BÀI TẬP
MÔN: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Sinh viên: Hà Quốc Thái
Mã sinh viên: VB2TN3034
Lớp: VB2K3 Thái Nguyên.
ĐỀ BÀI:
Các phương thức tuyển dụng quan lại ở Việt Nam thời phong kiến và bài
học kinh nghiệm.
BÀI LÀM
Lịch sử của các dân tộc, quốc gia là một dòng chảy không ngừng, thế hệ
sau kế tiếp thế hệ trước viết lên lịch sử dân tộc và xây dựng tiếp nối nền văn hóa
của dân tộc mình. Trong lĩnh vực công vụ, công chức, viên chức, quản trị đất
nước việc nghiên cứu truyền thống dân tộc để khai thác, bảo tồn, gìn giữ, phát
huy những giá trị đích thực phục vụ cho cuộc sống ngày nay và mai sau là vô
cùng cần thiết.
Trong lịch sử phong kiến Việt nam, pháp luật rất được chú trọng, quan
tâm đến những người làm việc trong bộ máy nhà nước, vấn đề thứ nhất là chế độ
tuyển dụng, trọng dụng nhân tài, đề cao đạo đức người làm quan. Người làm
quan phải là người quân tử, con người đó thể hiện là: Chính tâm, tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ; đạo làm quan cốt ở hai điều “trên thì yêu vua, dưới thì
yêu dân”. Người làm quan phải là người có tài “dựng nước lấy học làm đầu, cần
trị lấy dân làm gốc”. Đồng thời, không chỉ dựa vào bằng cấp, khoa cử, mà phải
được kiểm nghiệm bằng thực tế, lấy kết quả công việc để đánh giá và sử dụng
tài năng. Vì vậy, có nhiều người là hoàng thân, quốc thích nhưng không có tài
thì chỉ được nhà vua phong hàm, phong tước để hưởng bổng lộc của triều đình,
nhưng không được giao quyền để giải quyết, điều hành công việc. Chính vì vậy,
nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản trị được đất nước trong những điều kiện
rất khó khăn, đặc biệt khi đất nước có giặc ngoại xâm.
Ngay từ thời Lý (thế kỷ XI), vua Lý Nhân Tông, năm Ất Mão (1075),
mùa xuân tháng 2 xuống chiếu thi minh kinh bác sĩ và Nho học tam thường; vào
năm Thiên tư Gia Thụy thứ 10 (1195) đời Lý Cao Tông bắt đầu mở thi Tam giáo
(Nho - Phật - Lão). Tuy vậy, đời Lý (1010 - 1225) chưa thật chú trọng đề cao
khoa trường, con đường làm quan chủ yếu lấy tuyển cử làm trọng và thực hiện
chế độ nhiệm tử - tức dùng các con quan. Đến thời vua Lê Thánh Tông thì khoa
1
cử được đề cao. Đến triều vua Minh Mạng (nhà Nguyễn) đã đặc biệt chú ý tới
khoa cử và dần được nâng lên thành phương thức chính thống, phổ biến trong
toàn nước để chọn nhân tài; đã mở khóa thi Hương, thi Hội rồi thi Đình. "Đó
không phải là một dịp long trọng giản đơn của đại học, mà nó thực sự là sự vận
hành của một thể chế chính trị chân chính". Những người đỗ đạt đều được trọng
dụng theo khả năng thực tế của từng người: có học vị cao thì được bổ ngay, nhận
chức cao và làm quan trong triều đình, nếu thi đỗ với học vị thấp hơn thì làm ở
phủ, ở huyện. Như vậy, có thể nói chế độ tuyển dụng quan chức thời này dựa
vào bằng cấp, phẩm chất chuyên môn của người được tuyển dụng. Năng lực của
từng người sẽ quyết định vị trí của người đó trong bộ máy nhà nước, chức vụ
tương ứng với tài năng.
Dưới triều Nguyễn việc tuyển dụng quan lại thông qua ba hình thức: thi
tuyển, bảo cử hoặc do nhiệm tử.
Các phương thức tuyển dụng quan, lại được đề cập khá chi tiết trong
nhiều văn bản của các triều đại phong kiến Việt Nam, phương thức tuyển dụng
quan và lại có nhiều điểm khác nhau.
I-CÁC PHƯƠNG THỨC TUYỂN DỤNG QUAN LẠI Ở VIỆT NAM
THỜI PHONG KIẾN
Nhiệm tử (Tập ấm): Con cháu quí tộc, quan lại ra làm quan;
Khoa cử: thông qua các kì chi chọn người đỗ đạt;
Tiến cử và bảo cử: Quan lại phát hiện giới thiệu những người có tài, có
đức ra làm quan và chịu trách nhiệm về họ;
Mua bán: khi nhà nước gặp khó khăn về tài chính, áp dụng đối với những
chức quan nhỏ...
