trước khi được đề cập đến trong Hiến pháp, thuật ngữ “quyền hành pháp” đã được
nhắc đến trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khi đề cập đến phương hướng tổ
1
chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước với nội dung “tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền
lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung
ương. Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với
sự phân công rành mạch ba quyền đó”.
Từ góc độ lịch sử, mặc dù thuật ngữ “quyền hành pháp” đã được đề cập đến
trong văn kiện của Đảng từ năm 1991 đến nay, song nội dung của quyền hành pháp
như thế nào thì lại chưa được giải thích một cách thấu đáo và cụ thể trong các văn
kiện chính thức của Việt Nam. Đồng thời, quyền hành pháp chưa được nghiên cứu
một cách cơ bản. Nhiều vấn đề thuộc quyền hành pháp chưa được nghiên cứu sâu
sắc, đầy đủ hoặc còn bỏ ngỏ hay xuất hiện các vấn đề mới cần nghiên cứu như: nội
dung của quyền hành pháp, chức năng, nhiệm vụ của hành pháp, mối quan hệ giữa
quyền hành pháp với quyền lập pháp và quyền tư pháp, đánh giá thực tiễn tổ chức
quyền hành pháp, các vấn đề trong việc hoàn thiện tổ chức và vận hành quyền hành
pháp. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, khi mà vai
trò và vị thế của quốc gia cũng như việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
công dân phụ thuộc khá nhiều vào khả năng quản lý điều hành năng động, sáng tạo,
nhạy bén và quyết đoán của hành pháp.
Thêm vào đó, với sự bùng nổ mạnh mẽ của cuộc cách mạng lần thứ 4 (cách
mạng 4.0), sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật, trình độ nhận thức và tổ chức xã hội
cùng với sự chuyển dịch trong quan hệ giữa nhà nước và xã hội đã làm cho nhà
nước dịch chuyển mạnh mẽ trong mô hình, phương thức quản trị nhà nước. Đó là
thực tế khi các nhà hành pháp ngày càng gắn chặt và tác động tích cực vào quá trình
hình thành đường lối chính trị, chính sách, hoạt động lập pháp.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự thay đổi vể tổ chức và hoạt
động của Nhà nước. Nhà nước dân chủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã và đang
được xây dựng, chính phủ kiến tạo, phục vụ, hành động liêm chính được thể hiện và
chuyển hướng rõ ràng. Giờ đây, bộ máy quản lý nhà nước không chỉ là cơ quan
chấp hành mà ngày càng xác lập rõ hơn, đây đủ hơn trách nhiệm giải trình trước
2
nhân dân. Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực lập pháp, hành pháp, tư
pháp được Hiến pháp giao cho Quốc hội, Chính phủ, Toà án thực hiện. Đây là
những điểm tiến bộ của Việt Nam trong cả nhận thức và tư duy. Điều đó ít nhiều
làm thay đổi diện mạo quản trị quốc gia ở nước ta.
Trong lĩnh vực hành pháp, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các
phương diện từ cải cách thể chế hành chính (mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành
chính), cải cách bộ máy hành chính nhà nước, cải cách tài chính công đến xây dựng,
đào tạo đội ngũ công chức chuyên nghiệp để hướng đến một nền hành chính dân
chủ, hiệu quả, năng động và minh bạch vì mục tiêu phát triển của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân
Trong những điều kiện trên, việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay như khái niệm, nội
dung của quyền hành pháp, mối quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền lập pháp
và quyền tư pháp, việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực tiễn… để từ
đó đề xuất những giải pháp cần thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực
hiện quyền hành pháp nói riêng và quyền lực nhà nước nói chung trong quá trình
xây dựng một Nhà nước kiến tạo là điều cần thiết. Đó là lý do của việc chọn và
nghiên cứu đề tài: “Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay” để làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xem xét các vấn đề lý luận về quyền
hành pháp, thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam và một số
nước khác trên thế giới để trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp có tính khả thi góp
phần tổ chức thực hiện tốt hơn quyền hành pháp ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã nêu, việc nghiên cứu đề tài tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
3
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền lực nhà nước và quyền hành
pháp như: khái niệm quyền lực nhà nước; khái niệm, nội dung của quyền hành
pháp; mối quan hệ giữa quyền hành pháp với các quyền lực khác của nhà nước như
quyền lập pháp và quyền tư pháp, việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp…
- Nghiên cứu các quy định về quyền hành pháp trong Hiến pháp Việt Nam từ
khi Hiến pháp năm 1946 ra đời tới nay để đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở nước ta nhằm hiểu rõ sự thay đổi trong nhận thức về quyền hành
pháp của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua và xác định các thành tựu cũng như
hạn chế trong tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nước ta.
