Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý – thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.02 KB, 61 trang )

TÓM LƯỢC
Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng được hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
thế giới. Sự liên kết về kinh tế và thương mại không chỉ diễn ra ở cấp độ song phương,
đa phương mà đã có sự gắn kết toàn cầu. Với chủ trương đổi mới, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã đề ra đường lối, từng bước xây dựng và hoàn thiện thể chế, hoàn thiện
pháp luật để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế. Kể từ khi đổi mới cho đến nay, các văn bản pháp luật với số lượng lớn đã
được ban hành. Theo đó, các chủ thể tham gia vào nhiều giao dịch liên quan đến nhiều
lĩnh vực không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong nước mà còn phải tuân thủ
pháp luật quốc tế. Trong hoạt động của mình, việc các chủ thể không nắm bắt đầy đủ,
không đồng bộ các quy định của pháp luật dẫn đến không ít các khó khăn, làm mất đi
cơ hội hoặc bị những sai phạm thậm chí phải chịu những hậu quả pháp lý nặng nề. Do
vậy, các tổ chức, cá nhân rất cần sự an toàn về mặt pháp luật trong hoạt động của mình
và ngày càng phát sinh nhu cầu có được sự trợ giúp pháp lý thường xuyên. Nhu cầu ấy
của xã hội được đáp ứng thông qua các DVPL mà các chủ thể có đủ điều kiện được
pháp luật cho phép có thể cung ứng thông qua HĐDVPL.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng
HĐDVPL tác giả đã lựa chọn đề tài: Pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý – thực
tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân làm đề tài khóa luận của mình.
Khóa luận tốt nghiệp có nội dung chính gồm: Phần mở đầu và 3 chương
Phần mở đầu: Tổng quan nghiên cứu đề tài. Phần này nêu lên tính cấp thiết của
đề tài, tính hình nghiên cứu của các công trình những năm trước, mục tiêu nghiên cứu,
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý. Trong chương 1,
tác giả đã trình bày lý thuyết liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý, cơ sở ban hành
và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý, một số nguyên tắc cơ
bản của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý và thực
tiễn thực hiện tại văn phòng luật sư Vạn Xuân. Trong chương 2, tác giả đã trình bày
tổng quan về Văn phòng luật sư Vạn Xuân và tập trung làm rõ thực trạng quy định của
pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý cũng như thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật


sư Vạn Xuân, từ đó tổng kết lại kết quả nghiên cứu.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân. Nội
dung chương 3 phân tích về các kết luận đưa ra được từ kết quả nghiên cứu, trên cơ sở
đó tìm ra được những kết quả đạt được và những hạn chế. Từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ
pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân.

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn Ban giám
hiệu trường Đại học Thương Mại, các thầy cô trong Khoa Kinh tế - Luật, Bộ môn Luật
Căn Bản đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em hoàn thành bài khóa luận này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Vinh
Hương, cảm ơn cô đã dành thời gian, tận tình quan tâm, giúp đỡ em hoàn thành bài
khóa luận.
Bên cạnh đó, trong thời gian thực tập tại văn phòng luật sư Vạn Xuân, em đã
nhận được sự giúp đỡ của trưởng văn phòng luật sư, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình
của các cô chú, anh chị trong văn phòng đã giúp em tìm hiểu thực tế về môi trường
làm việc trong lĩnh vực chuyên ngành của mình và tạo điều kiện để em có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong quá trình làm khóa luận vì trình độ của bản thân và thời gian thực tập còn
hạn chế nên em kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ phía các thầy cô giáo để
kiến thức của em được hoàn thiện và bài khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

2



MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài......................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận...................................................................4
4.2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận.....................................................................4
4.3. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................5
6. Kết cấu của khóa luận.............................................................................................5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG.................................6
DỊCH VỤ PHÁP LÝ....................................................................................................6
1.1. Khái quát chung về hợp đồng dịch vụ pháp lý...................................................6
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng dịch vụ pháp lý...........................................................6
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý..........................................................8
1.1.3. Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý...............................................................11
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
pháp lý........................................................................................................................ 12
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý............12
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý.......................13
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
pháp lý........................................................................................................................ 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI VĂN PHÒNG LUẬT

SƯ VẠN XUÂN..........................................................................................................18
2.1. Tổng quan về văn phòng Luật sư Vạn Xuân và các nhân tố ảnh hưởng đến
việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng...................18
2.1.1. Tổng quan về văn phòng luật sư Vạn Xuân...................................................18
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ
pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân.................................................................18
3


2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý..................20
2.2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý......20
2.2.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý........27
2.2.3. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về sửa đổi và chấm dứt hợp đồng dịch vụ
pháp lý........................................................................................................................ 28
2.2.4. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
dịch vụ pháp lý...........................................................................................................31
2.3. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại
Văn phòng luật sư Vạn Xuân....................................................................................34
2.3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp
lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân..........................................................................34
2.3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng dịch vụ
pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân.................................................................36
2.3.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật điều chỉnh về sửa đổi và chấm dứt hợp đồng
dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân....................................................37
2.3.4. Thực tiễn thực hiện pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp trong
hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân...................................38
2.4. Đánh giá chung...................................................................................................38
2.4.1. Về thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý....................38
2.4.2. Về thực trạng thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý của Văn phòng luật sư
Vạn Xuân.................................................................................................................... 41

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
PHÁP LÝ TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN XUÂN...........................................43
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý................43
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý.......45
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng
dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Vạn Xuân....................................................48
3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................51
KẾT LUẬN................................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
LTM
LLS
DVPL
HĐDVPL
GATS
WTO
TCHNLS
TNHH
TPL

Bộ luật Dân sự
Luật thương mại
Luật Luật sư

Dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý
General agreement on Trade in Serveses - Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ
World Trade organization
Tổ chức hành nghề luật sư
Trách nhiệm hữu hạn
Thừa phát lại

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động dịch vụ pháp lý
ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong việc thông thương hoá các hoạt
động thương mại. Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh
tế, nhu cầu về cung cấp dịch vụ pháp lý đã phát triển liên tục, không ngừng, đặc biệt là
trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong thời gian qua đã
khẳng định được vị trí cần thiết của mình trong số nhiều loại hình dịch vụ khác của
nền kinh tế.
Theo chủ trương, đường lối của Đảng, hoạt động dịch vụ pháp lý cần được định
hướng phát triển như một loại hình dịch vụ thương mại và cần thiết phải tạo lập một
thị trường riêng, sôi động, lành mạnh, hiệu quả. Điều này cũng phù hợp các quy định
của GATS/WTO về dịch vụ pháp lý.
Tuy nhiên, để hoạt động dịch vụ pháp lý phát triển đúng vai trò, vị trí của nó, đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội, cần thiết phải có một hành lang pháp lý cụ
thể, vững chắc, làm cơ sở để nó hoạt động. Thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam về
dịch vụ pháp lý chưa đáp ứng được điều này. Cụ thể, pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở
Việt Nam hiện nay còn chưa hoàn chỉnh và được quy định ở rất nhiều văn bản pháp

luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Luật luật
sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012). Các đạo luật chuyên ngành và một số văn bản dưới
luật, bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp DVPL ký
kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL. Các văn bản pháp
luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ không quy định trực tiếp về
HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số trường hợp cùng một vấn đề
nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các văn bản khác nhau và những
quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, có nhiều vấn đề lại không
được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng hoặc quá chung
chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể trong HĐDVPL, cho hoạt động
QLNN và hoạt động giải quyết tranh chấp về HĐDVPL. Trong quá trình thực tập tại
văn phòng luật sư Vạn Xuân, em thấy rằng đội ngũ luật sư đã gặp phải rất nhiều khó
khăn trong việc thực hiện các quy định của pháp luật trong các hoạt động liên quan
đến HĐDVPL.
Trước những yêu cầu cấp thiết trên, với đề tài “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ
pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân” , tác giả đã tiến
hành tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về các vấn đề lý luận
của HĐDVPL; thực trạng các quy định của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ


pháp lý ở nước ta hiện nay và cụ thể là Văn phòng luật sư Vạn Xuân, từ đó đưa ra một
số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng
dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, DVPL
đã được ghi nhận, cho phép thành lập và hoạt động (tuy chỉ đối với hoạt động của luật
sư) và chỉ được xác lập trở lại và phát triển khá mạnh mẽ từ hơn hai thập kỷ qua.
Cho đến hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn đề, khía
cạnh khác nhau của DVPL và HĐDVPL với phạm vi nghiên cứu khác nhau, như giáo
trình, sách chuyên khảo, chuyên đề, nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức những bài

viết đăng trên tạp chí, đăng trên kỷ yếu hội thảo và đề tài nghiên cứu của một số cá
nhân, tổ chức. Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu một cách hệ thống về hợp
đồng dịch vụ pháp lý. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
hợp đồng dịch vụ pháp lý đã được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua như sau:
- Luận án tiến sĩ “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị
Vịnh, Học viện khoa học xã hội (2014) đã tiếp cận nghiên cứu pháp luật HĐDVPL
dựa trên các nội dung cơ bản bao gồm: Các quy định về chủ thể, về nội dung, về thực
hiện, về điều kiện có hiệu lực và tránh nhiệm do vi phạm HĐDVPL. Tác giả đã đưa ra
những luận cứ logic để bước đầu xây dựng hệ thống lý luận về DVPL và thương mại
DVPL cũng như thực tiễn về các quan hệ cung ứng DVPL, trên cơ sở đó luận án xây
dựng hệ thống lý luận khoa học về pháp luật, đưa ra các luận cứ khoa học, tính tất yếu
khách quan đối với việc thiết lập chế định pháp luật về HĐDVPL. Luận án cũng đánh
giá mức độ phù hợp của pháp luật HĐDVPL với thực tiễn hoạt động DVPL đồng thời
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng tư vấn pháp lý ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Mai Anh, Đại học quốc gia Hà Nội (2015) đã tập trung nghiên cứu các quy
định của pháp luật về hợp đồng tư vấp pháp lý, xây dựng khái niệm về hợp đồng tư
vấn pháp lý đối chiếu với thực tiễn và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về hợp đồng tư vấn pháp lý.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề
luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Bình
Phương, Học viện khoa học xã hội Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (2017)
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về HĐDVPL giữa TCHNLS và doanh
nghiệp. Đề tài đã nghiên cứu sâu ở phạm vi chủ thể và pháp luật liên quan làm cơ sở
để thực hiện đồng thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ
thực tiễn tỉnh Tây Ninh” của tác giả Đinh Thái Hoàng, Học viện khoa học xã hội Viện


hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (2018) . Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn

đề lý luận, quy định pháp luật về việc giao kết và thực hiện HĐDVPL và thực trạng
việc giao kết và thực hiện HĐDVPL từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh.
- Bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịch vụ pháp lý phù hợp tiến trình
hội nhập quốc tế” của TS. Phan Trung Hoài đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 2 năm 2007, cho rằng DVPL chỉ có thể do luật sư thực hiện.
- Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”
của TS. Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên đề Pháp
luật về Doanh nghiệp. Đã xác định thời điểm xuất hiện thuật ngữ DVPL ở Việt Nam,
khẳng định DVPL là hoạt động rất đặc thù so với các loại dịch vụ thông thường khác
và xác định phạm vi DVPL ở Việt Nam gồm DVPL của luật sư và DVPL của tổ chức,
đoàn thể xã hội.
Tóm lại, các công trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có liên quan
đến HĐDVPL ở những khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc
nghiên cứu pháp luật HĐDVPL. Tuy nhiên, do có những mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu khác nhau nên hầu hết các tác giả vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu các qui định của
pháp luật về HĐDVPL như giao kết, thực hiện, sửa đổi và chấm dứt, về giải quyết
tranh chấp trong HĐDVPL, dẫn đến các thông tin về HĐDVPL còn bị hạn chế, nhiều
bất cập còn tồn tại trong thực tiễn.
Nhằm hiểu và thực hiện các qui định của pháp luật về HĐDVPL, tác giả đã đặt ra
thêm một số vấn đề mà các công trình trước chưa đề cập đến và đồng thời chỉ ra một
số thực trạng trong việc thực hiện các qui định pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý
của Văn phòng luật sư Vạn Xuân, các đề xuất giải pháp hoàn thiện các qui định của
pháp luật về HĐDVPL nói chung và việc thực hiện pháp luật của Văn phòng luật sư
Vạn Xuân nói riêng.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Qua thời gian tìm hiểu thực tế về các hợp đồng dịch vụ pháp lý của Văn phòng
luật sư Vạn Xuân cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những
hạn chế nhất định trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ
pháp lý. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận của HĐDVPL cũng như xem xét, khảo cứu
thực trạng các qui định pháp luật, thực tiễn áp dụng hợp đồng dịch vụ pháp lý là một

điều hết sức cần thiết, không chỉ để giúp văn phòng có cơ hội hiểu hơn về loại hợp
đồng dịch vụ này mà còn giúp cơ quan nhà nước và các tổ chức hữu quan nghiên cứu
để hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Bên canh đó, việc tìm ra giải pháp hoàn thiện những hạn chế trên sẽ trở thành
đòn bẩy đối với văn phòng, giúp văn phòng thực sự phát huy vai trò của mình, gây


dựng được thương hiệu, uy tín và niềm tin cho khách hàng khắp mọi miền đất nước,
đặc biệt là người dân thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Do vậy để làm sáng tỏ và cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu về hợp đồng dịch vụ
pháp lý cho Văn phòng luật sư Vạn Xuân trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý và có những biện pháp để hoàn thiện trong việc thực
hiện các qui định của pháp luật về HĐDVPL, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Pháp luật
về hợp đồng dịch vụ pháp lý - Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Vạn
Xuân” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo để Văn
phòng luật sư Vạn Xuân hoàn thiện năng lực pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
về hợp đồng dịch vụ pháp lý.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là: Các quan điểm, tư tưởng luật
học về DVPL và HĐDVPL; những văn bản pháp luật điều chỉnh về DVPL và
HĐDVPL; thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật HĐDVPL ở Việt nam nói chung
và Văn phòng luật sư Vạn Xuân nói riêng.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Việt
Nam để hiểu rõ một cách hệ thống và toàn diện các quy định của pháp luật về vấn đề
này.
- Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý tại
Văn phòng luật sư Vạn Xuân. Từ đó, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong qui

