Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Trách nhiệm pháp lý trong hoạt động công vụ của công chức kho bạc nhà nước thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.57 KB, 16 trang )

1
MỞ ĐẦU
Hệ thống KBNN đang tập trung hoàn thành Chiến lược phát triển hệ thống
KBNN đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng hệ thống KBNN hiện đại, hoạt động an
toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững chắc; các hoạt động của KBNN được thực
hiện trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử. Đồng
thời, xây dựng Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2030 với mục tiêu hình thành
Kho bạc số. Để thực hiện thành công chiến lược phát triển KBNN, với nhiệm vụ
được giao ngày một nhiều hơn, khối lượng công việc ngày một tăng lên đòi hỏi phải
xây dựng được đội ngũ công chức KBNN có phẩm chất, năng lực, tinh thông kỹ
năng nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp cao; công chức KBNN phải được thường xuyên
đào tạo và đào tạo lại, cập nhật kiến thức, rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức
trong đó đặc biệt chú ý đến quá trình tự nghiên cứu, rèn luyện. Đồng thời, với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, đòi hỏi mỗi công
chức trong hệ thống KBNN phải nắm, hiểu rõ trách nhiệm pháp lý khi thực thi hoạt
động công vụ của mình.
Sau một thời gian được các thầy, cô trường Đại học Luật Hà Nội truyền thụ
những kiến thức pháp lý nền tảng, em chọn KBN Thái Nguyên để thực tập tốt nghiệp
với mong muốn góp phần nâng cao năng lực thực thi công vụ, tránh những rủi ro
pháp lý cho đội ngũ công chức của KBNN Thái Nguyên, với báo cáo chuyên đề tốt
nghiệp:“ Trách nhiệm pháp lý trong hoạt động công vụ của công chức Kho bạc Nhà
nước Thái Nguyên ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Báo cáo tốt nghiệp sẽ hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn trách
nhiệm pháp lý trong quá trình thực thi công vụ của công chức của KBNN tỉnh Thái
Nguyên. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả,
hiệu lực trong thực thi công vụ của công chức KBNN Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu
phát triển trong tình hình mới, đồng thời giảm thiểu những rủi ro pháp lý trong quá
trinh thực thi công vụ.
3. Phương pháp nghiên cứu



2
Trong quá trình thực hiện báo cáo, em sử dụng các phương pháp nghiên cứu,
gồm: Phương pháp duy vật biện chứng ; Phương pháp phân tích hệ thống ; Nghiên
cứu, tổng hợp tài liệu, tư liệu liên quan; Phương pháp chuyên gia.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Báo cáo nghiên cứu thực trạng về trách nhiệm pháp lý trong thực thi công vụ
của công chức KBNN Thái Nguyên, phân tích những tác động ảnh hưởng của chức
năng, nhiệm vụ, xu hướng phát triển của KBNN tỉnh Thái Nguyên nằm trong chiến
lược phát triển của hệ thống KBNN và tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh
Thái Nguyên; nghiên cứu các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi, mối quan
hệ trong nội bộ đơn vị và với tổ chức, cá nhân có liên quan để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của KBNN tỉnh Thái Nguyên trong tình hình mới.
5. Kết cấu của báo cáo.
Ngoài phần mở đầu, báo cáo kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Nhận thức chung về trách nhiệm pháp lý của công chức trong
hoạt động công vụ
Chương 2: Thực trạng trách nhiệm pháp lý trong thực thi công vụ của
công chức KBNN tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật
trong thực thi công vụ của công chức KBNN tỉnh Thái Nguyên

Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨC
TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại công chức ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
Công chức theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức và được sửa đổi, bổ
sung tại khoản 1, Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công
chức và Luật Viên chức: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm

vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân


3
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp,
công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước . Công chức
cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp
vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
1.1.2. Phân loại công chức
Theo Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định những người là
công chức (Nghị định số 06/NĐ-CP): Công chức có thể được phân loại theo nhiều
cách khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích phân loại. Ở Việt Nam có một số cách phân
loại công chức cơ bản sau:
- Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành loại A, loại B,
loại C và loại D
- Căn cứ vào vị trí công tác, công chức được phân loại như sau:Công chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý; Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Phân loại theo ngành, lĩnh vực: bao gồm lĩnh vực hành chính, kinh tế, xây
dựng, luật,…
1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động công vụ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến
hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, phục vụ lợi ích Nhà nước, nhân dân và xã hội. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể
ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động
thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan

của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.
1.2.2.Một số đặc điểm và tính chất của hoạt động công vụ
- Mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích Nhà nước, nhân dân và xã hội.
- Nội dung hoạt động công vụ bao gồm các hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước, của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong lãnh đạo, quản lý và
tham gia quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời tổ chức cung ứng và phục vụ
các nhu cầu chung của xã hội, của nhân dân không vì mục đích lợi nhuận.
- Chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức.
- Hoạt động công vụ không chỉ thuần tuý mang tính quyền lực nhà nước, mà
còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập (được nhà nước uỷ
quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân. Các hoạt động này đều do cán bộ, công
chức nhân danh nhà nước tiến hành. Bao gồm các hoạt động nhân danh quyền lực nhà
nước và các hoạt động của các tổ chức được nhà nước uỷ quyền.


4
- Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước
giao và tuân theo pháp luật.
- Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý trong hoạt động công vụ
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi do Nhà nước áp dụng đối với các cá
nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu
những chế tài được quy định tại phần chế tài của quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý của hoạt động công vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức
về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và
nhiệm vụ đó. Kết quả công vụ và trách nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả của
các cơ quan, tổ chức. Hai nhân tố này luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Một
nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm với tinh thần
tận tuỵ, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức.
1.3. Các dạng trách nhiệm pháp lý của công chức trong hoạt động công vụ

1.3.1. Trách nhiệm kỷ luật của công chức:
Trách nhiệm kỷ luật là hình thức trách nhiệm pháp lý được áp dụng với công
chức nhà nước thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật, tức là người có hành (hành động
hoặc không hành động) vi phạm nghĩa vụ, gây tổn hại cho trật tự pháp luật trong quá
trình quản lý nhà nước. Cơ sở của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật. Đó là hành
vi có lỗi, vi phạm các quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt động công vụ (các nghĩa vụ điều
18, 19, 20, các điều cấm - chương II mục 4 của Luật cán bộ, công chức và các quy
định tại văn bản pháp luật khác), do công chức thực hiện mà chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự (Nghị định số 35/2005/NĐ-CP). Vi phạm đó có thể là việc
cộng chức không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, sai lệch nghĩa vụ được giao
phó.
1.3.2.Trách nhiệm hin
̀ h sự của công chức:
Trách nhiệm hình sư ̣ là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Tính
nghiêm khắc của trách nhiệm hinh̀ sự thể hiện ở chỗ người phải chịu trách nhiệm hình
sự là người bị kết án, bị coi là có tội, có án tích và có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ một
số quyền cơ bản của con người như quyền tự do, các quyền về chính trị, về tài sản…
thậm chí cả quyền được sống. Công chức trước hết là một công dân, khi phạm tội cũng
phải chịu trách nhiệm hình sự như bất kỳ công dân nào khác, ví dụ, công chức trộm
cắp tài sản cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp. Đồng thời trong khi
thực hiện nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó mà phạm tội, đặc biệt là lợi
dụng chức vụ quyền hạn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm hình sự là sự phản ứng của Nhà nước đối với người phạm tội, tức
là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự và có lỗi. Do
đó, tội phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự, ở đâu có tội phạm thì ở đó có trách


5
nhiệm hình sự, không có tội phạm thì không có trách nhiệm hình sự. Vì vậy, một công
chức chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi và chỉ khi công chức đó đã thực

hiện một hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được luật hình sự
quy định. Cơ sở trách nhiệm hình sự của công chức là việc thực hiện tội phạm trong
hoạt động công vụ hoặc bị xử lý kỷ luật hoặc đã bị xử phạt hành chính.
Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự theo quy định của Điều 68 Luật phòng
chống tham nhũng (2005) như sau:Người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3
của Luật này; Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng;Người
không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng; Người có hành vi đe doạ,
trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi
tham nhũng;Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách;Người thực hiện hành vi
khác vi phạm quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Người có hành vi tham nhũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật
được luật hóa tại điều 69 Luật phòng chống tham nhũng.
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định 14 tội có dấu
hiệu đã bị xử lý kỷ luật để làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công
chức (người có chức vụ). Theo quy định của Bộ luật hình sự có các loại tội phạm lấy
căn cứ đã bị xử phạt hành chính là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều đó cho
thấy giữa vi phạm hành chính và tội phạm của công chức có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Điều 352 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Các
tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Người có
chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Từ quy định trên cho
thấy, khái niệm "người có chức vụ" trong luật hình sự được hiểu khá rộng, dường như
là bất cứ người thực thi công vụ nào, tức là bất cứ công chức nào.
1.3.3. Trách nhiệm hành chính của công chức:
Trách nhiệm hành chính là hình thức trách nhiệm pháp lý áp dụng trong hoạt
động quản lý - hoạt động hành chính nhà nước theo quy định của luật hành chính.
Trách nhiệm hành chính được áp dụng nhằm bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước. Pháp

luật quy định bất cứ một cá nhân, tổ chức nào có hành vi vi phạm hành chính, làm
phương hại đến Nhà nước đều bị xử phạt hành chính (trừ một số trường hợp như bất
khả kháng, tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, trường hợp hết thời hạn truy cứu
trách nhiệm hành chính hoặc vi phạm hành chính đã đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự).