- Xem xét các quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện quyền hành pháp
ở một số nước trên thế giới nhằm tìm kiếm kinh nghiệm, hoàn thiện việc tổ chức
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm
giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà hoạch định chính sách, các
nhà hoạt động thực tiễn có thể tham khảo và áp dụng vào thực tiễn tổ chức thực
hiện quyền hành pháp ở nước ta hiện nay, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu một số vấn đề về
quyền hành pháp cả trên phương diện lý luận lẫn pháp lý ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới. Đó là các vấn đề sau: khái niệm, nội dung của quyền hành pháp;
mối quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền lập pháp, quyền tư pháp; việc tổ chức
thực hiện quyền hành pháp trong thực tiễn thực hiện quyền lực nhà nước
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về quyền hành pháp trong tổ
chức bộ máy nhà nước chủ yếu trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam và pháp luật hiện hành của một số nước trên thế giới. Theo quan niệm
thông thường, người ta hiểu quyền hành pháp được thực hiện bởi hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước, nên hệ thống này được gọi là hệ thống hành pháp. Tuy nhiên,
ở phương tây khi nghiên cứu vấn đề phân quyền dưới góc độ khoa học luật Hiến
4
pháp, đã có cách tiếp cận khác về quyền lực nhà nước nói chung, quyền hành pháp
nói riêng. Theo cách tiếp cận này thì cơ quan quyền lực nhà nước chỉ là cơ quan ở
cấp trung ương mà thôi. Quyền lập pháp do nghị viện (Quốc hội) nắm giữ, quyền tư
pháp thuộc về tòa án còn quyền hành pháp thuộc về Tổng thống, Chính phủ (nội
các). Ở Việt Nam, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ. Do đó, luận án chỉ tập
trung nghiên cứu về tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở trung ương .
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
4.1. Phương pháp luận
- Đề tài luận án “Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay” được nghiên cứu
dựa trên cở sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật nói chung, về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng,
về quyền con người, về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cũng như các quan điểm của Đảng về pháp luật, về công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Đồng thời, các thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học
khác như triết học, lịch sử, xã hội học… về bộ máy quyền lực nhà nước cũng được
sử dụng để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận án.
- Luận án cũng được thực hiện trên cở sở tiếp thu có chọn lọc một số tư
tưởng tinh hoa của nhân loại về pháp luật, về quyền lực nhà nước và dân chủ như
“chủ quyền nhân dân” của Rousseau; “lý thuyết phân quyền” của Montesquieu…
- Ngoài các phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật và biện chứng lịch
sử, luận án còn sử dụng các phương pháp lý luận khác như lý luận về chính trị học,
một số lý luận về phương pháp luận…
- Sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học
xã hội và nhân văn trước hết là luật học (chủ yếu là phương pháp tiếp cận chuyên
ngành Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Lý luận Nhà nước và pháp luật…) và các
ngành khoa học xã hội khác như lịch sử, kinh tế…
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
5
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài là
phân tích và tổng hợp, hệ thống, logic, so sánh, phương pháp thống kê… nhằm khai
thác vấn đề từ cái chung đến cái riêng, từ cái riêng đến cái chung, một cách cụ thể
và bao quát. Luận án cố gắng lý giải các vấn đề một cách toàn diện từ cơ sở lý luận
đến minh chứng về tổ chức thực hiện quyền hành pháp không chỉ của riêng Việt
Nam mà còn ở một số nước có hình thức chính thể khác nhau trên thế giới, qua đó
thấy được tính khách quan và tất yếu của quyền hành pháp và nó tồn tại như một
phạm trù lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tư liệu,
so sánh, quy nạp các vấn đề nghiên cứu giữa các đối tượng được chọn lựa.
- Phương pháp nghiên cứu qua khảo sát thực tế, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp
với các nhà nghiên cứu về các lĩnh vực chính trị và luật pháp.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp hệ thống: nhằm thống kê và so sánh các
quy định về tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong các văn kiện chính trị - pháp
lý của Việt Nam (chủ yếu ở các mục 3.1, 3.2).
Phương pháp phân tích tổng hợp, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học:
nhằm xây dựng khái niệm quyền lực, quyền lực nhà nước và quyền hành pháp, làm
rõ vai trò của quyền hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước (chủ yếu ở các
mục 2.1,2.2).
Phương pháp nghiên cứu luật so sánh: nhằm so sánh việc tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở Việt Nam với quyền hành pháp ở một số nước trên thế giới (chủ
yếu ở các mục 2.4).
Phương pháp khảo sát thực tiễn, sử dụng số liệu thống kê của các cơ quan
quản lý nhằm tìm hiểu các quy định về quyền hành pháp trong hệ thống pháp luật
Việt Nam (chủ yếu ở các mục 3.1; 3.2).
Phương pháp phân tích - dự báo khoa học nhằm dự báo về các xu hướng phát
triển, phương hướng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nước ta và các giải pháp
đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quyền hành pháp ở Việt Nam (chủ
yếu ở các mục 4.1,4.2).
6
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên luôn
được sử dụng theo hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành luật học và phối hợp sử
dụng nhiều phương pháp.
6. Những điểm mới của luận án
Trên cơ sở tập hợp, phân tích, đánh giá hệ thống các công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài, luận án đã kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đó.