định của pháp luật và những hạn chế của Văn phòng.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật
hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân nói riêng, cũng như của các
tổ chức hành nghề luật sư nói chung.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Khóa luận nghiên cứu pháp luật về HĐDVPL kể từ khi
LTM 2005, BLDS 2015, LLS 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) ban hành và có hiệu
lực cho đến nay.
- Phạm vi về không gian: Tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân và các tổ chức, cá
nhân có đủ điều kiên hành nghề DVPL chỉ trong giới hạn lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi về nội dung: Trong hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ pháp lý
nói riêng thì nội dung của hợp đồng bao gồm rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, trong bài


khóa luận tốt nghiệp của mình, tác giả xin phép được giới hạn phạm vi nghiên cứu vào
những vấn đề sau: Việc giao kết và thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý;
Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý; Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
dịch vụ pháp lý và thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là phương pháp luận khoa
học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ khóa luận để đánh giá khách quan sự thể
hiện của các qui định của pháp luật về HĐDVPL. Khóa luận cũng được nghiên cứu dựa
trên đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển thương mại dịch vụ và
hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước ta; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta về đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp; lý thuyết về quan
hệ pháp luật, lý thuyết về hợp đồng dân sự, lý thuyết về hợp đồng dịch vụ thương mại.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp

lịch sử cụ thể và phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế nhằm minh
chứng cho những lập luận, cho những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của khóa
luận và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử được sử dụng
xuyên suốt khóa luận để phân tích, đối chiếu so sánh những quy định pháp luật về
HĐDVPL, để thấy sự phát triển của pháp luật về HĐDVPL của nước ta cũng như
những điểm tương đồng và khác biệt, những hạn chế, bất cập của pháp luật về
HĐDVPL của Việt nam so với các quy định của WTO và pháp luật quốc tế.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp giữa các phương pháp
trong từng phần của khoá luận. Đối với mỗi mục thì có một số phương pháp nghiên
cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu. Cụ thể, trong quá trình nghiên cứu khóa
luận đã sử dụng một số phương pháp như phương pháp tiếp cận, nghiên cứu tài liệu,
thu thập thông tin để làm rõ những nội dung chủ yếu trong chương 1, phương pháp
quan sát và khảo cứu thực tiễn áp dụng cho chương 2, phương pháp phân tích – tổng
hợp cho chương 3.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, kết luận, nội dung khóa luận kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý và thực
tiễn thực hiện tại văn phòng luật sư Vạn Xuân
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Vạn Xuân


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1.1. Khái quát chung về hợp đồng dịch vụ pháp lý
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng dịch vụ pháp lý
Về khái niệm hợp đồng:
Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên

về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, định nghĩa hợp đồng
theo BLDS năm 2015 tuy ngắn gọn nhưng phản ánh đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ
bản của hợp đồng, thể hiện đúng, đầy đủ bản chất của hợp đồng.
Về khái niệm hợp đồng dịch vụ :
Theo quy định tại Điều 513 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên
thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ ”. Như
vậy, BLDS năm 2015 đã thay cụm từ “bên sử dụng dịch vụ” cho cụm từ “bên thuê
dịch vụ” của Điều 518 BLSD năm 2005. Đây là một sự thay đổi phù hợp vì nó thể hiện
sự tương quan về mục đích mà các bên hướng tới trong hợp đồng.
Với khái niệm đã được quy định như trên thì HĐDV là một loại hợp đồng thông
dụng, đối tượng của HĐDV phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp
luật cấm, không trái đạo đức xã hội.
Khái niệm về dịch vụ pháp lý:
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý thì DVPL là: “Loại hình dịch
vụ do tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà
nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết,
được tư vấn hoặc được giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội”
[56, tr. 218]
Hiện nay các DVPL luôn gắn liền với pháp luật, nếu nhà nước cung ứng DVPL
thì sẽ thông qua các đơn vị mà mình thành lập chẳng hạn như Trung tâm trợ giúp pháp
lý Nhà nước cung ứng DVPL miễn phí cho các đối tượng theo quy định của pháp luật
hay các Phòng công chứng là một đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp mà không phải
là cơ quan nhà nước có chức năng cung ứng dịch vụ liên quan đến công chứng. Các tổ
chức tư cung ứng DVPL như TCHNLS, các Trung tâm trọng tài thương mại, các tổ
chức Thừa phát lại hay các Trung tâm tư vấn pháp luật cũng mang tính tổ chức xã hội
nghề nghiệp. Mặt khác, hiện nay theo quy định của LLS thì luật sư được hành nghề
với tư cách cá nhân.



Tóm lại, DVPL là loại hình dịch vụ gắn liền với pháp luật do các tổ chức, cá
nhân đáp ứng điều kiện hành nghề thực hiện cung ứng DVPL nhằm đáp ứng nhu cầu
về pháp lý của các chủ thể khác.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ pháp lý là gì?
Quan hệ cung ứng DVPL được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là HĐDVPL. HĐDVPL có bản chất chung của hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cung ứng DVPL.
Theo nguyên tắc áp dụng luật chung và luật chuyên ngành trong trường hợp cùng điều
chỉnh quan hệ HĐDVPL thì các nguyên tắc và quy định đối với hợp đồng dịch vụ
trong BLDS 2015 và LTM 2005 cũng được áp dụng cho HĐDVPL.
Bên cạnh BLDS và LTM 2005, LLS 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) có quy
định "Luật sư thực hiện DVPL theo HĐDVPL, trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng
theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân
làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức. HĐDVPL phải được làm thành
văn bản" (Điều 26). Như vậy, đối với hoạt động cung ứng DVPL của luật sư, pháp luật
đã có quy định chính thức về việc quan hệ giữa luật sư và khách hàng là quan hệ
HĐDVPL và phải được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản.
Các luật chuyên ngành khác về DVPL, tuy không đưa ra định nghĩa về HĐDVPL
nhưng căn cứ vào bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của các quan hệ cung
ứng DVPL cụ thể cũng như xem xét các quan hệ cung ứng này trong sự so sánh với
quan hệ cung ứng DVPL của luật sư, có thể khẳng định quan hệ giữa bên cung ứng
DVPL và bên sử dụng các loại hình DVPL khác là quan hệ HĐDVPL.
Từ các quy định của BLDS, LTM và các luật chuyên ngành về DVPL, có thể
khẳng định HĐDVPL là một dạng của hợp đồng dịch vụ thương mại. Và HĐDVPL
mang đầy đủ các dấu hiệu của hợp đồng dịch vụ thương mại.
Ngoài ra, HĐDVPL còn là loại hợp đồng thương mại dịch vụ, chứa đựng đặc
điểm của một số loại hợp đồng thương mại dịch vụ khác khác. Cụ thể là một số
HĐDVPL có những điểm tương đồng với hợp đồng đại diện cho thương nhân, đó là
bên đại diện được nhân danh và vì lợi ích của bên được đại diện để tiến hành các
công việc do bên được đại diện giao, mang lại quyền và nghĩa vụ cho bên được đại

diện. Tuy nhiên, đại diện trong hoạt động DVPL là để thực hiện các công việc có liên
quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề của bên cung ứng DVPL (chẳng hạn
luật sư đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn để khởi kiện và tham gia tố tụng
trong vụ kiện đòi nợ), còn đại diện cho thương nhân trong hoạt động thương mại là
để thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực hoạt động của bên giao đại diện (hợp đồng
đại lý là một điển hình).


