Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.02 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI
I. Khái niệm về sự phát triển con người
II. Chủ nghĩa Mác-Lê nin trong sự phát triển con người
Chương II: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
I. Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta hiện nay
1. Con người trong sự nghiệp CNH-HĐH hiện nay
2. Phát triển con người Việt nam toàn diện
III. Nguồn nhân lực - động lực của CNH - HĐH đất nước
1. Thực trạng về nguồn lực con người Việt nam
2. Phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
Chương III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CON NGƯỜI TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
I. Định hướng cho con người Việt nam phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH
đi vào thể kỷ 21
II. Giải pháp cho nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH-HĐH
1. Quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của người lao động
2. Xây dựng môi trường và xã hội, tạo điều kiện để
phát huy yếu tố con người
3. Đổi mới và tăng cường chiến lược đào tạo con người
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
Con người là chủ thể của giới tự nhiên, chủ thể của xã hội. Vì thế phát
triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn xã hội. Họ luôn hướng về một


chân lý về cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Các Mác và Ăng ghen
đã chỉ ra rằng xã hội tốt đẹp mà những người cộng sản nhằm tới là xã hội trong
đó sự phát triển của từng người là điều kiện cho sự phát triển của mọi người.
Đảng ta coi trọng sự phát triển người, làm cho sức sáng tạo của con người
được phát huy, giải phóng sức sản xuất, tạo nên sự phát triển lành mạnh một nền
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Phát triển kinh tế luôn gắn liền với phát
triển văn hoá, nhằm vào phát triển xã hội tốt đẹp, lấy phát triển người làm mục
tiêu trung tâm. Tư tưởng của Đảng ta cũng là tư tưởng của thời đại: con người là
trung tâm của sự phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu của cách mạng XHCN ở
Việt nam chúng ta ngày nay là tăng trưởng kinh tế mạnh và bền vững, để xây
dựng một đất nước ta giàu mạnh xã hội công bằng văn minh, con người và gia
đình ấm no, hạnh phúc.
Thực chất nước ta là một nước nghèo nàn, lạc hậu so với thế giới về mọi
mặt. Nền kinh tế phát triển không đồng đều và cách xa thế giới. Vì vậy mà từ
khi giải phóng đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách đổi mới nền
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CNH-HĐH) để đưa đất nước
phát triển đuổi kịp thế giới. Đây chính là con đường đúng đắn và có tầm nhìn xa
trông rộng. Nhưng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mà chúng ta đã tiến
hành từng bước thì người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và trong sự phát triển kinh tế đất nước theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, thì chất
lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ
VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn


lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cụộc
CNH-HĐH".
Do sự nhận thức về tầm quan trọng của CNH-HĐH trong đó lấy nhân tố
con người để nghiên cứu. Vì thế mà em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Vấn đề
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta".

Do trình độ nhận thức và thời gian hạn chế nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương I
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người

I. Khái niệm về sự phát triển con người
Phát triển con người là mục tiêu cao cả của nhân loại. Làn sóng văn minh
thứ 3 đang đưa loài người đến một kỷ nguyên mới mở ra bao khả năng để họ tìm
ra những con đường tối ưu đi đến tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ
thống XHCN càng làm cho tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất
cho sự nghiệp phát triển con người Việt nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò của
chủ nghĩa Mác-Lê nin.
Phát triển con người là đưa con người trở về với chính mình đồng thời
phát huy bản chất và bản tính của nó. Vấn đề đầu tiên ở đây là nhận thức đúng
thực chất tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người và khả năng phát
triển của con người. Trong bối cảnh thoái trào của cách mạng cộng sản, một
quan điểm phổ biến của những người mới hôm qua đang cuồng nhiệt ủng hộ và
cho rằng mô hình lý tưởng phát triển toàn diện hài hoà của Mác là vô nghĩa, ảo
tưởng! Thực ra mô hình đó không xa lạ với con người, nó là ước mơ ngàn đời
gắn với cuộc sống hàng ngày và là mục tiêu vươn tới của họ. Lịch sử đã từng
chứng minh con người càng tiến dần tới ước mơ đó bằng những thành tựu khoa
học, kỹ thuật, nghệ thuật... và sự nâng cao thể chất, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ...
Chủ nghĩa xã hội khoa học là điều kiện tốt nhất so với các mô hình xã hội hiện
đại cho sự phát triển và tiến bộ con người.
II. Chủ nghĩa Mác-Lê nin trong sự phát triển con người
Có thể nói chủ nghĩa Mác-Lê nin cho đến nay vẫn là học thuyết có khả
năng cao nhất trong việc thực hiện lý tưởng con người. Bởi trước hết nó là học