Nhiệm tử
Là phương thức tuyển dụng con cháu của quý tộc công thần và quan chức
dựa trên ân trạch của ông cha. Đây là phương thức tuyển dụng quan chức chủ
yếu thời Lý – Trần. Tuy nhiên thủ tục và đổi tượng tuyển dụng không được ghi
chép rõ ràng trong chính sử. Theo ghi chép của “Đại Việt sử kí toàn thư”, đối
tượng được hưởng lệ nhiệm tử khá rộng bao gồm con cháu những người đã
được nhà nước phong quan tước. Thông qua lệ nhiệm tử, các chức vụ trong
chính quyền trung ương và địa phương được trao cho người trong hoàng tộc. Lệ
nhiệm tử thời Hậu Lê và thời Nguyễn được quy định chặt chẽ về đối tượng, thể
lệ và phạm vi tuyển dụng và được gọi là lệ Ấm sung.
Tùy từng giai đoạn và từng triều đại, đối tượng được hưởng lệ Ấm sung
rộng hẹp khác nhau. Thời Lê, đối tượng được hưởng Ấm sung bao gồm: Các
con và cháu trưởng các tước công, hầu, bá; con trai của các quan nhất nhị phẩm
2
và con trưởng các quan từ tam phẩm tới bát phẩm. Thời Nguyễn đối tượng được
hưởng ấm phong đã được thu hẹp đáng kể về phạm vi, chỉ còn con của các quan
có hàm từ tứ phẩm trở lên. Để được tuyển dụng vào các chức vụ nhà nước với
phẩm hàm không cao (từ ngũ phẩm trở xuống), các đối tượng được hưởng lệ
Ấm sung thời kì này buộc phải sung vào ngạch Nho sinh để học tập, cứ 3 năm
nhà nước sẽ tổ chức khảo hạch 1 lan. Chức vụ và phẩm hàm của đôi tượng được
ấm sung lệ thuộc vào kêt quả thi khảo hạch và dựa trên tước phẩm của ông cha.
Khoa cử
Là phương thức lựa chọn quan chức thông qua việc tổ chức các kì thi.
Khoa cử bắt đầu được thực hiện vào năm 1075 dưới triều nhà Lý, tuy nhiên
khoa cử dưới thời Lý chưa được coi trọng. Từ thời nhà Trần, khoa cử dần trở
thành thông lệ (7 năm một lần), tới thời Hậu Lê và thời Nguyễn, khoa cử là
phương thức tuyển chọn quan lại chủ yếu. Khoa cử không chỉ áp dụng để tuyển
quan văn mà còn áp dụng để tuyển quan võ, thậm chí cả tăng quan. Nhà nước
phong kiến mở nhiều khoa thi để lựa chọn nhân tài, ngoài Thưởng khoa còn có
Ân khoa, Chế khoa và khoa thi Bác cử (chỉ dành riêng cho tuyển quan võ), song
Thưởng khoa là khoa thi tuyển quan chủ yếu. Nội dung khoa cử thay đổi theo
yêu cầu tuyển dụng của từng giai đoạn, từng triều đại và theo tính chất của khoa
thi. Chế khoa và Ân khoa thờng có nội dung thi đơn giản, Thưởng khoa dưới
thời Trần ngoài thi Nho giáo còn thi Tam giáo; từ thời Hậu Lê các kì thi tuyển
quan đều thi Nho giáo.
Điều kiện tham gia khoa cử ngày càng chặt chẽ. Thời Lý – Trần, Nhà
nước phong kiến Việt Nam chưa quy định điều kiện tham gia khoa cử nhưng tới
thời Hậu Lê, điều kiện tham gia khoa cử đã được quy định rõ ràng:
+ Phải là dân Đại Việt
+ Có hạnh kiểm tốt thông qua giấy xác nhận tư cách đạo đức của xã quan.
Những người và con cháu những người bất mục, bất hiếu, loạn luân, làm nghề
hát xướng không được tham gia khoa cử.
Thời Nguyễn, nhà nước loại trừ các đối tượng sau đây không được tham
gia khoa cử: Những người làm nghề chủ chứa, cai ngục đầy tớ, phu thuyền và
phu khiêng kiệu.
Về thủ tục, Thưởng khoa từ thời kì nhà Trần được tổ chức qua 3 kì thi:
Thi Hương, thi Hội, thi Đình. Dựa trên két quả đạt được người đỗ các kì thi có
thể được bổ nhiệm làm quan hay lại. Thời Lê nho sĩ vượt qua kì thi Hương và
trúng hai trưởng thi Hội chỉ được bố làm lại viên, đỗ thi hội được bổ làm Nho
chỉ huy sứ; thời Nguyễn chỉ cần đỗ thi Hương đã được bổ nhiệm chức Huấn đạo.
Thủ tục bổ dụng cũng hoàn toàn phụ thuộc vào kì thi họ đã trải qua, nếu đỗ thi
Hương và thi Hội sẽ được bổ nhiệm ngay nhưng đỗ thi Đình bản thân các tiến sĩ
phải trải qua kì thực tập sau đó mới chính thức được bổ nhiệm. Quan chức lựa
chọn qua khoa cử được coi trọng và xếp vào bậc quan chức có xuất thân, thưởng
3
được bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng. Một số cơ quan chỉ lựa chọn quan
chức là tiến sĩ: Hàn lâm viện, Hiến ty, Nội các.