Từ những phân tích ở trên, theo giới hạn phạm vi nghiên cứu của khóa luận (chỉ
nghiên cứu những DVPL có tính thương mại), có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng
dịch vụ pháp lý (có tính thương mại) như sau: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính
thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cung ứng cung cấp một hoặc
nhiều dịch vụ pháp lý cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao, còn bên sử dụng dịch vụ
có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý
Ngoài việc có đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng thương mại dịch vụ, HĐDVPL
có những đặc điểm riêng do đối tượng của HĐDVPL chi phối. Đặc điểm riêng biệt này
của HĐDVPL nhấn mạnh đến khía cạnh gắn liền với pháp luật của HĐDVPL và chính
HĐDVPL đã làm thay đổi chủ thể, phương thức ký kết và phương thức thực hiện, kéo
theo đó là cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp HĐDVPL
cũng có nhiều đặc điểm khác biệt.
HĐDVPL có những đặc điểm riêng như sau:
1.1.2.1. Bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề có đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Chủ thể cung ứng trong HĐDVPL phải đáp ứng về kinh doanh có điều kiện:
DVPL là phải luôn gắn liền với pháp luật và chủ thể thực hiện, phải có đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật mới được cung ứng DVPL. Theo quy định tại khoản
2, Điều 7 Luật Đầu tư quy định về Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện
được quy định tại Phụ lục 4 của Luật này thì hành nghề luật sư, hành nghề công
chứng, hoạt động dịch vụ của tổ chức trọng tài thương mại và hành nghề thừa phát lại

là những nghề kinh doanh có điều kiện.
Để có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung
ứng DVPL, bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề tồn tại hợp pháp, có
thẩm quyền cung cấp DVPL và có quyền cung ứng loại hình DVPL đã đăng ký. Cụ
thể, bên cung ứng DVPL phải đáp ứng các điều kiện sau: i) được tổ chức dưới hình
thức các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc người cung ứng DVPL hành nghề
với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức cung ứng DVPL); ii) đã đăng ký hoạt động
cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy
phép hoạt động DVPL; iii) cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình
DVPL của tổ chức hành nghề.
Ví dụ: Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký hành nghề đối với một số
hoặc cả 4 lĩnh vực hành nghề luật sư quy định tại LLS 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012),
không được đăng ký và cung ứng các DVPL thuộc loại hình DVPL (lĩnh vực hành
nghề) của công chứng viên hoặc của thừa phát lại và ngược lại. Ngoài ra, tổ chức cung


ứng DVPL không được đăng ký kinh doanh để hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm
dịch vụ đối với bất kỳ ngành, nghề nào khác.
Tóm lại, chủ thể của HĐDVPL gồm hai bên hoặc nhiều bên. Bên cung ứng
DVPL bắt buộc phải là các tổ chức hành nghề được thành lập hợp pháp hoặc người
cung ứng DVPL hành nghề với tư cách cá nhân. Bên sử dụng DVPL là tổ chức, cá
nhân bất kỳ có nhu cầu sử dụng DVPL và có năng lực chủ thể HĐDVPL. Mục đích
giao kết HĐDVPL của bên cung ứng DVPL là để nhận thù lao còn mục đích của bên
sử dụng DVPL là nhằm thỏa mãn nhu cầu về DVPL.
1.1.2.2. Phương thức ký kết và hình thức tồn tại đặc biệt của hợp đồng dịch vụ
pháp lý
Đa số các HĐDVPL được ký kết theo hai phương thức ký kết HĐDV truyền
thống đó là phương thức trực tiếp và phương thức gián tiếp và tồn tại dưới các hình
thức do pháp luật quy định. Tuy nhiên, có một số loại HĐDVPL, phương thức ký kết
và hình thức tồn tại rất đặc biệt nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ sự thỏa thuận của các

bên. Việc đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng được thể hiện bằng những cách thức
và dưới những hình thức rất đặc thù hay nói cách khác hoàn toàn không tồn tại một
bản HĐDVPL độc lập, chứa đựng đầy đủ nội dung của một HĐDVPL và không được
thể hiện dưới một hình thức truyền thống nhất định nào mà tồn tại dưới hình thức sự
pha trộn các hình thức tồn tại của một HĐTMDV. HĐDVPL loại này được giao kết và
phát sinh hiệu lực khi bên sử dụng DVPL có yêu cầu và bên cung ứng chấp nhận thực
hiện một hoặc nhiều công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của mình cho bên yêu cầu.
Quá trình thực hiện cũng đồng thời là quá trình các bên tiếp tục đưa ra những thỏa
thuận và đề nghị mới thuộc nội dung hợp đồng. HĐDVPL của Công chứng viên và
Thừa phát lại là những loại hợp đồng có phương thức ký kết và hình thức tồn tại điển
hình của trường hợp này.
1.1.2.3. Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân và tính rủi ro cao
Thứ nhất: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân
Tính đối nhân của HĐDVPL thể hiện ngay trong yếu tố hình thức tổ chức của
các tổ chức cung ứng DVPL. Hiện nay, pháp luật quy định cho hầu hết tổ chức hành
nghề cung ứng các loại hình DVPL dưới hình thức Văn phòng hoặc công ty hợp danh.
Đối với hình thức Văn phòng, các luật chuyên ngành quy định "hoạt động như một
loại hình doanh nghiệp tư nhân” (Điều 33 LLS), mà doanh nghiệp tư nhân là loại hình
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản phát
sinh trong kinh doanh. Đối với hình thức công ty hợp danh, cũng đồng nghĩa với việc
các thành viên của tổ chức hành nghề phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn về các
nghĩa vụ tài sản của tổ chức hành nghề. Ngoài ra, pháp luật cũng cho phép các tổ chức


hành nghề tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH để được hưởng chế độ chịu TNHH
trong kinh doanh nhưng các công ty luật TNHH đăng ký kinh doanh DVPL ngoài việc
tuân theo các quy định của Luật doanh nghiệp cho loại hình Công ty TNHH thì còn
phải tuân thủ các quy định của các luật chuyên ngành về DVPL để nhà nước quản lý
và kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành nghề của nó.
Các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL tại Việt Nam thường có quy mô vừa và