thuyết khoa học và tiến bộ nhất. Một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh trên cơ sở
biện chứng duy vật về bản chất quy luật tồn tại, vận động và phát triển của thế
giới. Nó kế thừa, kết tinh và phát triển mọi tinh hoa trí tuệ loài người và thực tế


nó vượt xa cả hệ tư tưởng và tôn giáo trong lịch sử về mọi mặt: về hệ thống lý
NỘI DUNG
luận, về khả năng phản ánh cũng như cải tạo thế giới. Cho nên nó là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học cho nhận thức, tư duy và hoạt động của con
người.
Nhưng vấn đề thực chất rằng bản chất của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con
người là "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi
người". Xã hội loài người chỉ được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân.
Vấn đề phát triển cá nhân không chỉ còn là lý thuyết mà là nhu cầu thiết yếu
trong thực tiễn xã hội ngay từ hôm nay. Chỉ có điều, sự vươn tới lý tưởng, chỉ
thực hiện được qua từng nấc thang, phù hợp với lịch sử, với điều kiện kinh tế xã
hội, với từng cá nhân cụ thể. Chính vì thế mà sự đổi mới mô hình CNXH và con
đường tiến tới đó ở Việt nam với nền kinh tế thị trường cũng đang đặt ra cho sự
phát triển tự do của cá nhân những yếu tố thuận chiều và ngược chiều mà chủ
thể điều chỉnh sự phát triển con người cần tính đến. Từ đó ta có thể nhận thức và
nhận thức đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lê nin vào công cụộc xây dựng CNXH, đó
chính là tạo điều kiện thực tế để khắc phục dần "Sự xung đột có tính bi kịch giữa
định lý tất yếu về phương diện lịch sử và việc không thể dễ dàng thực hiện được
định lý ấy về phương diện thực tiễn". Đây chính là điều kiện biến lý tưởng xã
hội và con người thành hiện thực.
Khi khẳng định tiến trình phát triển của xã hội loài người là sự thay thế
lẫn nhau của cac hình thái kinh tế xã hội Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển
toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội. Mác cho
rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội

qua việc con người chiếm lĩnh và được ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với
tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định
quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển, tính
chất xã hội của sản xuất ngày càng gia tăng và ngày càng cần đến những "con
người hoàn toàn mới" đó là con người có năng lực, phát triển toàn diện. Và do


xã hội "có khả năng sử dụng một cách toàn diện khả năng của mình". Bởi vậy,
theo Mác phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội và phát triển con người
toàn diện là một quá trình thống nhất để "làm tăng thêm nền sản xuất xã hội" "để
sản xuất ra những con người phát triển toàn diện". Và hơn nữa, Mác coi sự kết
hợp chặt chẽ giữa sự phát triển sản xuất và phát triển con người "một trong
những biện pháp mạnh để cải tiến xã hội".
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác, thực chất của tiến trình phát
triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp
hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người. Nói
theo Ăng ghen là đưa con người "từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự
do", là làm cho con người cuối cùng là người chủ tồn tại xã hội mình đồng thời
trở hành người chủ của tự nhiên, người chủ của bản thân mình, trở thành những
người tự do. Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tạo ra những điều kiện,
những khả năng cho chính mình, nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do là
hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng nhân loại, tạo cho con người năng
lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Nhìn chung, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã tạo được bước nhảy rất xa từ con
người lạc hậu, mất tự do đang bị những tư tưởng tôn giáo phi khoa học kiềm chế
sang con người được giải phóng, có tri thức và văn hoá.
Quan điểm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo chung càng phải được khẳng định trong bối cảnh hiện
thời của xã hội loài người. Bởi lẽ ngày nay, nhân loại đang sống trong một bối
cảnh quốc tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ

ràng tính đa dạng trong các lĩnh vực phát triển của nó. Xã hội loài người bao giờ
cũng là một hệ thống chính thể, thống nhất, song cũng đồng thời là một hệ thống
hết sức phức tạp, đa diện, chính sự phức tạp và đa diện của nó đã tạo nên tính
không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực, các
châu lục khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển lại


