Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Luận văn pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.54 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, nhất là sau những năm hội nhập kinh tế quốc tế,
hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đã lớn mạnh vượt bậc, tăng
trưởng nhanh về số lượng cũng như chất lượng, mở rộng mạng lưới hoạt động
rộng khắp cả nước, tạo tiền đề vững chắc cho Việt Nam chuyển sang nền kinh tế
thị trường, đồng thời đóng góp to lớn cho quá trình tăng trưởng kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công khi hội nhập, các ngân hàng thương mại
Việt Nam đã bộc lộ một số bất cập, yếu kém như vốn điều lệ và tính thanh khoản
thấp, tỷ lệ nợ xấu gia tăng, trình độ quản trị còn yếu, nguồn nhân lực chưa đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế… Thực trạng này đặt ra vấn đề cấp bách là phải tái
cấu trúc hệ thống các ngân hàng thương mại. Khi yêu cầu tái cấu trúc đặt ra, quá
trình sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp thành công sẽ giúp các doanh nghiệp nâng
cao sức mạnh toàn diện, lợi thế cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế.
Pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là doanh nghiệp nói chung và
trong lĩnh vực ngân hàng thương mại đã được quy định tại một số văn bản pháp
luật như Bộ luật dân sự năm 2015, Luật cạnh tranh năm 2014 và các văn bản dưới
luật khác như Thông tư 36/2015/TT-NHNN . Những quy định này đã đáp ứng
được yêu cầu về việc điều chỉnh hoạt động sáp nhập pháp nhân là ngân hàng
thương mại chưa? Có những ưu điểm hay hạn chế gì? Phương hướng khắc phục ra
sao? Do đó, việc nghiên cứu vấn đề này là vô cùng cần thiết và cấp bách trong
giai đoạn hiện nay nhằm tìm hiểu sau hơn những lý luận về hoạt động sáp nhập,


hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại, đồng thời tìm hiểu, đánh giá những
quy định của pháp luật để tìm ra những bất cập và đưa ra các giải pháp phù hợp.
Trong khuôn khổ đề tài này, đề tài sẽ phân tích các vấn đề pháp lý của việc
sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và đưa ra một số giải pháp đề xuất
hoàn thiện các quy định cuả pháp luật hiện nay.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hang thương mại là một chủ đề khá cấp
thiết trong những năm vừa qua trong điều kiện tình hình kinh tế thị trường có
nhiều biến chuyển theo cả hai hướng thuận nghịch ảnh hưởng rất nhiều đến tốc độ
tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Đứng trước những yêu cầu cấp bách nhằm xây
dựng những quy định pháp luật mới điều chỉnh hoạt động này, nhiều công trình
nghiên cứu đã được thực hiện và chỉ ra các khó khăn, bất cập còn tồn tại và
phương hướng xây dựng các cơ chế giải quyết như:
- Sáp nhập, hợp nhất và mua bán ngân hang thương mại cổ phần ở Việt Nam, luận
án tiến sỹ kinh tế của Phan Diên Vỹ, trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí
Minh, 2013.
- Pháp luật về mua lại, sáp nhập pháp nhân là ngân hàng thương mại ở Việt Nam
hiện nay, luận án tiến sỹ luật học của Phạm Minh Sơn, học viện hàn lâm khoa học
Việt Nam, 2016.
- Bàn về việc hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng ở Việt Nam, TS. Lê Xuân
Nghĩa 2006, NXB Văn hóa –Thông tin
- Hoạt động mua bán, sáp nhập các ngân hàng thương mại Việt Nam thực trạng và
giải pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, TS. Nguyễn Thị Loan 2011.


- “Hội nhập kinh tế quốc tế-tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam phù hợp với
chuẩn mực và thông lệ quốc tế”, GS.TSKH Nguyễn Duy Gia 2009, NXB Đại học
quốc gia TP.Hồ Chí Minh.
- Thâu tóm và hợp nhất nhìn từ khía cạnh quản trị công ty: Lý luận, kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Lưu Minh Đức 2008, Tạp chí quản lý kinh tế, số
7+8.
- Thâu tóm và hợp nhất từ khía cạnh quản trị công ty: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế
và thực tiễn Việt Nam, TS.Nguyễn Đình Cung. TS Lưu Minh Đức (2007).
- “Phương pháp xác định giá trị cho Ngân hàng thương mại Việt Nam”. Tài liệu hội
thảo hoàn thiện các phương pháp định giá doanh nghiệp trong cổ phần hóa và

chuyển đổi DNNN Việt Nam, Trần Việt Anh 2005.

Các công trình nêu trên đã góp phần xây dựng phương hướng cải cách các
quy định về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
công trình nghiên cứu “Sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại
theo pháp luật Việt Nam” dưới đây là một công trình nghiên cứu nhằm đưa ra các
điểm còn bất cập trong hệ thống pháp luật, có sự tham khảo các quy định pháp
luật của các nước trên thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn cầu hóa. Học
viên muốn thông qua các thông tin của luận văn cung cấp sau đây, có thể giúp xây
dựng phương hướng cơ bản để tái cấu trúc các quy định về sáp nhập, hợp nhất
pháp nhân là ngân hàng thương mại trong pháp luật viện nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
3.1. Mục tiêu tổng quát:


Làm rõ những vấn đề lý luận về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân và tính khả
thi của việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tìm ra các bất cập và đề xuất các giải pháp pháp
lý hoàn thiện pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại
tại Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về pháp nhân, ngân hàng thương mại
- Làm rõ bản chất của việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân.
- Phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan của việc thiết lập quy định về việc sáp
nhập, hợp nhất pháp nhân
- Phân tích thực trạng pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng
thương mại tại Việt Nam.
- Phân tích quy định về việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương
mại tại các nước trên thế giới như Mỹ, Hàn Quốc và đưa ra phân tích một số vụ

việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân ngân hàng thương mại điển hình.
- Xác định tính khả thi trong việc áp dụng các quy định đó tại Việt Nam.
- Kiến nghị và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật về việc sáp
nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài.