Từ đó, đưa ra các quan điểm lý luận về khái niệm, nội dung quyền hành pháp ở Việt
Nam hiện nay.
Luận án phân tích thực trạng các quy định pháp luật về quyền hành pháp ở
Việt Nam qua các bản Hiến pháp và chỉ ra những quy định mới trong bản Hiến
pháp năm 2013.
Luận án đề xuất được một số định hướng và giải pháp nhằm tổ chức thực
hiện quyền hành pháp phù hợp, hiệu quả hơn, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân tốt hơn ở Việt Nam. Qua đó hướng tới việc thực hiện có hiệu quả quyền
hành pháp nói riêng và quyền lực nhà nước nói chung.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay, luận án đã góp phần bổ sung và hoàn
thiện một số vấn đề lý luận về quyền hành pháp như: khái niệm, nội dung quyền
hành pháp, và mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp, quyền tư pháp
trong tổ chức quyền lực nhà nước.
Qua việc nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật về quyền hành pháp
của Việt Nam và một số nước trên thế giới, luận án đã bước đầu tổng kết, đánh giá
được thực trạng tổ chức thực hiện quyền này trong thực tế qua quy định của các bản
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992 và Hiến pháp năm 2013, cũng như hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Luận án cung cấp thêm nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên
cứu, học tập luật học cũng như cho các nhà hoạt động thực tiễn trong quá trình tổ
chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
7
8. Kết cấu của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án gồm phần Mở đầu, 4 chương và kết luận
Phần Mở đầu
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Các vấn đề lý luận cơ bản về quyền hành pháp
Chương 3: Thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nước ta hiện nay
Chương 4: Định hướng và giải pháp tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
giai đoạn tới.
Kết luận
8
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Nghiên cứu về quyền hành pháp không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở nước
ta. Trong thực tế, quyền hành pháp chủ yếu được nghiên cứu từ phương diện quản
lý hành chính, một phương diện quan trọng thể hiện tác động và hiệu quả của quyền
hành pháp trong đời sống xã hội. Tuy nhiên điều đó chưa nói hết được các khía
cạnh quyền lực nhà nước cũng như vấn đề lý luận, chính trị xã hội của quyền hành
pháp. Nhưng những công trình nghiên cứu, những bài viết trên các diễn đàn khoa
học là tất cả những gì đáng trân trọng mà các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu có
được về quyền lực nhà nước nói chung và quyền hành pháp nói riêng. Theo nội
dung vấn đề nghiên cứu có thể chỉ ra những nhóm công trình khoa học dưới đây:
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nƣớc
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước, có thể chỉ ra
đây một số bài viết, công trình khoa học sau:
Sách chuyên khảo: “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc
sửa đổi Hiến pháp 1992” – GS. TS. Trần Ngọc Đường (2012), Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách luận giải về cơ sở lý luận của sự phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp với hệ thống chính trị của nước ta, từ
đó đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện, đưa ra các kiến nghị liên quan trực tiếp
đến phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với
các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị nước ta.
Sách “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước” – TS. Nguyễn Thị Hồi (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn
sách trình bày một cách cụ thể và có hệ thống về lịch sử ra đời và sự phát triển của
tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước cũng như sự thể hiện tư tưởng này trong
thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới và có sự liên hệ với thực tiễn tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam.
9
Sách chuyên khảo: “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước”- PGS. TS
Thái Vĩnh Thắng, Nxb Tư pháp, 2011, tr.96 - 97 đã phân tích, lý giải cách thức tổ
chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các kiểu và mô hình nhà nước khác
nhau nhằm tìm ra những nguyên lý, những bài học kinh nghiệm để phục vụ công
cuộc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam.
Bài viết “Quyền lực nhà nước là thống nhất và sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” – TS.
Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Luật học số 2/2007 đưa ra một số nhận định về vấn đề
quyền lực nhà nước là thống nhất và sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nói chung, quyền lực hành pháp
nói riêng cũng như mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực nhà nước lập pháp, hành
pháp, tư pháp ở Việt Nam và ở một số nước trên thế giới
Sách “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN” – GS.TSKH Đào Trí Úc
(Chủ biên) 2005, Nxb Chính trị Quốc gia. Sách đề cập đến những chủ trương, giải
pháp, những điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm, duy trì bản chất của Nhà nước ta
là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phát huy hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nước và sức mạnh làm chủ của nhân dân.
Sách “Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền” – Ths. Bùi
Ngọc Sơn (2005), Nxb Tư pháp, đã góp phần làm sáng tỏ các giá trị của Hiến pháp,
các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay.
Sách “Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước” – PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung (2001), Nxb Giao thông vận tải. Sách đề cập đến những vấn đề chung
về Hiến pháp và bộ máy nhà nước như đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp, nội
dung cơ bản của Hiến pháp, Hiến pháp và vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, tổng
quan về cơ cấu và tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam và đề cập đến những vấn đề
10
riêng của Luật Hiến pháp như những chế định cơ bản về Quốc hội, về Chính phủ và
mô hình của Chính phủ, về tư pháp và mô hình của Tư pháp.