Chương II
Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá-hiện đại hoá

I. Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang mang nặng tính chất nông nghiệp lạc
hậu, công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân theo dầu người
thấp và có một khoảng cách xa so với các nước phát triển. Vì vậy mà ta cần phải
đổi mới nền kinh tế nước ta cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước.Vì vậy tất yếu
phải thực hiện CNH-HĐH đất nước. Cái tất yếu ấy thì chúng ta có thể dễ dàng
nhận biết được, song làm thế nào, bằng phương pháp nào để thực hiện nó cho có
hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng. Bởi vì từ chỗ thấy
được tính tất yếu, không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã từng xẩy ra
trước đây; hoặc trái lại nếu chỉ nhìn thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi
cam chịu tụt hậu lại là một tai hoạ của đất nước. Nhưng rất có thể từ chỗ nhìn
thấy khó khăn thiếu thốn mà nóng vội tìm cách phát triển bằng cách này hay
cách khác, bằng mọi giá, không kể đến lợi hay hại, chấp nhận sự đầu tư nước
ngoài hay vay nợ tràn lan thì đó lại là sai lầm lớn. Chính vì vậy cần phải xem xét
kỹ chính mình trước tiên, đó là hoàn cảnh, điều kiện của nước ta mà từ đó
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước rồi rút ra cho mình một hướng đi
của riêng mình, cho nên ta cần phải nắm vững các quan điểm cơ bản về CNHHĐH mà Hội nghị Trung ương Đảng CSVN khoá VII đã đề ra.
Muốn vậy công cụộc xây dựng một xã hội mới, phải được tiến hành mọt
cách toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá

và những con người của xã hội đó. CNH-HĐH chính là con đường và bước đi
tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại là một
quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước. Tuy
nhiên, tuỳ từng nước khác nhau do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau


nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn
hiện đại sẽ không giống nhau.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền sản
xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu. CNH-HĐH là quá trình mang tính quy
luật để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt CNH-HĐH có ý nghĩa đặc biệt to lớn và
có tác dụng trên nhiều mặt:
Thứ nhất là: CNH nói một cách chung là một cuộc cách mạng về lực
lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng năng
suất lao động. CNH-HĐH chính là thực hiện xã hội về mặt kinh tế kỹ thuật, tăng
trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao góp phần ổn định và ngày càng nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai là: trong những điều kiện mới của sự phát triển kinh tế giữa các
ngành, các vùng, các phạm vi trong nước và giữa các nước với nhau ngày càng
phức tạp và đa dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò kinh tế của Nhà
nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, phát triển làm xuất hiện
thêm nhiều ngành nghề mới để từng bước giải quyết nhu cầu việc làm cho người
lao động. Tất cả các nhiệm vụ này đều có thể thực hiện tốt trên cơ sở thực hiện
đầy đủ và đúng đắn quá trình CNH-HĐH.
Thứ ba là: ngày nay nhân tố con người đang trở thành vấn đề trung tâm,
điều đó đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong
nền sản xuất đặc biệt, trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Để phát huy
đầy đủ vai trò của mình, con người tất yếu phải là những con người hiện đại, có

trình độ khoa học kỹ thuật cao, nắm bắt kịp thời những kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến trên thế giới. Cũng chỉ trên cơ sở thực hiện tốt CNH mới có khả năng thực
tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện của nhân tố con
người.
Thứ tư là: CNH-HĐH tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc củng cố và
tăng cường tiềm lực quốc phòng. Khả năng đảm bảo an ninh quốc phòng của


mỗi nước phụ thuộc nhiều điều kiện, các nhân tố khác nhau, ví dụ như kinh tế,
quân sự, văn hoá, xã hội. Trong đó việc cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng
các yếu tố vật chất kỹ thuật có ý nghĩa đậc biệt quan trọng. Đáp ứng yêu cầu đó,
CNH-HĐH có tác dụng thực tiễn và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực lớn cho
quốc phòng.
Thứ năm là: CNH-HĐH còn tạo điều kiện, khả năng cho việc thực hiện
tốt sự phân công và hợp tác về, khoa học, công nghệ...
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta hiện nay.
1. Con người trong sự nghiệp CNH-HĐH hiện nay
Mục tiêu "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
vơi str phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
1

quốc phòng vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" của
CNH-HĐH quy định hướng XHCN đã cho thấy rõ sự nghiệp "đó là một cuộc
cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội".
Đó trước hết là cuộc cách mạng con người, vì con người và do con người. Bởi
khi chúng ta nói về những ưu việt của CNXH thì "những ưu việt đó không thể
do ai đưa đến cho chúng ta. Đó phải là kết quả của những nỗ lực ,cả về khả năng
2


lao động, và đạo đức,tình cảm trong sáng"

Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, từ ngày thành lập (3-21930) đến nay, Đảng đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất, chăm
lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phần đấu cao nhất của chế độ ta".
Trên thực tế trong những năm lãnh đạo cách mạng Việt nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, Đảng ta đã cố gắng làm nhuều việc theo hướng đó. Dẫu sự
nghiệp chăm lo hạnh phúc cho con người chưa có nhiều thành công như mong
muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao động ở
nước ta còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước, song đã phần nào đáp
ứng được nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động. Chăm lo cho
hạnh phúc của nhân dân, "việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có
hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi


đó là nhiệm vụ trung tâm. Lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng CNXH,
trước hết cần có những con người XHCN"- đã trở thành tư tưởng quán xuyến
toàn bộ sự nghiệp của Đảng ta. Với tư cách là Đảng cầm quyền, ngay từ đầu mọi
chủ trương chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Liên tục trong những năm gần đây, Đảng
ta đã ban hành hàng loạt nghị quyết về phương hướng mục tiêu, điều kiện và
giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp chăm sóc,
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát triển con người Việt nam toàn
diện. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH,
Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố
con người trên cơ sở bảo đảm công bằng bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
nhân dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần giữa du lịch nhu cầu trước mắt đến chăm lo lợi ích lâu
3


dài; giữa cá nhân với cộng đồng xã hội" . Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó
chính là thể hiện tư tưởng con người, của mục tiêu phát triển con người Việt
nam toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay. Cụ thể hoá đường lối chiến lược đó, "tại Hội nghị lần thứ tư
(từ 4-14/1/1993), Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã thảo luận và ra Nghị
quyết về một số vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống nhất là đời sống tinh
thần và sức khoẻ của nhân dân. Đó là những vấn đề về giáo dục và đào tạo, văn
hoá, nghệ thuật, về công tác bảo vệ nâng cao sức khoẻ của nhân dân, công tác
4

dân số kế hoạch hoá gia đình, công tác đối với thanh niên, thiếu niên" . Sau đó
tại Hội nghị lần thứ VII (từ 25-30/7/1994) Đảng ta đã thông qua Nghị quyết
"Đẩy tới một bước sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh". Và mới đây, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, đường lối đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu đó đã được
khẳng định là "bước ngoặt rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới ".
CNH-HĐH ở nước ta hiện nay trước hết là nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho CNXH, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng bộ và bền vững.
Khi chúng ta còn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, thì trước tiên phải chăm lo


phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt những
vấn đề xã hội, không tạo ra sự cân đối hài hoà giữa kinh tế và xã hội. Thực tiễn
Việt nước ta và kinh nghiệm lịch sử cho thấy, ngay từ bước đầu tiên của hoạch
định chiến lược và định hướng phát triển nhất thiết phải bảo đảm tính đồng bộ
giữa kinh tế và xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội, phát triển văn hoá nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động...
"Trong khi quan tâm đến ngày mai, cần phải nhấn mạnh rằng mọi kế hoạch xây
dựng, phát triển nhất thiết phải gắn liền với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát
triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân,

mỗi gia đình ngày hôm nay".

5

Việc đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu
sắc, đầy đủ gí trị lớn lao và ý nghiã quyết định của nhân tố con người: chủ thể
của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa tinh thần. Phải có
sự thay đổi sâu sắc cách nhìn cách nghĩ, cách hoạt động của con người và coi
việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt nam hiện đại như một cuộc
cách mạng, cách mạng con người. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự
việc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, CNH-HĐH đất nước và cách
mạng con người được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự
nghiệp xây dựng đó.
2. "Phát triển con người Việt nam toàn diện"
Đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự
nghiệp CNH-HĐH mà chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao
động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, thì chất lượng của người
lao động là nhân tố quyết định. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao
động chất lượng cao, chúng ta không thể phát triển kinh tế đưa nước ta thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn lạc hậu kinh tế mà chất
lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp CNH-HĐH, thì một


nước đang ở tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng
một chính sách phát triển lâu bền có tầm nhìn xa trông rộng-phát triển con người
nâng cao chất lượng người lao động.
CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN không thể không "xuất phát

từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt nam
toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công
bằng, nhân ái" "tốt đẹp và tiến bộ" "để bồi dưỡng phát huy nhân tố con người,
đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và
đời sống xã hội" và chúng ta có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá
trình hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân
số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị
6