nhỏ, hoạt động mang tính chất đối nhân, do các cá nhân có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm nghề nghiệp quen biết nhau, tin cậy vào trình độ chuyên môn và đạo đức
nghề nghiệp của nhau, cùng nhau thành lập ra và đồng thời là người trực tiếp thực hiện
công việc thuộc lĩnh vực hành nghề mà tổ chức đã đăng ký hoạt động.
Tính đối nhân của DVPL còn được thể hiện bởi yếu tố người thực hiện DVPL.
Nhà đầu tư thành lập các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL đồng thời là người thực
hiện DVPL (trách nhiệm cao hơn người lao động bình thường). Các công việc thuộc
lĩnh vực đã đăng ký hành nghề của tổ chức hành nghề phải do chính nhà đầu tư hoặc
thành viên của tổ chức hành nghề thực hiện và họ không được giao lại công việc cho
người khác thực hiện nếu không được sự đồng ý của khách hàng. Bởi lẽ, DVPL được
thực hiện bằng lao động trí tuệ, người thực hiện khác nhau thì hàm lượng chất xám, kỹ
năng hành nghề, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp… khác nhau, khách hàng tin
tưởng, tín nhiệm ai sẽ chỉ muốn chính người đó thực hiện DVPL.
Thứ hai: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính rủi ro cao
- Các bên chủ thể của HĐDVPL có sự bất cân xứng về kiến thức pháp luật
HĐDVPL: Xuất phát từ đặc điểm của DVPL là gắn liền với pháp luật và bên cung ứng
phải là tổ chức hành nghề cung ứng DVPL, tất yếu dẫn đến việc có sự bất cân xứng về
ý thức pháp luật giữa các bên đặc biệt là kiến thức pháp luật về HĐDVPL.
Thực tế, HĐDVPL là một loại hợp đồng mẫu do bên cung ứng DVPL soạn thảo
sẵn với những điều khoản có nội dung rất chung chung, có lợi nhất cho bên cung ứng
DVPL. Với lợi thế chuyên môn nghề luật, bên cung ứng DVPL luôn là bên nắm giữ
thông tin, với sự thúc đẩy của thù lao và lợi nhuận, luôn che dấu thông tin và hành động
nhằm đạt lợi nhuận ở mức cao nhất có thể. Bên sử dụng DVPL luôn trong tư thế thụ
động, ít có sự bàn bạc, thảo luận trước khi đồng ý về những nội dung của HĐDVPL
cũng như ít có sự hiểu biết thấu đáo và toàn diện về những nội dung đó. Vì thế, bên sử
dụng DVPL luôn đứng trước nguy cơ rất cao có thể gánh chịu những thiệt hại nặng nề
nhưng rất khó có cơ hội khắc phục và khó có được các căn cứ để khiếu, kiện.
- Do tính khó xác định của chất lượng DVPL: Xuất phát từ bản chất vô hình của
sản phẩm DVPL dẫn đến tính khó xác định chất lượng của DVPL. Điều này gây rất
nhiều khó khăn, lúng túng cho các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là cho bên sử dụng



DVPL. Bên sử dụng DVPL trong nhiều trường hợp thường là thiếu hiểu biết pháp luật
nên mới cần đến sự giúp đỡ của bên kia, nhưng khi thỏa thuận về điều khoản chất
lượng thì chính bên sử dụng DVPL cũng không hiểu rõ DVPL được yêu cầu cung
ứng phải đạt chất lượng như thế nào để đáp ứng được mục đích sử dụng và điều
khoản chất lượng phải thỏa thuận như thế nào thì mới đạt được sự rõ ràng, chính xác
và hợp pháp. Việc khó xác định chất lượng DVPL làm cho chủ thể HĐDVPL không
có cơ sở pháp lý để thỏa thuận chất lượng công việc. Mặt khác, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng mà chủ yếu là từ phía cung ứng
DVPL nhưng bên sử dụng DVPL không có căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình.
1.1.2.4. Quá trình giao kết và thực hiện hầu hết các HĐDVPL bị phụ thuộc vào
bên thứ ba
Do tính gắn liền với pháp luật nên quá trình giao kết và thực hiện một số
HĐDVPL gắn liền và do đó bị phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng (gọi tắt là bên
thứ ba). Trong những trường hợp này, hoạt động của bên thứ ba là cơ sở để các bên
tham gia quan hệ HĐDVPL thỏa thuận nội dung HĐDVPL, đồng thời cũng thông qua
hoạt động của bên thứ ba HĐDVPL mới có khả năng thực hiện được trên thực tế.
Mỗi bên thứ ba có chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo một trình tự, thủ tục
nhất định do pháp luật quy định. Do vậy, HĐDVPL thuộc loại nào, liên quan đến hoạt
động của bên thứ ba nào sẽ bị phụ thuộc bởi hoạt động cụ thể của bên thứ ba đó. Có
thể kể đến một số yếu tố chủ yếu bị phụ thuộc vào bên thứ ba như: thời gian, địa điểm
và phương thức thực hiện HĐDVPL. Nhiều trường hợp, việc thực hiện HĐDVPL
không diễn ra độc lập và theo các phương thức thông thường mà trở thành một hoạt
động không thể tách rời trong hoạt động của bên thứ ba. Ví dụ. Hoạt động tham gia tố
tụng của luật sư trong các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
(gọi tắt là luật sư tham gia án chỉ định) trong trường hợp theo quy định của pháp luật
phải có người bào chữa. Trong trường hợp này, nếu hoạt động của các cơ quan tố tụng

không có sự tham gia của người bào chữa sẽ bị xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng và hồ sơ vụ án có thể bị tuyên bố là không có giá trị pháp lý, bị hủy toàn bộ
kết quả hoạt động tố tụng và tiến hành lại từ đầu.
1.1.3. Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý
HĐDVPL có thể chia thành các loại khác nhau dựa trên tiêu chí khác nhau. Chủ
yếu như sau:
- Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung cấp DVPL.


HĐDVPL có thể chia thành 5 loại: HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư;
HĐDVPL của tổ chức hành nghề công chứng; HĐDVPL của tổ chức hành nghề Thừa
phát lại; HĐDVPL của Trung tâm tư vấn pháp luật và HĐDVPL của các tổ chức khác.
- Căn cứ vào nội dung của HĐDVPL
HĐDVPL có thể chia thành 8 loại: hợp đồng dịch vụ tranh tụng; hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật; hợp đồng dịch vụ công chứng; hợp đồng dịch vụ lập vi bằng; hợp
đồng dịch vụ tống đạt giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án; hợp đồng xác minh
điều kiện thi hành án; hợp đồng thi hành án và HĐDVPL khác.
- Căn cứ vào loại chuyên gia thực hiện HĐDVPL
HĐDVPL có thể chia thành 4 loại: HĐDVPL của luật sư; HĐDVPL của công
chứng viên; HĐDVPL của thừa phát lại; HĐDVPL của tư vấn viên pháp luật và
HĐDVPL của chuyên gia pháp lý khác.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
pháp lý
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý
Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hoạt động DVPL xuất phát từ
đường lối quản lý kinh tế bằng pháp luật và từ nhu cầu của đời sống kinh tế thị trường
đang phát triển nhanh chóng ở nước ta. Những bất cập và thách thức từ tiến trình hội
nhập nền kinh tế quốc tế đang đòi hỏi phải cụ thể hoá về mặt pháp luật, tạo khuôn khổ
cho các quan hệ kinh tế phát triển, trong đó có pháp luật về DVPL được coi là dịch vụ
thương mại theo các tiêu chuẩn của WTO. Mặt khác, định hướng và quy mô phát triển