Sách “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước CHXHCN Việt Nam” – TS. Lê Minh Thông (2001), Nxb KHXH, bao gồm
nhiều báo cáo của các nhà khoa học, đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay như: các vấn đề chung về tổ
chức quyền lực nhà nước, về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương trong điều kiện
cụ thể ở Việt Nam. Các vấn đề trên đã được các nhà khoa học pháp lý phân tích khá
sâu sắc và toàn diện.
Sách “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam” – GS. TSKH Đào Trí Úc (Chủ biên – 2006), Nxb Tư pháp, đã làm rõ những
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời trên cơ sở đó thiết kế
mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN phù hợp với mục tiêu chính trị và điều kiện,
đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Sách “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay” –
PGS.TS. Bùi Xuân Đức (2004), Nxb Tư pháp. Cuốn sách đi sâu phân tích quan
điểm, nguyên tắc của việc cải cách bộ máy nhà nước; làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của những đổi mới căn bản của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992,
đồng thời luận giải những phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận, thực
tiễn và các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta
trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu và thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Liên quan đến đề tài luận án, đối với các công trình nghiên cứu của tác giả
nước ngoài thì chưa có một tác giả nào nghiên cứu về quyền lực nhà nước nói
11
chung và quyền hành pháp ở Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận
về quyền lực, quyền hành pháp nói chung đã được nhiều tác giả luận giải trên cơ sở
thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu.
Trong một số tác phẩm dịch từ tiếng nước ngoài như: “Các vấn đề căn bản
của Chính trị” - Leslie Lipson (1974), Đặng Thanh Tâm dịch, Sài gòn; tác phẩm
“Những cách diễn giải hiện nay về thuyết phân quyền ở Phương Tây” – Marsenco
M.N (1995), Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hà Nội, tư tưởng phân chia quyền lực được đề cập đến với các tên gọi như “Thuyết
phân quyền”, “ Học thuyết phân quyền”. Song nếu tìm hiểu về cội nguồn của nó, có
thể thấy những cách gọi trên do người đời sau đặt ra căn cứ vào nội dung cơ bản của
tư tưởng này, trong thực tế, những người đặt nền móng, xây dựng và phát triển tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước như Aristotle, Locke, Montesquieu thì lại
không nhắc đến các tên gọi trên trong tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Aristote cho
rằng: Có ba bộ phận trong tất cả các nhà nước, đó là Hội nghị nhân dân (The Public
Assembly), các viên chức nhà nước (The officers of the state) và cơ quan tòa án
(The Judicial Department). Sau đó ông trình bày về ba bộ phận này và đề cập rất sơ
lược về mối quan hệ giữa ba bộ phận đó mà không hề nhắc tới từ “phân quyền” hay
“phân chia quyền lực”
Mặc dù mới chỉ dừng ở mức khái quát, song có thể nói Aristote đã đề cập
đến các chủ thể chính thực hiện quyền hành pháp của nhà nước, đó chính là các
viên chức nhà nước
Trong tác phẩm “Two Treaties of Government” Edited by Laslett.P, Locke,
Cambridge University Press (tạm dịch là Hai chuyên luận về chính quyền), Locke
đã lý giải khá cặn kẽ về nguồn gốc, mục đích của nhà nước và các loại quyền lực
nhà nước, về nội dung, phạm vi giới hạn của từng quyền, về vị trí và mối quan hệ
giữa các loại quyền lực nhà nước. Ở chương XII, quyển 2 với tiêu đề: “Về quyền
lực lập pháp, hành pháp và liên bang của nước cộng hòa” (Of the legislative,
Executive, and federative Power of the Commonwearth), Locke trình bày sơ qua về
nội dung, đặc tính của từng loại quyền lực trên. Ở các chương khác, ông trình bày
12
giới hạn của quyền lực lập pháp, về sự phụ thuộc của các quyền lực khác vào quyền
lập pháp. Nhưng trong cả tác phẩm ông không nói đến cụm từ “phân quyền” hay
“phân chia quyền lực”.
Có thể thấy Locke là một trong những học giả đầu tiên trên thế giới đề cập
đến quyền lực hành pháp với tư cách là một loại quyền lực nhà nước, từ tên gọi đến
nội dung, chủ thể thực hiện quyền lực hành pháp đến mối quan hệ giữa quyền lực
hành pháp với quyền lực lập pháp. Theo Locke, quyền lực hành pháp ở vị trí thấp
hơn quyền lực lập pháp vì nó xuất phát từ quyền lực lập pháp và phải phụ thuộc vào
quyền lực lập pháp, quyền lực lập pháp luôn là tối cao
Trong tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu, cha đẻ
của thuyết phân quyền đã giải mã như sau: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ
quyền lực: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp
và quyền thi hành những điều trong luật dân sự. Với quyền lực thứ nhất, nhà vua
hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay
hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hòa hay chiến, gửi
đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà
vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa cá nhân. Người ta
gọi đây là quyền tư pháp, vì trên kia là quyền hành pháp quốc gia”. Dưới con mắt
của Montesquieu, quyền lực nhà nước được cấu thành bởi các loại quyền lực có tên
gọi và nội dung khác nhau (Montesquieu, “Bàn về tinh thần pháp luật” – Bản dịch
của Hoàng Thanh Đạm – Hà nội, NXB Lý luận chính trị, 2006, tr.105,106).