truyền thống và bản sắc dân tộc" . Chỉ có trên cơ sở đó, khi phát triển nền kinh
tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, chúng ta mới có thể tránh được "nguy cơ tha
hoá" không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc,
không đánh mất bản thân mình.
Nếu CNH-HĐH là vì mục tiêu phát triển con người toàn diện thì con
người ở đây không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất, mà còn
với tư cách một công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành
viên trong cộng đồng dân tộc và nhân loại, một con người có trí tuệ, có trách
nhiệm trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Đó không chỉ là đội ngũ những
người lao động có năng suất cao, những nhà khoa học giỏi các chuyên gia kỹ
thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà
còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và
nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bố vì sự nghiệp chung.
III. Nguồn nhân lực - động lực của CNH - HĐH đất nước
1. Thực trạng về nguồn lực con người Việt nam
Như ta đã biết thực trạng nguồn lực con người là cơ sở thực tiễn quan
trọng để tìm ra những phương hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu
nguồn lực con người. Xem xét nguồn lực con người nước ta hiện nay không chỉ
căn cứ chỉ tiêu về số lượng, những mặt tícsh cực cũng như hạn chế, mà còn phải



thấy được tình hình phát triển con người trong hoạt động thực tiễn. Cho nên
chúng ta cũng cần phải hiểu rõ những điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội đang
tác động đến sự phát triển nguồn lực con người và dự báo xu hướng phát triển
của nguồn lực con người trong tương lai. Phải thấy cả những biến đổi trong
thang giá trị của nó ở thời kỳ đổi mới nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN.
Nước ta đang ở trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước cho nên đã có rất nhiều
đổi mới về nền kinh tế, về mặt chính trị mà chúng ta còn thu được những thành
tựu to lớn trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, đào tạo... Điều đó được
khẳng định:
"Đời sống vật chất phần lớn nhân dân được cải thiện... trình độ dân trí và
mức hưởng thị văn hoá của nhân dân được nâng lên... Người lao động được giải
phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm
chủ và tính năng động sánh tạo chủ động hơn trong việc làm, tăng thu nhập,
tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội"

7

Tuy vậy, công cụộc CNH-HĐH đất nước lại đang đặt ra những yêu cầu
bức bách và sau rộng hơn. Nước ta còn nghèo nàn đang trong tình trạng kém
phát triển, trong khi đó lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm
trong tiêu dùng, gây nên những ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống
của nhân dân lao động, sự lúng túng và buông lỏng trong lãnh đạo xây dựng
quan hệ sản xuất mới, sự yếu kém của quản lý Nhà nước về kinh tế xã hội là
những yếu tố cản trở việc phát huy sự phát triển con người nước ta trong những
năm qua. Trên lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều tiêu cực và còn nhiều vấn đề phải
giải quyết, đó là: nạn tham nhũng; sự phân hoá giàu nghèo; thiếu việc làm; chất
lượng giáo dục, đào tạo, phục vụ y tế thấp; tình trạng ô nhiễm môi trường sinh
thái, văn hoá phẩm đồi bại đang lan tràn và các tệ nạn xã hội phát triển... Những
vấn đề xã hội nhức nhối này đang hàng ngày hàng giờ ảnh hưởng tới sự phát

triển nhân cách con người Việt nam, nhất là đối với thế hệ trẻ những người chưa
có kinh nghiệm, chưa vững vàng trong cuộc sống.
2. Phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện nay


CNH-HĐH là xu hướng phát triển tất yếu ở nước ta hiện nay
để đi tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. CNH-HĐH
không đơn giản chỉ là công cụộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi
con người nhằm làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Chính
vì vậy mà đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng,
thực sự là động lực của sự phát triển
Nước ta với khoảng 78 triệu dân thì lực lượng lao động hiện có khoảng 37
triệu người đang ở độ tuổi lao động. Cùng với đó thì con người Việt nam có ưu
điểm nổi trội đã mang trong mình những phẩm chất truyền thống quý báu: anh
hùng trong chiến đấu, cần cù, bền bỉ dẻo dai trong lao động, có khả năng sáng
tạo và thích ứng nhanh...Những phẩm chất này thể hiện trình độ, năng lực trí tuệ
của người lao động phù hợp với tốc độ phát triển con người hiện đại.
Tuy nhiên, lực lượng lao động dồi dào cùng với nhiệt tình cách mạng thì
chưa đủ để tiến hành CNH-HĐH. Sự phát triển của đất nước hiện nay đòi hỏi
phải có con người có trí tuệ khoa học, trình độ chuyên môn cao; có ý chí chiến
thắng nghèo nàn lạc hậu; tính năng động tháo vát luôn thích ứng với hoàn cảnh;
có ý thức pháp luật, bản lĩnh cao, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh...
Song, hạn chế của nguồn lực con người Việt nam với tư cách là động lực của
CNH-HĐH thể hiện ở cả về số lượng và chất lượng (chất lượng ở đây được biểu
hiện gồm cả những chỉ số về thể lực, trí tuệ và những phẩm chất nhân cách cần
thiết khác).