6
Cơ sở của trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 2, Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi
do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính”.
Chủ thể áp dụng trách nhiệm hành chính trong bất luận trường hợp nào đều là
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền (nhà chức trách). Chủ thể chịu trách nhiệm
hành chính trong trường hợp công chức vi phạm pháp luật hành chính là công chức
Nhà nước. Theo quy định tại Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính thì cán bộ, công
chức đều bị xử lý khi vi phạm không phân biệt cấp bậc, chức vụ:Người thuộc lực
lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân phạm hành chính thì bị xử lý như đối với
công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng,
an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân có thẩm quyền xử lý .
1.3.4. Trách nhiệm vật chất của công chức:
Trách nhiệm vật chất của công chức là một hình thức trách nhiệm pháp lý được
áp dụng đối với công chức khi thực hiện các hành vi gây thiệt hại về tài sản cho Nhà
nước, gồm: 1) Bồi thường cho Nhà nước vì đã có hành vi làm mất mát, hư hỏng trang
thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản cho Nhà nước; 2) "hoàn trả" cho Nhà
nước (cơ quan, tổ chức có thẩm quyền) khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho
công dân thiệt hại về tài sản do công chức đó gây ra khi thực hiện hành vi vi phạm

pháp luật trong hoạt động công vụ. Khái niệm "bồi thường" và "hoàn trả" nói trên lần
đầu tiên đã được quy định dưới cấp độ luật trong các điều 623, 624 Bộ luật dân sự. Để
pháp điển hóa các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất của công chức, Quốc hội
đã ban hành Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước số 35 năm 2009 để quy định rõ
hơn trách nhiệm đối với công chức trong khi thự hành công vụ được giao.

CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC KHO BẠC
NHÀ NƯỚC TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát về KBNN tỉnh Thái Nguyên
Trong quá trình đổi mới, ngày 01/4/1990, hệ thống KBNN Việt Nam được tái
thành lập và hoạt động liên tục cho đến ngày nay. Cùng trong quá trình xây dựng và
trưởng thành của toàn hệ thống, Chi cục KBNN Bắc Thái (nay là KBNN Thái Nguyên)
được thành lập và đi vào hoạt động từ 01/04/1990.


7
KBNN Thái Nguyên hiện có 5 phòng nghiệp vụ và 8 KBNN trực thuộc. KBNN
Thái Nguyên có các tổ chức Đảng, Đoàn thể, Hội nghề nghiệp,… hoạt động theo điều lệ.
KBNN Thái Nguyên hiện có 184 công chức, 02 lao động hợp đồng theo Nghị định
68/2000/NĐ-CP. Các công chức, lao động hợp đồng cơ bản đáp ứng đủ các tiêu chuẩn,
điều kiện của vị trí đang đảm nhiệm, thường xuyên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, kỷ luật lao động, chấp hành nghiêm nội quy, quy chế,
các quy phạm pháp luật.
KBNN Thái Nguyên đã có những đóng góp quan trọng, cùng với các cơ quan
Tài chính trên địa bàn đưa số thu ngân sách tỉnh Thái Nguyên năm 2018 đạt trên
15.000 tỷ đồng. Thực hiện nhiệm vụ quản lý, kiểm soát các khoản chi ngân sách,
nhất là chi đầu tư phát triển, KBNN Thái Nguyên luôn thực hiện kiểm soát thanh
toán chi trả chặt chẽ, kịp thời cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương.