của DVPL trong nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ những yêu cầu và đòi hỏi rất
cao về tiêu chuẩn, năng lực hành nghề với sự phân công, chuyên môn hoá rõ rệt, làm
nảy sinh nhu cầu phải có pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
hành nghề dịch vụ pháp lý một cách thích hợp.
Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với HĐDVPL trong nền kinh tế thị trường
còn xuất phát từ sự phát triển nhanh chóng của hoạt động DVPL đang từng bước
chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong các ngành thương mại-dịch vụ. Điều đó chứng tỏ
người dân đang ngày càng quan tâm đến việc sử dụng DVPL để được bảo đảm các
quyền và lợi ích pháp lý của mình không bị xâm hại.
Hiện nay, các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐDVPL còn chưa hoàn chỉnh
và được quy định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau như:
- Bộ luật dân sự năm 2015.
BLDS 2015 điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa tất cả các loại chủ thể với nhau
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. BLDS đặt ra các chuẩn mực chung về giao kết hợp
đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giải thích hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa


đổi, chấm dứt hợp đồng, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng…trên cơ sở những
quy định này, có các văn bản pháp luật riêng trong từng lĩnh vực cụ thể cùng điều chỉnh
vấn đề hợp đồng.
- LTM 2005, đặc biệt là chế định về cung ứng dịch vụ.
LTM 2005 điều chỉnh quan hệ hợp đồng phát sinh giữa các thương nhân hoặc
một bên là thương nhân trong hoạt động thương mại. Trong quan hệ với BLDS, với tư
cách là luật chuyên ngành chung, LTM chỉ điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt
động thương mại và quy định về một số loại hợp đồng thương mại thông dụng như
hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ.
- Các luật chuyên ngành về DVPL điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh
trong từng lĩnh vực DVPL.
Gồm: LLS 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), điều chỉnh hoạt động DVPL của
luật sư; Nghị định số 87/2003/NĐ – CP ngày 22/7/2003 điều chỉnh hoạt động hành

nghề của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số
06/2003/TT – BTP của Bộ Tư Pháp ngày 29/10/2003 quy định về dịch vụ pháp luật
nước ngoài tại Việt Nam; LCC 2006 điều chỉnh hoạt động DVPL của CCV; NĐ
61/2009/NĐ-CP, điều chỉnh hoạt động DVPL của TPL; Quyết định số 510/QĐ-TTg
ngày 25/3/2013 về “Tiếp tục thực hiện thí điểm hoạt động TPL”; Nghị định số 77/NĐCP ngày 16/7/2007 về tư vấn pháp luật;… Bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động
DVPL của các nhà cung cấp DVPL ở Việt Nam đồng thời đáp ứng nhu cầu sử dụng
DVPL ngày càng tăng của các tổ chức, cá nhân.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ pháp lý
1.2.2.1. Giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý
Về chủ thể giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý:
Theo quy định tại các luật chuyên ngành về DVPL thì nhà đầu tư muốn thành lập
các tổ chức cung ứng DVPL tại Việt Nam, ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện về tư
cách pháp lý của người thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại Luật doanh
nghiệp 2014 và Luật đầu tư 2014, còn phải đáp ứng điều kiện về chuyên môn và kỹ
năng hành nghề luật. Nhà đầu tư không đáp ứng tiêu chuẩn này nếu muốn thành lập tổ
chức kinh doanh và thuê người lao động để kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận thì
không được thành lập các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL.
Xuất phát từ các quy định về điều kiện đối với nhà đầu tư thành lập hoặc tham gia
thành lập các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL tại Việt Nam phải là người có chứng chỉ
hành nghề. Vì thế, tại các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL nhà đầu tư đồng thời là người
thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của tổ chức hành nghề (nhà đầu tư đồng
thời là người lao động). Nhà đầu tư muốn hành nghề cung cấp DVPL phải đáp ứng đủ các


điều kiện do pháp luật quy định và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
hành nghề qua việc cấp chứng chỉ hành nghề để hành nghề tại các tổ chức cung ứng
DVPL hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Người có chứng chỉ hành nghề chỉ được hành
nghề cung ứng một loại hình DVPL nhất định và các cá nhân phải đáp ứng nhiều điều
kiện khác nhau để được cấp chứng chỉ hành nghề. Ví dụ như chứng chỉ hành nghề luật sư,
chứng chỉ hành nghề công chứng, chứng chỉ hành nghề Thừa phát lại,...

Đối với bên sử dụng DVPL, nếu là cá nhân thì phải đủ từ 18 tuổi trở lên để bằng
hành vi của mình xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự, nếu là pháp nhân phải là người đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền để thực hiện việc giao kết.
Về hình thức giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý:
Điều 119 BLDS 2015 quy định hình thức của giao dịch dân sự có thể tồn tại dưới
các hình thức như sau: i) bằng lời nói; ii) bằng hành vi cụ thể; iii) bằng văn bản; iv)
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký; v) thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật.
Về nội dung giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý;
Nội dung HĐDVPL là toàn bộ những điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Hiện nay, BLDS đã quy định quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ, LTM quy định quyền và nghĩa vụ của
các bên trong HĐDV và các luật chuyên ngành về DVPL đã quy định khá đầy đủ và
chi tiết về quyền và nghĩa vụ của nhà cung cấp DVPL. Vì thế, tác giả chỉ tập trung làm
rõ quy định của pháp luật về một số điều khoản cơ bản, đặc thù của HĐDVPL.
Gồm có: Đối tượng của hợp đồng dịch vụ pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ
thể hợp đồng dịch vụ pháp lý, chất lượng dịch vụ pháp lý, thù lao dịch vụ pháp lý
Về trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý:
Đề nghị giao kết hợp đồng là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong
quá trình giao kết hợp đồng. Để xác lập một HĐDVPL thì các bên tham gia phải tiến
hành giao kết hợp đồng. Chỉ khi đã được giao kết thì HĐDVPL mới là căn cứ phát
sinh hiệu lực giữa các bên. Điều 386 BLDS năm 2015 quy định: “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này
của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”.
Sau đó là chấp nhận giao kết hợp đồng. Điều 393 BLDS 2015 quy định: “Chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận
toàn bộ nội dung của đề nghị”
Về thời gian và địa điểm giao kết:
Được quy định tại Điều 399 và Điều 400 BLDS 2015, trong đó về thời gian và
địa điểm giao kết ưu tiên trường hợp do các bên thỏa thuận.