7

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII.



Hiện nay ở nước ta mới chỉ có khoảng 5% dân ở độ tuổi từ 18-23 đang
học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; trong
toàn bộ đội ngũ lao động mới chỉ có gần 12% qua đào tạo; số lượng công nhân
kỹ thuật và cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật đến nay có gần 2,5 triệu
người, trong đó 20% trình độ đại học, cao đẳng, 0,5% trình độ sau đại học. Nhìn
chung mặt bằng dân trí ở nước ta còn thấp, số người được đào tạo có trình độ tay
nghề cao cũng như có học vấn đại học và sau đại học còn quá ít, còn thiếu nhiều
cán bộ khoa học-công nghệ và chuyên gia giỏi. Trong khi đó, do nhiều nguyên
nhân, tình trạng hẫng hụt về kiến thức, bất cập về năng lực chuyên môn nghiệp
vụ trong đội ngũ cán bộ, viên chức còn khá phổ biến. Đang có tình trạng "lão
hoá" cả về tuổi tác và trí thức ở đội ngũ cán bộ khoa học, sự yếu kém về khả
năng thực hành, khả năng ứng dụng kiến thức vào cuộc sống của tuổi trẻ. Bên
cạnh đó quá trình chuyển đổi nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế đang mang cả mặt tích cực và tiêu cực vào quá trình
chuyển đổi biến tâm lý, ý thức tư tưởng, đạo đức con người Việt nam. Những
điều kiện sống và làm việc còn khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần,
vấn đề vệ sinh môi trường và bảo hộ lao động chưa tốt... đã dẫn đến tình trạng
ốm đau thiếu dinh dưỡng, bệnh nghề nghiệp và tai nạn ở mức cao.
Chính vì thế mà yêu cầu của công cụộc CNH-HĐH, phát huy nguồn lực
con người Việt nam đang đòi hỏi cải thiện cả về mặt trí lực lẫn thể lực cho
người lao động hiện tại và tương lai. Như vậy hiện nay lực lượng lao động của
ta dồi dào, nhưng nguồn lao động với tính cách là động lực của CNH-HĐH thì
còn ít về số lượng, kém về chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước.

Chương III
Định hướng và giải pháp cho con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước



I. Định hướng cho con người Việt nam phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH
đi vào thể kỷ 21.
Đất nước chúng ta dang trong đà phát triển hướng vào mục đích: "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, theo định hướng XHCN" vì sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước con người Việt nam-mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế-xã hội, cần phấn đấu theo những định hướng giá trị cơ bản là:
Con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ
lịch sử trọng đại, là CNH-HĐH đất nước, đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn, lạc
hậu bằng ý chí quật cường và tài năng, trí tuệ của con người Việt nam, bằng
khoa học và công nghệ; con người có ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và
tiền đồ XHCN của đất nước-con người đậm đà bản sắc dân tộc, có tinh thần yêu
nước, yêu độc lập tự do, tự hào dân tộc, tự lực tự cường, có tinh thần hoà hợp,
hoàn bình hữu nghị.
Con người có bản chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ giữa
người vói người; con người có ý thức cộng đồng, có ý thức trách nhiệm đối với
đất nước, với gia đình, với bản thân; có quan hệ đầy tình nghĩa, coi trọng chữ
tín, có tinh thần làm chủ;
Con người đầy tình nghĩa, coi trọng chữ tín, có tinh thần làm chủ;
Con người khoa học; phát triển cao về trí tuệ, ham học hỏi tiếp thu tinh
hoa nhân loại, có ý thức nghiên cứu, khai thác di sản văn hoá dân tộc và phương
Đông, có tư duy tổng hợp, linh hoạt, sáng tạo;
Con người có thể lực cường tráng, có kiến thức và kỹ năng rèn luyện thân
thể, giữ gìn sức khoẻ, biết kết hợp làm việc có năng suất cao với nghỉ ngơi, giải
trí, biết tổ chức cộng sản có văn hoá phong phú, lành mạnh để lao động bền bỉ,
dẻo dai;
Con người công dân: có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; hiểu
biết và tự giác chấp hành pháp luật và góp phần xây dựng một Nhà nước pháp
quyền; có ý thức sâu sắc về công bằng xã hội, về dân chủ tự do, về quyền

con người, về bảo vệ môi trường;