2.2. Thực trạng trách nhiệm pháp lý của công chức KBNN tỉnh Thái Nguyên

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc hoàn
thiện hệ thống thể chế quy định trách nhiệm pháp lý nói chung, trách nhiệm của
công chức trong hoaṭđông ̣ công vu ̣nói riêng . Đồng thời với nhiều văn bản áp dụng
chung cho mọi công dân và cả cán bộ, công chức, còn có những văn bản pháp luật
chuyên biệt quy định về trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ . Đặc
trưng nhất trong số đó là một số văn bản pháp luật mới ban hành gần đây: Luật
phòng chống tham nhũng năm 2005, Luật cán bộ Công chức năm 2010, Luật xử lý
vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán
bộ, công chức năm 2012, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2012.
Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức và thực tiễn áp dụng trách
nhiệm pháp lý đối với công chức vi phạm là hai mặt thực trạng thực hiện trách
nhiệm pháp lý của công chức, cùng với thực trạng của hệ thống pháp luật, chúng có
quan hệ qua lại, có khi là quan hệ nhân quả.
2.2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức
Về cơ bản, công chức nhà nước là những người luôn đi đầu trong công tác đấu
tranh phòng chống vi phạm pháp luật , chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tuy
nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật của công chức nhất là tham nhũng, tiêu cực, suy
thoái về phẩm chất đạo đức hiện nay đã có những biểu hiện tương đối nghiêm
trọng.Qua tìm hiểu hồ sơ, trong 10 năm trở lại đây, KBNN Thái Nguyên không có
công chức vi phạm pháp luật bị xử lý.


8
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi công vụ, công chức KBNN Thái Nguyên
vẫn có những biểu hiện:
- Công chức thừa hành pháp luật giải thích pháp luật theo nhận thức chủ quan ,
tùy tiện của mình hoặc thực hiện theo những quy định cũ đã hết hiệu lực, hoặc áp dụng
thi hành những quy định của pháp luật chưa theo quy định của pháp luật .

- Vẫn còn có ý kiến phản ánh có công chức cửa quyền hách dịch, sách nhiễu,
gây khó khăn, phiền hà cho công dân và tổ chức trong khi giải quyết công việc.
- Cấp dưới chưa chấp hành đầy đủ hoặc chấp hành chiếu lệ, hình thức sự chỉ
đạo điều hành, văn bản của cấp trên dẫn đến tính thống nhất và thông suốt của hoạt
động quản lý nhà nước chưa thực sự đảm bảo.
2.2.2. Thực trạng trách nhiệm pháp lý của công chức trong hoạt độngg̣ công
vu g̣
Trong những năm gần đây, Bộ Tài chính, KBNN thường xuyên có văn bản chấn
chỉnh, nhắc nhở công chức chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, quy định
của ngành trong thực thi công vụ. Đồng thời, Bộ Tài chính, ngành KBNN cũng xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm, tạo sức răn đe. Công chức KBNN chấp hành nghiêm
kỷ luật lao động, các quy định của pháp luật, của ngành, thực hiện đầy đủ trách nhiệm,
quyền hạn của mình đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giữ vững ổn
định, củng cố được niềm tin của nhân dân với ngành.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra chuyên ngành KBNN, đã
thu hồi cho ngân sách nhà nước 159 triệu đồng don đơn vị sử dụng ngân sách nhà
nước chi sai chế độ, trong đó có trách nhiệm kiểm soát chi của công chức KBNN.
KBNN Thái Nguyên đã có những hình thức xử lý trách nhiệm của công chức theo
đúng quy định của pháp luật. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý của công chức thời
gian qua đã có nhiều tiến bộ tích cực, đã tạo bước chuyển cơ bản trong xử lý vi phạm,
ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Đối với hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm, áp dụng pháp luật, giải thích pháp
luật trong quá trình thực thi công vụ còn mang tính chủ quan, làm chậm chễ, tốn thời
gian, công sức của tổ chức, cá nhân có liên quan đều bị xem xét, xử lý hành chính theo
quy định. Đồng thời, xem xét xử lý về mặt xét đánh giá, xếp loại lao động, đánh giá thi
đua tháng, quý, năm và là căn cứ quan trọng để thực hiện đánh giá, xếp loại công chức,
đảng viên hàng năm.
Trong quá trình áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với công chức, còn thiếu
những quy định về việc kết hợp các biện pháp trách nhiệm pháp lý với các biện pháp
tác động xã hội, đồng thời chưa có biện pháp chế tài đối với các cơ quan, người có

thẩm quyền khi không thực hiện quy định này.