Xem xét tác phẩm tinh thần pháp luật của Montesquieu cho thấy, mặc dù kế
thừa Aristote và Locke song Montesquieu đã phát triển tư tưởng phân quyền lên
một bước mới. Ông không chỉ đề cập đến tên gọi các loại quyền lực nhà nước như
lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn đề cập đến nội dung, chủ thể thực hiện từng
loại quyền lực, vị trí và mối quan hệ giữa các loại quyền lực nói trên. Nếu Locke
chưa đề cập đến quyền lực tư pháp thì Montesquieu đã đề cập đến loại quyền lực
này, nếu Locke cho rằng quyền lực hành pháp thấp hơn quyền lực lập pháp thì
Montesquieu lại cho rằng quyền lực hành pháp lại ngang bằng với quyền lực lập
13
pháp. Điều đặc biệt quan trọng là Montesquieu phát kiến ra cơ chế kiểm soát và
kiềm chế lẫn nhau giữa các loại quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “ dùng quyền
lực để ngăn cản quyền lực” nhằm ngăn chặn hạn chế sự lộng quyền và lạm quyền
xâm hại đến quyền tự do của công dân trong quá trình thực hiện quyền lực nhà
nước. Vì thế đây là tác phẩm quan trọng đề cập đến lý luận về quyền lực nhà nước
nói chung và quyền lực hành pháp nói riêng
Sách “Thể chế tam quyền phân lập của Nhật Bản” – Hồ Việt Hạnh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, (2008). Dựa trên cơ sở thuyết tam quyền phân lập của
Montesquieu, đã đánh giá những nét cơ bản về thể chế tam quyền phân lập của Nhật
Bản như: Mức độ tác động của sự phát triển dân chủ; khả năng bảo đảm chủ quyền
thuộc về nhân dân trên cơ sở bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp; và đặc biệt là
vấn đề xác định tính triệt để của thể chế tam quyền phân lập. Đặc biệt tác phẩm chỉ
rõ thể chế tam quyền phân lập ở Nhật Bản là không cơ quan nào toàn quyền tuyệt
đối, lấn át hoàn toàn cơ quan quyền lực khác. Khẳng định nét văn hóa Nhật Bản đã
đưa nghị viện Nhật Bản thành một thể chế có quyền lực mạnh nhất trong các nhánh
quyền lực cấu thành nên Nhà nước.
Cuốn sách là tài liệu tham khảo cung cấp kinh nghiệm về xử lý mối quan hệ
giữa quyền lực hành pháp với các loại quyền lực nhà nước khác.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền hành pháp
Cho đến nay, đã có một số lượng khá lớn các công trình nghiên cứu, bài viết
về quyền hành pháp. Có thể kể đến một số công trình sau:
Bài viết “Quyền hành pháp và chức năng của quyền hành pháp” – PGS.TS.
Lê Minh Tâm, Tạp chí Luật học số 6/2000 đã phân tích khái niệm quyền hành pháp
và chức năng của quyền hành pháp.
Bài viết “Về kiểm soát Quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà
nước Việt Nam hiện nay” – TS. Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2006
đã phân tích cơ sở của việc kiểm soát quyền lực nhà nước, đối tượng và các phương
diện của kiểm soát quyền lực nhà nước và đưa ra nhận định sơ bộ về kiểm soát
quyền lực hành pháp ở nước ta.
14
Sách chuyên khảo “Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền”- PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung (2008), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề cập đến Nhà nước
pháp quyền và đặc điểm, mô hình của Chính phủ hành pháp trong Nhà nước pháp
quyền, đưa ra những yêu cầu, cách thức và hoạt động của Chính Phủ hành pháp
trong việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Bài viết “Những bất cập về chế định Chính phủ trong Hiến pháp hiện hành”
– TS. Phạm Tuấn Khải, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3(211) 2/2012, tr 5-9, đã
làm rõ quyền hành pháp và chủ thể thực hiện quyền hành pháp, thẩm quyền của tập
thể Chính phủ và các thành viên Chính phủ cũng như việc phân cấp và ủy quyền
theo Hiến pháp năm 1992.
Bài viết “Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013”, ThS.
Nguyễn Ngọc Toán, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17(273)T9/2014 tr 3-10, bài
viết bình luận một số điểm mới về quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp
năm 2013 và nêu kiến nghị để Chính phủ thực hiện tốt hơn quyền hành pháp.
Bài viết “Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước”, TS. Trần Anh Tuấn, Tạp chí Cộng sản số 851 T9/2013, tr1723. Cho rằng, quyền hành pháp chủ yếu được thực hiện bởi chủ thể là Chính phủ,
đứng đầu là Thủ tướng, nêu rõ trách nhiệm chính trị và thẩm quyền của cơ quan
thực hiện chức năng hành pháp và vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước.