Con người có bản sắc riêng có hoài bão, có bản lĩnh tự chủ năng động,
sáng tạo, có ý chí vươn lên,cạnh tranh lành mạnh, đồng thời có tinh thần tôn
trọng và hợp tác với người lành mạnh, đồng thời có tinh thần tôn trọng và hợp
tác với người khác, với tập thể vì sự nghiệp chung.
II. Giải pháp cho nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH-HĐH
1. Quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của người lao động.
Trong sản xuất cũng như hoạt động xã hội, con người luôn luôn bị kích
thích, bị thôi thúc bởi hàng loạt các động lực. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế
tuy dã ra khỏi khủng hoảng, và bước vào thời kỳ phát triển mới, nhưng đời sống
vật chất người lao động còn khó khăn, nên cần có sự quan tâm đúng mức đối với
nhu cầu và lợi ích của người lao động, và trước hết là lợi ích kinh tế. Nước ta
trước đây đã có lúc kêu gọi nhân dân "thắt lưng buộc bụng" để xây dựng CNXH
mà ít chú ý đến lợi ích kinh tế của họ, cho nên ở chừng mực nhất định, chúng ta
chẳng những đã không kích thích được người lao động hăng say sản xuất, mà có
khi ngược lại còn làm cho họ quay lưng lại với sản xuất. Chúng ta đã quen rằng,
những nhu cầu trước mắt bảo đảm sự tồn tại của người lao động chính là những
động lực to lớn thúc đẩy họ làm việc. Vì hế mà việc quan tâm đúng mức, giải
quyết thoả đáng những vấn đề lợi ích kinh tế cho người lao động là một vấn đề
quan trọng tạo ra động lực để phát huy tính năng động sáng tạo của người lao
động.Ty nhiên, Nhà nước cũng phải có chính sách để tác động hợp lý tới các lợi
ích khác, đặt lợi ích kinh tế trong tổng thể lợi ích, kết hợp hài hoà giữa lợi ích
kinh tế với lợi ích tinh thần, lợi ích chung với lợi ích riêng, lợi ích trước mắt với
lợi ích lâu dài.
2. Xây dựng môi trường và xã hội, tạo điều kiện để
phát huy yếu tố con người



Con người là chủ thể, đồng thời cũng là của sự vận động xã hội, của chế
độ xã hội. Vì vậy, muốn phát huy được yếu tố con người cần phải có môi trường
thích ứng. Vì thế, việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên
và chủ yếu nhất là ở khâu xoá bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích
cực, chủ động sáng tạo của con người; đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới
bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về các mặt sau:
Thứ nhất: thực hiện chính sách bảo đảm các nhu cầu và lợi ích của con
người, kết hợp hài hoà với tất cả các loại lợi ích trong đó lợi ích kinh tế và lợi
ích cá nhân chính đáng được quan tâm đúng mức hơn.
Thứ hai: không chính trị cải tạo quan hệ sản xuất mà cùng với nó, chúng
ta phải đổi mới và đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng cho quần chúng nhân
dân, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tỷ lệ tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động.
Thứ ba: nâng cao năng lực quản lý Nhà nước thông qua các
hệ thống chính sách để tạo thành "hành lang pháp luật" cho việc phát huy yếu tố
con người trong hoạt động kinh tế.
Thứ tư: tự đề cao và kế thừa truyền thống dân tộc, phải hướng tới một
phong cách sản xuất, kinh doanh Việt nam với mục tiêu văn minh, công bằng,
hiệu quả. Bằng cách nêu những gương sản xuất kinh doanh giỏi, lên án lối làm
ăn chỉ biết mục tiêu duy nhất là lợi nhuận trước mắt, tham nhũng coi thường đạo
đức, huỷ hoại môi trường.