1.2.2.2. Thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý
Thực hiện HĐDVPL là việc các bên của hợp đồng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo nội dung đã thỏa thuận.
HĐDVPL đa số là loại hợp đồng song vụ, chỉ một số lượng nhỏ là hợp đồng vì
lợi ích của người thứ ba. Đối với các hợp đồng song vụ, mỗi bên đều phải thực hiện
nghĩa vụ trước, không được lấy lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ với mình để
không thực hiện nghĩa vụ trừ trường hợp việc không thực hiện nghĩa vụ là do lỗi của
bên kia. Nếu các bên không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định về việc thực
hiện nghĩa vụ trước, sau thì các bên đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu các bên có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trước, sau thì bên
phải thực hiện nghĩa vụ trước chỉ được hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu xảy ra những sự
kiện do các bên thỏa thuận và phải thông báo ngay cho bên kia biết.
Việc thực hiện HĐDVPL phải tuân theo những nguyên tắc được quy định tại
Điều 410, Điều 415 và Điều 416 BLDS 2015. Ngoài ra, khi thực hiện hợp đồng các
chủ thể còn phải tuân thủ theo những quy tắc đặc thù nhất định như: Nguyên tắc hành
nghề luật sư tại Điều 5 LLS 2006; Nguyên tắc hành nghề công chứng tại khoản 4,
Điều 2 Thông tư số 11/2012/TT-BTP,...
Ngoài ra, trong việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý còn có thể kể đến
phương thức thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Phương thức thực hiện HĐDVPL là
phương thức mà các bên thực hiện và tiếp nhận sự thực hiện hợp đồng, bao gồm:
phương thức thực hiện, phương thức giao nhận, phương thức nghiệm thu, phương thức
thanh toán (trả tiền).
1.2.2.3. Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý
- Sửa đổi HĐDVPL là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý chí tự
nguyện của mình cùng thỏa thuận với nhau để điều chỉnh một phần nội dung hợp đồng
đã giao kết. Như vậy, “Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng” (Khoản 1, Điều
421 BLDS năm 2015). Sau khi HĐDVPL đã được sửa đổi, các bên thực hiện hợp đồng
theo những phần không bị sửa đổi và những phần đã được sửa đổi, đồng thời phải

cùng nhau chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh từ việc sửa đổi hợp đồng.
- Chấm dứt HĐDVPL: Hợp đồng dịch vụ pháp lý chấm dứt theo ý chí của các
bên ký kết hoặc do pháp luật quy định.
Hiện nay, Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về Chấm dứt hợp đồng như
sau:
“Hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thỏa thuận của các bên;


3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn
tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;
6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này;
7. Trường hợp khác do luật quy định.”
1.2.2.4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng dịch vụ pháp lý
Tranh chấp hợp đồng được hiểu là mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng về việc thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không thực hiện các quyền
và nghĩa vụ theo hợp đồng đã được ký kết. Tranh chấp hợp đồng cũng được hiểu là ý
kiến bất đồng của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc là cách thức giải
quyết hậu quả từ vi phạm đó.
Hiện nay, trong thực tế, các tranh chấp hợp đồng thường được giải quyết thông
qua bốn phương thức chính sau:
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua thương lượng: Hai bên trong hợp
đồng tự đàm phán để đưa ra phương án xử lý tranh chấp mà không cần đến sự trợ giúp
của bên thứ ba.
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua hòa giải: Có thêm sự tham gia của
bên thứ ba. Hòa giải viên với vai trò trung gian sẽ giúp các bên đưa ra cách giải quyết
mâu thuẫn, quyết định cuối cùng vẫn phụ thuộc vào hai bên tranh chấp.

- Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua trọng tài: Các bên đưa mâu thuẫn,
bất đồng nhờ bên thứ ba là các trọng tài viên hoặc các trung tâm trọng tài giải quyết.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được áp dụng khi hai bên tranh
chấp có thỏa thuận trọng tài.
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua tòa án: Tòa án là cơ quan nhân danh
quyền lực nhà nước. Khi có tranh chấp, một bên có quyền khởi kiện bên kia ra tòa án
có thẩm quyền. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thường được các doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng.
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
pháp lý
Việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên nhằm thoả mãn những nhu cầu về
vật chất, văn hoá tinh thần của mỗi bên và phải hướng tới lợi ích chung của toàn xã
hội. Ngoài ra các bên còn phải thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể hiện tinh thần tôn
trọng truyền thống đạo đức xã hội trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự.
Khi giao kết HĐDVPL, các bên có liên quan phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản
khi giao kết hợp đồng dân sự và những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại.


Thứ nhất là tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội:
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng. Theo nguyên tắc
này thì các bên đủ tư cách chủ thể có quyền tự do quyết định việc giao kết hợp đồng
theo ý muốn chủ quan và vì lợi ích của chính họ. Các bên chủ thể có quyền tự do lựa
chọn việc giao kết với ai, với nội dung như thế nào, hình thức ra sao. Mọi cam kết thoả
thuận hợp pháp đều được nhà nước bảo hộ và khi không có sự tự nguyện của các bên
có thể bị tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, sự tự do đó không được trái với pháp luật và
đạo đức xã hội. Khi đó thì hợp đồng giao kết mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Thứ hai là nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng:
Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng và

bảo đảm nội dung của quan hệ đó. Hợp đồng phải thể hiện được sự tương ứng về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên. Các bên khi giao kết không được đe
dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng với mình mà không theo ý chí của họ. Nếu
phát hiện hợp đồng được giao kết mà bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối để giao kết thì hợp
đồng đó sẽ bị vô hiệu.
Bên cạnh đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thể
hiện rõ thái độ trung thực và ngay thẳng. Trung thực và ngay thẳng có nghĩa là các
phải nói rõ cho nhau biết về tình trạng và đặc tính của đối tượng, không được lừa dối
nhau, nếu che dấu khuyết tật của đối tượng hợp đồng nhằm mục đích tư lợi mà gây
thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Ngoài ra, các bên phải có tinh thần hợp tác lẫn nhau. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, các bên tương trợ, giúp đỡ và thông tin cho nhau để đáp ứng nhu cầu và bảo
đảm lợi ích cho các bên. Theo nguyên tắc này, các bên phải luôn quan tâm đến nhau,
tạo điều kiện giúp nhau khắc phục khó khăn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Hơn nữa, nguyên tắc này đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau tìm và thực hiện mọi
biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế khi có thiệt hại xảy ra. Nếu bên nào có điều
kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi là có lỗi và phải gánh chịu
thiệt hại.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI VĂN PHÒNG LUẬT
SƯ VẠN XUÂN
2.1. Tổng quan về văn phòng Luật sư Vạn Xuân và các nhân tố ảnh hưởng
đến việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng
2.1.1. Tổng quan về văn phòng luật sư Vạn Xuân
Trước nhu cầu cần được trợ giúp pháp lý của nhiều tổ chức, cá nhân và doanh
nghiệp, Văn phòng Luật sư Vạn Xuân được thành lập bởi một đội ngũ luật sư có nhiều
năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, tư vấn đầu tư, thương mại, sở hữu trí
tuệ, giải quyết tranh chấp đất đai, tài chính, ngân hàng, tham gia tố tụng trong các vụ