9
2.2. Đánh giá tình hình thực thi trách nhiệm công vụ của công chức hiện
nay
Đánh giá việc thực thi chức trách của công chức là một trong những nội dung
cơ bản và quan trọng trong quản lý nhân sự hành chính nhà nước. Thông qua việc đối
chiếu giữa kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức với một hệ tiêu chí xác định, đơn
vị sử dụng công chức có thể thấy được năng lực, trách nhiệm, sự cống hiến cũng như
đạo đức công vụ của người công chức. Kết quả đánh giá chính là cơ sở để quyết định
các biện pháp phù hợp trong sử dụng, đãi ngộ, bố trí, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, kỉ
luật, khen thưởng công chức.
Như vậy, đánh giá kết quả thực thi công vụ của công chức chính là một trong
những biện pháp để quản lý và xây dựng một đội ngũ công chức chính quy, chuyên
nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một
nền hành chính nhà nước “chính quy, chuyên nghiệp và từng bước hiện đại”.
2.2.1. Về phương pháp đánh giá
- Đánh giá theo tiêu chuẩn và cho điểm: với mỗi loại công việc, có những tiêu
chuẩn cụ thể; cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền đánh giá cho điểm công chức trên
cơ sở hệ tiêu chuẩn đó;
- Đánh giá theo giao kết hợp đồng: khi thực hiện công vụ, công chức ký hợp
đồng với Nhà nước về mục tiêu cần đạt được của công việc, thời gian hoàn thành, điều
kiện đảm bảo. Hết thời hạn thực thi công vụ đó, việc đánh giá được thực hiện trên cơ
sở đối chiếu giữa kết quả đạt được với những điều khoản trong bản hợp đồng đã giao
kết;
- Đánh giá theo ý kiến nhận xét: kết quả thực thi công vụ của công chức được
đánh giá bởi tập thể đồng nghiệp trong đơn vị.
Tại KBNN Thái Nguyên, theo quy định chung của Luật cán bộ, công chức,
phương pháp đánh giá được sử dụng xuyên suốt là phương pháp đánh giá theo ý kiến

nhận xét của tập thể. Quy trình đánh giá công chức thông thường là: (1) Kết thúc năm
công tác, công chức làm bản tự nhận xét và đọc trước đơn vị; (2) Các thành viên trong
đơn vị nhận xét, góp ý và biểu quyết về mức độ hoàn thành công việc của công chức
được đánh giá; (3) Chuyển kết quả đánh giá tới bộ phận tổ chức - cán bộ trong cơ quan
để lưu vào hồ sơ công chức, làm cơ sở cho các quyết định khen thưởng, kỉ luật, đào
tạo, bồi dưỡng, đề bạt... tiếp theo.
Phương pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét có ưu điểm là đề cao tính công khai,
dân chủ; kết quả thực thi công vụ của người công chức được nhìn nhận toàn diện từ
nhiều phía; tạo cơ hội cho mỗi công chức được lắng nghe những nhận xét, góp ý của
đồng nghiệp, từ đó rút kinh nghiệm cho việc thực thi công vụ sau này.


10
Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét hiện nay
đang đang bộc lộ một hạn chế không nhỏ, đó là: việc lấy ý kiến đánh giá của tập thể
mang tính hình thức và hệ quả tất yếu là kết quả đánh giá không phản ánh đúng hiệu
quả làm việc thực tế của từng công chức.
Do tâm lý nể nang, “dĩ hoà vi quý”, ngại nói thẳng nói thật, nên việc đánh giá
công chức trở nên “bình quân chủ nghĩa”, “cào bằng”; tình trạng phổ biến trong các cơ
quan hành chính nhà nước là nếu công chức không vi phạm kỉ luật trong năm công tác
thì đều được xếp loại ít nhất là từ mức hoàn thành công việc.
Kết quả đánh giá không phản ánh đúng hiệu quả làm việc thực tế của từng công
chức dẫn đến một loạt hệ quả:
- Hiện tượng một bộ phận công chức có năng lực lần lượt xin ra khỏi bộ máy
hành chính để chuyển sang làm việc cho khu vực ngoài nhà nước.
- Trong khi đó, không ít công chức trở nên chây ì, không có động lực làm việc,
vì dù họ không phấn đấu thì cuối năm cũng vẫn được xếp loại tiên tiến, xuất sắc như
các công chức mẫn cán khác. Tình trạng không phấn đấu về chuyên môn mà chỉ tập
trung “vun vén” các mối quan hệ để nhận được nhận xét, đánh giá tốt của thủ trưởng
và đồng nghiệp trở nên bình thường và phổ biến.