Bài viết “Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013”, TS. Nguyễn
Văn Cương, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 12(268) T6/2014. Đã nêu lên quan
điểm và khái niệm về quyền hành pháp của một số nhà khoa học trên thế giới và
Việt Nam. Tác giả đã đưa ra các góc nhìn so sánh cũng như các vấn đề nhận thức về
quyền hành pháp hiện nay.
Bài viết “Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp và kiến nghị sửa
đổi luật Tổ chức Chính phủ”, ThS Cao Vũ Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
09 (265), T5/2014. Bài viết đưa ra các quan điểm và ý kiến của các nhà khoa học về
15
khái niệm quyền hành pháp và phân tích các quan điểm đó. Đồng thời đưa ra đề
xuất sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
Bài viết “Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo quy định
của pháp luật”, Nguyễn Phước Thọ, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 13(269),
T7/2014, đã bước đầu tổng kết, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện
hành về cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ; đồng thời làm rõ cơ chế
này được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và đề xuất các kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện cơ chế.
Kỷ yếu hội thảo “Quyền hành pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – Bản chất và cơ chế thực hiện” – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp, T12/2013 gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về các vấn đề
như: Quyền hành pháp, cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ, mối quan
hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp ở Việt Nam, quyền tư pháp với quyền
hành pháp ở Việt Nam hiện nay…..
Bài viết “Chế định Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013”, Dương Thị
Thanh Mai, Tạp chí Luật học số ĐSLHP năm 2014 (Tr 46-49) nói vể những nội
dung cơ bản và những điểm mới của chế định Chính phủ và các quy định liên quan
trong Hiến pháp năm 2013”
Các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
quyền hành pháp như: khái niệm, bản chất và cơ chế thực hiện quyền hành pháp.
Đồng thời đề cập đến chủ thể chủ yếu thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ
Bài viết "Sự cần thiết khách quan của quyền lập quy của Chính phủ",
Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Thị Phượng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, số 9/2006, tr. 10 – 14.
Bài viết “Một số suy nghĩ vể mô hình Chính phủ trong nhà nước kiến tạo
phát triển” , GS, TS. Phạm Hồng Thái trong Hội thảo “Nhà nước kiến tạo và phát
triển lý luận và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam” – Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, Tháng 3/2017. Bài viết đã đưa ra các điều kiện, mục tiêu để tổ chức,
16
xây dựng một Chính phủ kiến tạo, liêm chính hoạt động vì lợi ích của nhân dân, vì
sự phát triển của xã hội.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến vị trí, vai trò, tổ chức hoạt
động và đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ - chủ thể thực hiện quyền hành
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
Đối với các tài liệu nước ngoài nghiên cứu về quyền hành pháp, có thể kể
đến một số tác phẩm, công trình nghiên cứu sau:
Theo Rod Hague and Martin Harrop, Political Science: A Comparative
Introduction, 6th ed (New york: Palgrave Macmillan,2010) at 319 cho rằng: “khi cai
trị, có thể thiếu bộ máy lập pháp và tư pháp nhưng không thể thiếu bộ máy hành
pháp”.
Quan điểm về quyền hành pháp của Montesquieu được thể hiện rất rõ trong
việc thiết kế cơ cấu quyền lực nhà nước trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Cụ thể, theo từ
điển luật học nổi tiếng Black’s Law Dictionary thì “quyền hành pháp” (executive
power) là “quyền thấy được các đạo luật được thực thi một cách đầy đủ. Theo luật
liên bang quyền này được trao cho Tổng thống, còn ở các bang quyền này được trao
cho thống đốc. Các nội dung cụ thể của quyền hành pháp của Tổng thống được quy
định trong mục 2 Điều 2 Hiến pháp Hoa Kỳ” (Bryan A. Garner (ed.), Black’s Law
Dictionary, 9th ed. (St.Paul, MN: Thomson Reuteurs, 2009) at 657).
Trong bách khoa thư về quyền lực “Encyclopedia of Power” do Keith
Dowding (giáo sư Đại học quốc gia Úc) Chủ biên xuất bản năm 2011, các tác giả có
định nghĩa rằng: “The executive power is the authority to enforce laws and to
ensure that they are implemented as intended” ( “quyền hành pháp là thẩm quyền
thực thi các đạo luật và bảo đảm rằng các đạo luật này được thi hành như ý định đặt
ra các đạo luật ấy”) (Andre Kaiser, “executive power” in Keith Dowding (ed.),
Encyclopedia of Power (London: Sage, 2011) at 228.