Phương thức tuyền lại
Các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng tuyển lại qua các kì thi. Lại
viên được tuyển qua các ki thi cũng được gọi là lại viên có xuất thân và được
trao trọng trách hơn so với lại viên không qua thi cử. Quy chế tuyển lại không
quá chặt chẽ như tuyển quan:
- Các kì thi tuyển lại không được tổ chức theo định kì;
- Tùy từng triều đại, tùy từng thời kì mà nội dung thi tuyển thay đổi cho
phù hợp;
- Có thể tổ chức tuyển lại viên chung tất cả các cơ quan, hoặc cũng có thể
giao cho các cơ quan tự tổ chức;
- Có thể xét tuyển từ kết quả của các kì thi tuyển quan.
Tiến cử và bảo cử
Đây là hai phương thức tuyển dụng thông qua giới thiệu, đề nghị của các
quan chức cao cấp trong triều đình. Phép tiến cử và bảo cử (thời Lý – Trần còn
gọi là tuyển cử) được áp dụng khá nhiều dưới thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Phép
bảo cử thưởng áp dụng khi lựa chọn quan chức ở các cơ quan quản lí việc quân,
việc dân ở địa phương như quan huyện, quan thừa ti, quan tổng binh hoặc các cơ
quan có chức năng kiểm tra giám sát như quan Hình bộ, quan Hiến ty. Đối tượng
được bảo cử là những người đang làm quan có uy tín và tài năng. Phép tiến cử
thưởng được áp dụng đối với những người có tài năng và đức hạnh nhưng chưa
từng làm quan. Tiến cử và bảo cử giúp nhà vua lựa chọn được các quan chức
thực tài bởi thủ tục được quy định khá chặt chẽ.
+ Phải được giới thiệu bởi các quan chức nhà nước (thời Hậu Lê, Tây Sơn
chấp nhận tự tiến cử)
+ Trước khi bổ nhiệm phải qua kì sát cử của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
+ Người tiến cử phải chịu trách nhiệm về tư cách và năng lực của người
mà mình tiến cử.
Mua bán quan tước:
Ngoài ba phương thức trên, nhà nước phong kiến Việt Nam vào một số
thời điểm còn tổ chức mua bán quan tước, tuy nhiên quan chức do mua bán
thường chỉ được phong phẩm hàm mà không được trao chức vụ.
II-BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Các phương thức tuyển dụng quan lại ở Việt Nam thời phong kiến cơ bản
đều hướng tới mục tiêu để xây dựng hệ thống quan lại để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Ông cha ta đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau, với những thời
điểm và với những đối tượng khác nhau, nhưng tựu chung lại, ở tất cả các thời
4
kỳ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, phải thu hút và trọng dụng người có tài tham
gia vào hệ thống quan lại. Từ đó có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất,, xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực nhằm bảo đảm có
sự tiếp nối các thế hệ công chức lãnh đạo cấp cao có tài năng và coi đây là một
trong những khâu quan trọng trong quản lý và phát triển nguồn nhân lực. Sự
thăng tiến về nghề nghiệp của các công chức có tài năng tùy thuộc vào trình độ,
năng lực, đạo đức nghề nghiệp và kết quả công việc.
Thứ hai, phải biết tìm người tài ở đâu và làm thế nào để thu hút được họ.
Có nhiều hình thức thu hút khác nhau như các hình thức khoa cử, tiến cử, bảo
cử, tự tiến cử, thậm chí nhiệm tử là những hình thức mà ông cha ta đã thường sử
dụng. Tuy nhiên, với bất kỳ hình thức nào, việc lựa chọn phải được thực hiện
một cách công bằng, nghiêm minh.
Thứ ba, phải biết sử dụng người tài như thế nào; bố trí người tài vào
những vị trí, chức vụ nào cho phù hợp; việc tổ chức các đợt “khảo hạch” cũng là
một trong những hình thức để giúp người tài bồi dưỡng thêm kiến thức và thanh
lọc đội ngũ quan lại; đồng thời, việc định kỳ thuyên chuyển quan lại và không
bố trí quan lại làm việc ở quê hương bản quán cũng là một hình thức làm cho
người tài toàn tâm toàn ý với công việc và tránh tình trạng cục bộ, bè phái.
Thứ tư, phải biết làm thế nào để bảo vệ người tài; có cơ chế nuôi dưỡng,
phát triển, tôn vinh và trọng đãi người hiền tài; đồng thời, có chế tài thưởng phạt
nghiêm minh. phải có những biện biện pháp hữu hiệu nhằm tránh tình trạng “cả
nhà, cả họ làm quan trên cùng một địa phương” hay tình trạng cài cắm “hậu
duệ” vào các chức vụ lãnh đạo quản lý khi không đủ điều kiện, năng lực.
Hình thức tuyển dụng quan lại thời phong kiến là những kinh nghiệm lịch
sử, vẫn còn nguyên giá trị, ngày nay cần quan tâm chắt lọc biến thành những
quy tắc pháp lý làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng những người làm việc
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội./.
5