2.2.2. Về tiêu chí đánh giá
Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, nội dung đánh giá công
chức gồm hai nhóm:
Thứ nhất, những nội dung đánh giá chung đối với tất cả công chức trong bộ
máy hành chính nhà nước, bao gồm: (1) sự chấp hành đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (2) phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác
phong và lề lối làm việc; (3) năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; (4) tiến độ và
kết quả thực hiện nhiệm vụ; (5) tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện
nhiệm vụ.
Thứ hai, những nội dung đánh giá đặc thù dành cho các công chức lãnh đạo,
quản lý, bao gồm: (1) kết quả hoạt động của đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; (2)
năng lực lãnh đạo, quản lý; (3) năng lực tập hợp, đoàn kết công chức.
Việc quy định về nhóm nội dung đánh giá riêng đối với các công chức lãnh đạo,
quản lý là phù hợp, đề cao được tính trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị hành
chính nhà nước. Tuy nhiên, những nội dung đánh giá đưa ra còn chung chung, rất khó
lượng hoá được kết quả, hiệu suất công tác của công chức.
2.2.3. Về việc sử dụng kết quả đánh giá


11
Việc đánh giá kết quả thực thi công vụ của công chức không chỉ là cơ sở để ra
các quyết định cụ thể, ngắn hạn về sử dụng, quản lý nhân sự, mà thực chất, đó là một
quá trình liên tục nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của tổ chức. Về phía tổ chức,
đánh giá là cơ sở để quy hoạch cán bộ, đảm bảo tính kế thừa và phát triển của đội ngũ
nhân sự hành chính. Về phía công chức, quá trình đánh giá liên tục chính là sự đảm
bảo cho quá trình phát triển chức nghiệp của họ, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác
và phấn đấu.

CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT TRONG THỰC THI CÔNG VỤ CỦA CÔNG CHỨC KBNN TỈNH THÁI
NGUYÊN
3.1. Phương hướng phát triển KBNN tỉnh Thái Nguyên
Từ chiến lược, kế hoạch phát triển ngành KBNN, KBNN Thái Nguyên sẽ tiến
hành xây dựng lộ trình phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, phù hợp với trình độ, năng
lực người lao động, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; phân
tích rõ những tác động, ảnh hưởng của chiến lược phát triển KBNN đến đội ngũ công
chức, các quy trình nghiệp vụ, cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc,… để từ đó có những
giải pháp, đề xuất với các cấp, các ngành giúp đơn vị hoàn thành tốt mục tiêu của dự án,
chiến lược đã đề ra.
KBNN Thái Nguyên xây dựng, hoàn thiện các quy chế làm việc, quy chế quản lý
nội bộ,… đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả trong thực
thi công vụ của các công chức.
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật trong thực
thi công vụ của công chức KBNN tỉnh thái nguyên
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, cần thiết phải hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức cả về mặt thể
chế lẫn tổ chức thực hiện theo hướng sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về công chức và hoạt động công vụ. Nền
công vụ phải bảo đảm được nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền "công chức nhà
nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép".
- Bên cạnh việc đổi mới quy định pháp luật nhằm củng cố và tăng cường hoạt động
quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cần thiết phải tăng cường
củng cố quyền hạn và trách nhiệm cho cơ quan nhà nước trong hoạt động thanh tra,


12
kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các đối tượng quản lý để kịp thời phát hiện
tiêu cực trong quá trình quản lý kinh tế, văn hóa- xã hội. Sự đổi mới pháp luật trong

lĩnh vực này có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo đảm sức mạnh của Nhà nước, uy tín
của cơ quan nhà nước và của đội ngũ công chức nhà nước trong thực thi công vụ .
- Nâng cao ý thức pháp luật và đạo đức công vụ của công chức thông qua việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức, đạo đức
của công chức trong hoạt động công vụ, đào tạo, bồi dưỡng, bồi dưỡng lại cán bộ,
công chức, hiện đại hóa nền hành chính. Đồng thời, kết hợp tốt các biện pháp trách
nhiệm pháp lý của công chức với các biện pháp trách nhiệm xã hội trong xử lý công
chức vi phạm pháp luật. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi sinh thời đã để lại
cho chúng ta những bài học sâu sắc. Sắc lệnh do Người ký Sắc lệnh số 6, ký ngày 151-1946 nêu rõ: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên
ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vậy Chính phủ ra Sắc lệnh
gồm 10 điều thưởng và 10 điều phạt cho quốc dân biết rõ những tội nê tránh, những
việc nên làm”.
- Tăng cường trách nhiệm pháp lý của công chức gắn với việc sửa đổi bổ sung
hệ thống ngạch, bậc, quy định hiện hành về tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh cán bộ,
công chức, các quy định về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cho
phù hợp với từng loại đối tượng. Thực hiện có kết quả chương trình hiện đại hóa nền
hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng, hoàn thiện "Chính
phủ điện tử".
- Hoàn thiện chế độ công vụ gắn với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước: Bên cạnh việc đổi mới hệ thống chính trị nói
chung, việc hoàn thiện chế độ công vụ gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, các cơ quan nhà nước.
- Hoàn thiện chế độ công vụ nhằm xây dựng nền công vụ phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân: xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, chế độ công vụ nước ta là chế độ công vụ phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân.
- Hoàn thiện chế độ công vụ gắn với tăng cường chuyên môn, nâng cao đạo đức
công vụ, bảo đảm chế độ thủ trưởng trong các cơ quan công quyền. Việc hoàn thiện
chế độ công vụ cần phải hướng tới xây dựng chế độ phân định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn

vị trong cơ quan nhà nước.
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm
pháp lý của công chức trong hoạt động công vụ
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật


13
- Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, đáp ứng nhu cầu đổi mới của
hoạt động quản lý, cần sớm ban hành Luật Công vụ thay thế Luật cán bộ, công chức.
Luật Công vụ phải xác định rõ được tính chất, phạm vi hoạt động công vụ, trên tinh
thần đó định lại khái niệm công chức và quy chế công vụ cho phù hợp. Đồng thời định
rõ trách nhiệm công chức trong hoạt động công vụ ở hai khía cạnh: trách nhiệm tích
cực và trách nhiệm tiêu cực.
- Trong khi ban hành Luật Công vụ, cần khẩn trương hoàn thiện các quy định
pháp luật quy định về trách nhiệm pháp lý của công chức, bao gồm trách nhiệm kỷ
luật, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật chất.
- Luật phòng chống tham nhũng là những văn bản quy định có tính nguyên tắc
về hình thức trách nhiệm, trình tự thủ tục, thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật và trách
nhiệm vật chất, các bộ, các ngành, địa phương trên cơ sở đặc thù quản lý ngành, lãnh
thổ cần quy định các hành vi vi phạm kỷ luật và tương ứng với nó là các hình thức
trách nhiệm kỷ luật (cụ thể hóa các hành vi vi phạm kỷ luật và mức độ xử lý tương
ứng). Đồng thời ban hành các văn bản quy định về đạo đức nghề nghiệp của công chức
trong từng ngành, lĩnh vực.
- Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định quy định về trách nhiệm liên đới của thủ
trưởng cơ quan nơi có công chức vi phạm pháp luật theo nguyên tắc đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm đầy đủ trong việc quản lý, điều
hành, thực thi công vụ và chịu trách nhiệm liên đới về vi phạm pháp luật của công
chức thuộc cơ quan mình phụ trách; thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
có quyền tạm thời đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới vi phạm pháp luật, thiếu
trách nhiệm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ bất kể thuộc quyền trực tiếp quản lý của

cấp nào cho cơ quan quản lý cán bộ đó tiến hành kiểm điểm, xem xét kỷ luật.
- Pháp điển hóa vi phạm hành chính, trong đó chia làm hai phần, phần chung và
phần riêng. Phần chung quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc về trách
nhiệm hành chính, tương tự như nội dung quy định trong Luật xử lý vi phạm hành
chính 2012, trong đó có bổ sung hình phạt lao động công ích vào hệ thống các biện
pháp trách nhiệm hành chính bởi lẽ,trong giai đoạn hiện nay đối với nhiều đối tượng
thì hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền sẽ không có vai trò giáo dục bằng hình phạt lao
động công ích.
- Chính phủ cần có văn bản pháp luật riêng, quy định về trách nhiệm hành
chính của công chức, nhất là công chức lãnh đạo. Trong văn bản này, cần xác định rõ
cơ sở trách nhiệm hành chính của công chức là những hành vi vi phạm hành chính trên
các lĩnh vực quản lý: nhà đất, đầu tư, xây dựng cơ bản, quy hoạch, kế hoạch, ban hành,
kiểm tra thực hiện văn bản, thông tin báo cáo, phối hợp công tác và tương ứng với nó
là các biện pháp xử lý, đồng thời quy định việc gửi quyết định xử lý vi phạm hành
chính đến cơ quan nơi công chức vi phạm để có hình thức xử lý kỷ luật.


14
- Các quy định của pháp luật về trách nhiệm vật chất cũng cần phải quy định về
nguyên tắc mức bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp công chức gây thiệt hại
trên 5 triệu đồng; những tiêu chí được miễn, giảm trách nhiệm vật chất; trách nhiệm
của Nhà nước đối với công chức khi Nhà nước gây thiệt hại cho công chức về vật chất,
tinh thần; trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khi tham gia giải
quyết bồi thường thiệt hại; việc bồi thường khi công chức hoặc cơ quan nhà nước gây
thiệt hại cho công dân, tổ chức về tinh thần, danh dự…Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung
Nghị định, văn bản pháp luật liên quan với những quy định chặt chẽ hơn quy định về
chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công, chế độ phục vụ nhân dân
cán bộ, nhân viên và cơ quan nhà nước cho phù hợp với yêu cầu quản lý trong giai
đoạn mới.
- Trách nhiệm chính trị của công chức nhà nước phải được pháp luật hóa, phải được