Tác phẩm “The Federalist Papers” (Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ) do Ralph
H.Gabriel Chủ biên, bản dịch của Nguyễn Hưng Vượng - Nxb Như Nguyệt, Sài
Gòn 1959, Tr152,153, 165 đã lý giải đặc tính thực sự của ngành hành pháp, đó là
17
phần lớn quyền lực của ngành hành pháp đều được giao phó cho một người độc
nhất… Những yếu tố làm cho ngành hành pháp có uy quyền cương quyết là: trước
hết là sự đơn giản, thứ nhì là sự lâu dài, thứ ba là những dự liệu thích hợp để bảo vệ
uy quyền, thứ tư là những quyền lực thích hợp. Các chính trị gia công nhận rằng
ngành hành pháp chỉ nên có một nguyên thủ, còn ngành lập pháp nên có nhiều hội
viên. Họ nhận thấy rằng uy quyền cương quyết rất cần thiết cho ngành hành pháp,
và uy quyền chỉ có thể có được khi tập trung trong tay một người độc nhất. Đồng
thời họ cũng nhận thấy rằng ngành lập pháp có đông người thì mới thảo luận kỹ
lưỡng, khôn ngoan, vừa đáng để cho nhân dân tín nhiệm, vừa thích hợp để duy trì
quyền lợi của nhân dân.
Trong tác phẩm “An out line of American Government” (Khái quát về chính
quyền Mỹ), Nxb Chính trị quốc gia, 1999 đã tập trung trình về bày Hiến pháp Mỹ và
chế độ Hiến pháp Mỹ với những vấn đề có tính chất đặc trưng của nó như: phân
quyền, chế độ Tổng thống, chế độ lưỡng viện, quyền công dân…. Trong tác phẩm
nêu rõ quyền hành pháp là thiết yếu nhằm bảo vệ đất nước trước sự tấn công của
ngoại bang, quản lý pháp luật công bằng, bộ máy lập pháp phản ánh ý chỉ của người
dân, đưa ra những đánh giá thận trọng và được bàn luận thấu đáo bằng một đạo luật.
Đối với nhánh tư pháp, những phẩm chất đề ra cũng rất đặc biệt không phải sự
nhanh nhạy của người hành pháp, cũng không phải sự cảm thông với thái độ của
công chúng hay khả năng thỏa hiệp của nhà lập pháp mà là “sự minh bạch dung
hòa”. Đưa ra những ý tưởng phân tách quyền lực giữa các nhánh quyền nhằm tránh
sự chuyên chế của quyền lực tập trung thuộc về phạm trù rộng hơn về cơ chế kiểm
soát lẫn nhau.
Trong tác phầm “Bàn về khế ước xã hội” của Jean – Jacques Rousseau người dịch Thanh Đạm, Nxb TP Hồ Chí Minh (1992), ngoài những vấn đề mang
tính nguyên tắc chung của việc cai trị theo pháp luật. Rousseau còn bàn khá cặn kẽ
đến quyền hành pháp, quyền lập pháp, quyền tư pháp. Ông cho rằng: “Trong một
nước ý chí toàn dân thể hiện ở cơ quan lập pháp, tức là cơ quan có quyền lực tối
cao; còn sức mạnh quốc gia thể hiện ở cơ quan hành pháp tức là Chính phủ”. Tác
18
phẩm cho rằng: “Ta đã thấy quyền lực thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về
nhân dân mà thôi. Trái lại, quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung như
quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến
những điều khoản cụ thể không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc của cơ
quan quyền lực tối cao, mà mọi cử chỉ cần phải làm là những đạo luật”.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên thế giới về quyền hành pháp của
các quốc gia gắn với mỗi chế độ chính trị, xã hội, nền văn hóa pháp lý truyền thống
của mỗi quốc gia đó khá phong phú. Các công trình đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền hành pháp như: nội dung của quyền hành
pháp, mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp, chủ thể thích hợp nhất
để nắm quyền lập pháp, cách thức tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực
tiễn ở một số nước trên thế giới… Thông qua các nghiên cứu đó có thể tìm thấy
những nét tương đồng, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong
quá trình tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nước ta.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành pháp với
các quyền khác
Đối với nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành
pháp với các quyền khác có một số bài viết, tài liệu sau:
Sách “Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam” –
Lê Quốc Hùng (2004), Nxb Tư pháp, Hà Nội: Sách đã nghiên cứu cơ bản và có hệ
thống, làm sáng tỏ các vấn đề như bản chất của quyền lực nhà nước, sự thống nhất
của quyền lực nhà nước và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước thông qua sự phân
công và phối hợp các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đây là công trình đầu tiên đề cập đến nguyên tắc thống nhất phân
công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam;
Sách chuyên khảo – tham khảo “Phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam” – TS.
Cao Anh Đô (2013), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Nội dung cuốn sách
tập trung nghiên cứu việc phân công quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và
19
tư pháp trong mối quan hệ tổ chức bộ máy nhà nước, làm rõ vai trò và chức năng
của các chủ thể này trong việc thực hiện các quyền nói trên.
Bài viết "Về quyền hành pháp của Chính phủ trong cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước", Nguyễn Phước Thọ, Cao Anh Đô, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 22/2011, tr. 35 - 40, 48 đưa ra vấn đề
cần làm rõ nội dung quyền hành pháp của Chính phủ đến đâu, các nguyên tắc cơ
bản của cơ chế vận hành quyền lực được trao bảo đảm tính thống nhất, thông suốt
và liên tục của quản lý điều hành các mặt đời sống, kinh tế- xã hội của đất nước.