3. Đổi mới và tăng cường chiến lược đào tạo con người.
Giáo dục và đào tạo trực tiếp giúp con người nâng cao trí tuệ hiểu biết và
khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Giáo dục đào
tạo giúp chúng ta tạo ra đội ngũ lao động lành nghề, những nhà quản lý giỏi...
Đó là những con người lao động với hàm lượng trí tuệ ngày càng cao. Đối với
nước ta bước vào thời kỳ CNH-HĐH theo định hướng XHCN, cần phải tăng



cường kiến thức, đào tạo đội ngũ trí thức có trình độ để thực hiện nhiệm vụ tăng
tốc, nhảy tắt, đón đầu, làm chủ những ngành sản xuất mũi nhọn, công nghệ tiên tiến,
khắc phục tình trạng thừa lao động nhưng lại thiếu lao động có tay nghề và đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật giỏi. Mặt khác ở nước ta, mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn
với "định hướng xã hội chủ nghĩa", do đó giáo dục và đào tạo người lao động có kiến
thức khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất cần phải giáo dục quan điểm Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm được đường lối chủ trương của Đảng, vận dụng chính sách
của Nhà nước vào phát triển kinh tế. Vì vậy, giáo dục và đào tạo đội ngũ người lao
động vừa có kiến thức vừa có chuyên môn giỏi là quốc sách hàng đầu trong chiến lược
phát triển con người và có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân.

KẾT LUẬN

Nước ta bắt đầu đi vào CNH từ năm 1960 theo đường lối do Đại hội đại
bỉeu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra. Đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục.
Nhưng hiện nay, hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và trong nước, trình độ phát triển
kinh tế nước ta khác nhiều so với năm 1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn phải giải quyết như: CNH có còn là tất yếu khách quan nữa không?
Đánh giá thế nào về thực trạng CNH ở nước ta trong những năm qua? Mục tiêu,
nội dung, mô hình CNH gắn với HĐH ở nước ta như thế nào?... Song vấn đề
quan trọng nhất là định hướng CNH-HĐH phải phát triển vì con người, vì cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động. Mọi sự phát triển
của xã hội trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá đều do con người
quyết định và hướng về con người; vì cuộc sống ngày một tốt dẹp hơn của con
người, mỗi gia đình trong cộng đồng dân tộc Việt nam. CNH-HĐH vì mục tiêu
đó phải lấy sự phát triển con người Việt nam làm thước đo chung.
Nhưng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta không thể không
lưu ý tới lời cảnh tỉnh của Mác về nguy cơ tha hoá con người trong kinh tế hàng



hoá. Ngày nay sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, CNH-HĐH xã hội


nhất thiết phải gắn liền với cội nguồn dân tộc, với những giá trị truyền thống.
Chỉ có thế chúng ta mới tránh khỏi nguy cơ tha hoá làm mất bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình.
Chiến lược phát triển con người trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
cũng phải được hoạch định theo hướng đó. Thêm vào đó nó cần được xuất phát
từ quan niệm của Mác về tính tất yếu của việc kết hợp hài hoà sự phát triển tự
do của cá nhân với thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong
cộng đồng. Bởi lẽ chỉ có trong cộng đồng, trong xã hội thì mỗi người mới có
điều kiện để phát triển khả năng của mình. Như vậy xuất phát từ tư tưởng của
Mác về sự phát triển vì con người, vì sự nghiệp giải phóng con người, giải
phóng nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng sự nghiệp CNH-HĐH xã hội
vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" ở nước hiện nay
là một cuộc cách mạng con người. Con người không chỉ là nguồn nhân lực cho
sự nghiệp CNH-HĐH, mà còn là động lực chính thúc đẩy quá trình CNH-HĐH
đất nước, là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới theo hướng
đẩy mạnh CNH-HĐH.
Vậy việc phát triển cần phải song song phát triển manh mẽ nguồn lực con
người trong phát triển xã hội, huy động tối đa "chất xám" của các nhà khoa học,
các nhà quản lý thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và người Việt nam ở
nước ngoài vào mục tiêu phục vụ CNH-HĐH đất nước. Muốn vậy Đảng và Nhà
nước ta cần có các biện pháp, chính sách đúng đắn trong việc chỉ đạo thực hiện,
có chế độ khuyến khích nhân tài, ngăn chặn xu hướng "chảy chất xám" đang
diễn ra ở nước ta hiện nay... Có như vậy chúng ta mới gặt hái được những thành
công lớn trong công cụộc CNH-HĐH đất nước.
Là một công dân của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và là một cán bộ
ngân hàng trong tương lai em ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình là

góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.


Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Giáo trình Triết học Mác-Lênin
NXB Chính trị quốc gia
Giáo trình Kinh tế chính trị học
4. Con người và nguồn lực con người trong phát triển.
5. Tạp chí Triết học.
Số 4, tháng 12-97. Số 1,tháng 12 – 98. Số 5, tháng 10 - 1999.
6. Vẫn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt nam
đến năm 2000.
7. Niên giám thống kê. Năm 2000.



×