thẩm thấu vào trách nhiệm pháp lý. Cần bổ sung một điều khoản mang tính nguyên tắc
chung về vấn đề này vào trong Luật cán bộ, công chức, đó là: nếu cán bộ, công chức
nhà nước, cán bộ trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội mà vi phạm pháp
luật trong hoạt động công vụ, thì bị xử lý nặng hơn so với công dân bình thường.
- Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế quản lý hành chính, trong đó tập trung
vào việc hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước, giữa
trung ương với địa phương, khắc phục tình trạng chế độ trách nhiệm không rõ ràng.
Bảo đảm bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
- Ban hành quy định hướng dẫn thống nhất về trình tự, cách thức áp dụng các
biện pháp trách nhiệm pháp lý với các biện pháp trách nhiệm xã hội (chính trị, đạo
đức), chế tài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện tốt quy định này.
3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
Đẩy mạnh cải cách hành chính trên cả bốn nội dung: cải cách thể chế, cải cách
tổ chức bộ máy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước,
cải cách tài chính công; gắn cải cách hành chính với phát triển kinh tế - xã hội; đẩy lùi
tham nhũng tiêu cực và chỉnh đón Đảng; cải cách hành chính phải được tiến hành đồng
bộ với cải cách tư pháp và hoạt động lập pháp. Trong đó, chú trọng thực hiện tốt chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh Nghị quyết lần
thứ XI của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực thực thi công vụ,
có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tính kỷ luật, kỷ cương gắn với cải cách chế
độ tiền lương, nâng cao đời sống của người hưởng lương nói chung và cán bộ.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ, kinh tế-xã hội phát triển
và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện đó, đòi hỏi


15
các cơ quan quản lý Nhà nước, trong đó có hệ thống KBNN cũng phải có sự đổi mới,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển

của đất nước.
Hệ thống KBNN đang ở trong giai đoạn nước rút, quyết định thành công trong
việc thực hiện chiến lược phát triển ngành ngành KBNN đến năm 2020. Để triển khai
thành công chiến lược phát triển thì yếu tố con người có ý nghĩa quyết định, đòi hỏi
phải xây dựng được đội ngũ công chức KBNN đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng,
yêu ngành yêu nghề, tâm huyết với nghề KBNN có đầy đủ năng lực pháp lý trong quá
trình thực thi công vụ.
Từ thực tế trên, đề tài " Trách nhiệm pháp lý trong hoạt động công vụ của công
chức Kho bạc Nhà nước Thái Nguyên " góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
chung và thực tiễn của KBNN Thái Nguyên nói riêng và cả hệ thống KBNN về phát
triển NNL từ việc xây dựng kế hoạch, phân tích công việc đến quá trình tuyển dụng,
quản lý, sử dụng, sắp xếp, bố trí, bồi dưỡng đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm… Từ thực
tiễn những năm qua, luận văn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế đó.
Từ lý luận và những nghiên cứu, phân tích thực tiễn, luận văn đề xuất những
định hướng, giải pháp phát triển NNL KBNN Thái Nguyên từ khâu hoàn thiện cơ cấu
tổ chức, xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, tinh giản biên chế và chế
độ đãi ngộ đối với công chức; đồng thời Luận văn cũng có một số kiến nghị về hoàn
thiện cơ chế chính sách, về tổ chức bộ máy nhằm đảm bảo phát triển NNL KBNN Thái
Nguyên đáp ứng được yêu cầu của ngành hiện nay và những giai đoạn tiếp theo ./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, (1997) Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


16
4. Bộ Chính trị, 2004, Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính

trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
6. Bộ Tài chính (2010), Tổ chức cán bộ 2005-2010 và định hướng mục tiêu,
nhiệm vụ đến nay 2015, Nhà xuất bản Tài chính.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997, 2001, 2006), Các văn kiện Đại hội VIII,
IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Kho bạc Nhà nước (2008), Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020, Nhà
xuất bản Tài chính.
13. Kho bạc Nhà nước Thái Nguyên (2010), Kỷ yếu KBNN Thái Nguyên 20
năm xây dựng và trưởng thành.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2008. Luật cán bộ,
công

chức,

[trực

tuyến]

/>
=578,33345598&_dad=portal&_schema=PORTAL&docid=81139
15/9/2010]

page?_pageid
[truy

cập




×