Bài viết "Mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp (Quốc hội) và hành pháp
(Chính Phủ) ở nước ta" - Ngô Đức Tuấn, Khoa học pháp lý, Trường đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Số 3/2000, tr. 9 đề cập đến mối quan hệ giữa hoạt động
lập pháp của Quốc hội và hoạt động hành pháp của Chính phủ.
Bài viết “Về quyền lực nhà nước và sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp hiện
nay” - Trần Ngọc Đường, tạp chí Cộng sản số 858 (tháng 4 năm 2014), trang 73-77
đề cập đến việc thống nhất quyền lực nhà nước là ở nhân dân và mối quan hệ giữa
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở phân công và kiểm soát quyền lực và
bảo đảm tính pháp quyền của nhà nước.
Bài viết “Mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền
tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013”, Tô Văn
Hòa, số ĐS 9/2014 (Tr. 34-45) đề cập đến mối quan hệ giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp và cơ quan thực hiện các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 2013.
Các công trình trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ
chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta, qua đó làm sáng tỏ hơn mối quan
hệ giữa quyền hành pháp với các quyền lập pháp và tư pháp ở nước ta
Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan
đến đề tài luận án, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu có liên quan đến
20
quyền lực nhà nước nói chung và quyền hành pháp nói riêng là rất lớn. Đặc biệt,
việc nghiên cứu cơ chế bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân
công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta đã được rất nhiều công trình nghiên
cứu đề cập đến. Phạm vi đối tượng nghiên cứu trong các công trình nói trên chủ yếu
theo các hướng sau: nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền lực và quyền lực
nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các loại quyền lực, sự
phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa…; hoặc nghiên cứu các vấn đề về tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng tổ chức chính quyền
hành chính tại địa phương…; hoặc nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, chức
năng của quyền hành pháp trong nhà nước pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp
quyền.
1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.4.1. Đánh giá các kết quả nghiên cứu đã đạt được
Qua nội dung các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trên
thế giới cũng như ở Việt Nam đã nêu, có thể đánh giá về các kết quả nghiên cứu đó
như sau:
Các nghiên cứu đó đã làm rõ mối quan hệ giữa quyền lực, quyền lực nhà
nước, quyền lực nhân dân, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tùy theo quan niệm
và sự phát triển của nhu cầu quản lý nhà nước, vấn đề tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước ở mỗi nước có sự khác nhau nhất định. Quyền lực nhà nước có thể tập
trung trong tay một cá nhân hoặc một cơ quan (nhóm người) hay phân công cho
nhiều cơ quan khác nhau thực hiện, nhưng dù có thành lập thêm bao nhiêu cơ quan
đi chăng nữa thì quyền lực nhà nước vẫn luôn thống nhất, bộ máy nhà nước vẫn
phải luôn là một cơ chế thống nhất nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước. Do
vậy, việc định ra các quyền lực như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
21
pháp… chẳng qua là xác định các chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
trong pháp luật.
Việc phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là nhằm tránh hiện tượng tập trung quyền lực
vào một chủ thể, nhờ vậy có thể tránh được hiện tượng lộng quyền và lạm quyền.
Tuy nhiên việc phân quyền ở đây không có nghĩa là áp dụng một cách cơ học, các
quyền hoàn toàn biệt lập, không có mối liên hệ với nhau. Trái lại, các quyền đó bổ
sung cho nhau, tương tác lẫn nhau để sao cho trong nội tại mỗi quyền và giữa các
quyền sẽ hình thành mối liên hệ vừa phối hợp, vừa kiểm soát lẫn nhau trong một
chỉnh thể thống nhất của quyền lực nhà nước.
Các nghiên cứu của một số tác giả cũng nêu lên khái niệm về quyền hành
pháp, nội dung của quyền hành pháp với nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Nội
dung của khái niệm “quyền hành pháp” cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất, có
rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền hành pháp, có tác giả cho rằng
quyền hành pháp là quyền cai trị theo luật, có tác giả lại đồng nhất quyền hành pháp
với quyền hành chính công, hoặc có tác giả cho rằng quyền hành pháp chính là
quyền điều hành đất nước… Mặc dù vậy, các quan điểm khác nhau về quyền hành
pháp đã giúp cung cấp cái nhìn đa chiều, đa diện về quyền hành pháp để từ đó tiếp
tục đi sâu nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận về quyền hành pháp trong cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước.
Các công trình nghiên cứu cũng cung cấp một cái nhìn toàn diện về quyền
lực nhà nước là thống nhất và sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền hành pháp với
quyền lập pháp và quyền tư pháp. Cung cấp cơ sở lý luận của sự phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp với hệ thống chính trị của nước ta, từ
đó có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của quyền
hành pháp trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và hoàn thiện pháp luật của
nước ta.
22