án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình ….
Văn phòng luật sự Vạn Xuân được thành lập theo sự cấp phép của Sở tư pháp
Thành phố Hà Nội. Với những thông tin như sau:
Địa chỉ: Số 99 phố Xốm, phường Phú Lãm, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Trưởng văn phòng luật sư: TS. Luật sư Phạm Ngọc Toàn
Ngày hoạt động: Ngày 12 tháng 09 năm 2002
Mã số thuế 0101418964 được cấp vào ngày 17/11/2003
Cơ quan Thuế đang quản lý: Chi cục Thuế Quận Hà Đông
Điện thoại: 0375587886
Email:
Văn phòng luật sư Vạn Xuân được cấp giấy phép hoạt động từ ngày 12 tháng 9
năm 2002 đến nay và đã đi vào hoạt động hơn 17 năm. Với những ngày tháng hoạt
động cần cù và tâm huyết, cùng với trách nhiệm của những người làm luật, đội ngũ
cán bộ ở văn phòng đã gây dựng được thương hiệu, uy tín và niềm tin cho khách hàng
khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là người dân thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch
vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Vạn Xuân
* Nhân tố khách quan
- Nhân tố kinh tế: Đất nước ta sau nhiều năm đổi mới từ nền kinh tế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có nhiều thành tựu
đáng kể. Nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt buộc các doanh nghiệp luôn phải
nỗ lực không ngừng để tồn tại và đứng vững. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập
WTO đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiều doanh nghiệp đã bắt kịp được
xu thế, vạch ra các chiến lược kinh doanh phù hợp và hiệu quả, đã khẳng định được vị
trí của mình trên thương trường. Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp không thích


ứng được với xu thế này, sản xuất kinh doanh thua lỗ và dẫn đến bị giải thể, phá sản.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển biến không ngừng, giao lưu kinh tế mở
rộng, các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng và phức tạp, cùng với mua bán hàng hóa, các

quan hệ cung ứng dịch vụ cũng không nằm ngoài xu thế đó. Việc hoàn thiện các văn
bản pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ pháp lý nói riêng vẫn đang
rất cần được quan tâm.
- Nhân tố chính trị: Sau thắng lợi của của kháng chiến chống Mỹ năm 1975, Việt
Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước ở cả hai miền Nam- Bắc.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam là nước có nền chính trị
ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hội nhập với các quốc gia trên thế giới.
Kinh tế và sự giao lưu quốc tế ngày càng phát triển kéo theo sự phát triển của các quan
hệ xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Kinh doanh hoạt động cung ứng dịch vụ
pháp lý ngày càng phát triển do đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày
càng tăng, mọi người càng có nhu cầu được hiểu rõ pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
- Nhân tố pháp luật: Qua nhiều năm đổi mới, hệ thống pháp luật của nước ta đã
được xây dựng tương đối đồng bộ. Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi
trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một
trong những yêu cầu cấp thiết đối với nước ta hiện nay. Người dân đã tích cực hơn
trong việc đưa pháp luât vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Và
đã biết tìm đến những sự trợ giúp pháp lý để được bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của bản thân.
* Nhân tố chủ quan
- Về chất lượng đội ngũ nhân viên trong Văn phòng luật sư Vạn Xuân:
Theo chiến lược phát triển nghề luật sư, đến năm 2020, nước ta sẽ có khoảng
18.000-20.000 luật sư. Tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ có hàng
nghìn công ty luật và văn phòng luật sư. Đối mặt với sự cạnh tranh của thị trường pháp
lý khốc liệt, đội ngũ luật sư trong Văn phòng luật sư Vạn Xuân cần trang bị cho mình
những kiến thức cần thiết, nâng cao năng lực chuyên môn, tác phóng xử lí công việc
thành thạo, nhanh nhẹn để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
-Nhân tố khách hàng: Các khách hàng tìm đến Luật sư thường xuyên hơn, thay vì
tự mình giải quyết các vấn đề pháp lý mà họ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Ví
dụ như từ vấn đề về thủ tục hành chính, những thỏa thuận hay Hợp đồng kinh tế được

ký kết với sự tư vấn của Luật sư đến những vấn đề phát sinh trong đời sống dân sự như
ly hôn, tranh chấp tài sản,....


2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý
2.2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý
Về chủ thể giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý:
Thứ nhất là chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý:
Để được thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề cung ứng DVPL và
sau đó trở thành người thực hiện DVPL, người muốn hành nghề cung cấp DVPL phải
đáp ứng tiêu chuẩn chung là có chứng chỉ hành nghề tương ứng với một loại hình DVPL
nhất định. Để được cấp chứng chỉ hành nghề họ cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện cơ
bản là: có bằng đại học luật; đã tốt nghiệp lớp đào tạo nghề; đã qua thời gian tập sự hành
nghề. Ngoài ra, tùy từng loại hình DVPL pháp luật quy định những điều kiện đặc thù
hơn nữa nhằm đảm bảo chất lượng DVPL.
Các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL tại Việt Nam hiện nay đều do những cá
nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm hành nghề luật thành lập; là tổ chức
hành nghề hợp pháp; đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt
động cung ứng DVPL; có tài sản; có trụ sở giao dịch ổn định; mục đích cung ứng
DVPL để thu thù lao. Hiện nay, ngoại trừ loại hình DVPL của luật sư, pháp luật chưa
có quy định cho phép người nước ngoài được hành nghề thừa phát lại, tư vấn viên
pháp luật và công chứng tại Việt Nam. Điều này thể hiện sự chưa tương thích của
pháp luật Việt Nam so với WTO về loại hình DVPL và cam kết mở cửa thị trường
DVPL trong nước.
Ngoài ra, để được tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung cấp
DVPL, tổ chức hành nghề cung ứng DVPL phải có năng lực chủ thể bao gồm năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật dân sự 2015 về
NLHVDS của pháp nhân và các luật chuyên ngành về DVPL thì năng lực chủ thể của tổ
chức cung ứng DVPL phát sinh cùng một thời điểm đó là ngày tổ chức hành nghề được
thành lập hợp pháp.

Thứ hai là chủ thể sử dụng dịch vụ pháp lý:
Bên sử dụng DVPL gồm các loại chủ yếu sau:
- Là chủ thể HĐDVPL và trực tiếp sử dụng DVPL
Đây là loại chủ thể HĐDVPL chủ yếu nhất, thường xuyên tham gia vào quan hệ
HĐDVPL hiện nay trong đó có cơ quan nhà nước.
- Là chủ thể HĐDVPL nhưng không trực tiếp sử dụng DVPL
Trong trường hợp này các chủ thể trực tiếp bàn bạc, thoả thuận ký kết và thực
hiện HĐDVPL còn người thứ ba được hưởng lợi ích từ kết quả của hoạt động DVPL
(ký kết HĐDVPL để phục vụ lợi ích của người thứ ba).


×