Trong thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề sáp
nhập, hợp nhất ngân hàng nhưng việc nghiên cứu về vấn đề sáp nhập, hợp nhất
pháp nhân là ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn là vấn
đề cần thiết trên cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm tái cơ cấu lại hệ thống Ngân
hàng ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngân hàng trong việc
xây dựng và thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất theo quy định của pháp luật. Ngoài
ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu ở Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở
Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề chủ yếu của các quy định pháp luật
Việt Nam về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích pháp luật về sáp nhập,
hợp nhất các ngân hàng thương mại là pháp nhân như điều kiện sáp nhập, hợp
nhất, trình tự thủ tục sáp nhập, hợp nhất , các trường hợp sáp nhập hợp nhất và
đánh giá tài sản khi sáp nhập, hợp nhất ngân hàng thương mại.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài có các nhiệm vụ sau đây:
- Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về sáp nhập, hợp nhất ngân hàng
thương mại là pháp nhân.



- Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trang về sáp nhập, hợp nhất pháp
nhân là ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
- Thứ ba, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về sáp nhập, hợp nhất
pháp nhân là ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật sáp nhập, hợp nhất pháp
nhân là ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về sáp
nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật sáp nhập, hợp nhất pháp nhân
là ngân hàng thương mại.
1. Một số vấn đề lý luận về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng
thương mại
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, phân loại sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân

hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm pháp nhân là ngân hàng thương mại
“Ngân hàng thương mại” (NHTM) được coi là một định chế tài chính ra
đời và phát triển gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể


và sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch
vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và
đời sống con người. [13] Do đó, NHTM là một sản phẩm độc đáo của nền sản
xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt

trong nền kinh tế.
Để đưa ra một cái nhìn tổng quát nhất về NHTM phải dựa vào tính chất và
mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn phải kết hợp
tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.Theo Luật Ngân hàng của Pháp năm
1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà
họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính”[26]. Hay Luật Ngân hàng của Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ
sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”[27]. Như vậy, mặc
dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, tùy thuộc vào tập
quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi sâu
vào phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, ta có thể nhận thấy
rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác –
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng.
Ở Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
mọi người bình đẳng trước pháp luật và được tự do kinh doanh. Điều 4 Luật các
Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”[25]. Trên cơ sở đó, có thể
nhận thấyở Việt Nam hiện nay có các loại hình ngân hàng sau: Ngân hàng thương


mại nhà nước; Ngân hàng thương mại cổ phần; Ngân hàng liên doanh; Ngân hàng
phát triển; Ngân hàng đầu tư; Ngân hàng chính sách; Ngân hàng hợp tác; Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
- Ngân hàng thương mại nhà nước: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước cấp
vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh doanh

bình thường như: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác,… ngân hàng còn
phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và
hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Vốn do các cổ đông đóng góp, trong đó
có các doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác, và cá nhân cùng
góp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Loại hình ngân hàng này hiện tại
nhỏ hơn ngân hàng thương mại Nhà nước về quy mô nhưng về số lượng thì nhiều
hơn và ngày càng tỏ ra năng động và nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm mục
tiêu hội nhập.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của một bên là ngân hàng Việt Nam và bên còn
lại là ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân Việt Nam, có
trụ sở chính tại Việt Nam, hoạt động theo giấy phép thành lập và theo các quy định
liên quan của pháp luật.
- Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là tập
trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, dài hạn vì sự phát triển. Hoạt
động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng này hoạt động với mục tiêu đầu tư trung,
dài hạn và cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp qua
các giấy tờ có giá.
- Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà
nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước (gồm sở hữu Nhà nước và sở


hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những chính sách
của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
- Ngân hàng hợp tác: Đây là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể,
được các thành viên tự nguyện lập không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục
tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng

nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm
chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung gian tài chính,
đảm bảo sự phát triển hài hòa cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt
động sản xuất kinh doanh.Mỗi sự giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít
nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy, sự hoạt động có hiệu quả của
NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà
nước tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về khái niệm “Pháp nhân”, “Pháp nhân” ở đây được hiểu là một tổ chức
có đủ các điều kiện sau: (1).Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc
luật khác có liên quan; (2).Cơ cấu tổ chức phải có cơ quan điều hành. Tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong
điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; (3).Có tài sản
độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình; (4).Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập [23].
Pháp nhân bao gồm pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận định “Ngân hàng thương
mại” được coi một pháp nhân. Bởi chủ thể này đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về
cơ cấu tổ chức, tài sản độc lập, tư cách chủ thể độc lập và cũng được thành lập
theo quy định của pháp luật điều chỉnh.


1.1.2. Khái niệm sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại
*/ Khái niệm sáp nhập pháp nhân là ngân hàng thương mại
Về mặt khái niệm, theo từ điển các khái niệm, thuật ngữ tài chính: “Sáp
nhập” (Mergers) là hình thức kết hợp mà hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng loại
(gọi là doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp bị sáp nhập) để trở thành một
doanh nghiệp lớn hơn, thường được thực hiện thông qua sự chủ động của các bên,
trong đó doanh nghiệp bị sáp nhập chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác – doanh nghiệp nhận sáp

nhập.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, “sáp nhập” được xem xét và điều
chỉnh dưới nhiều góc độ, được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp luật do các cơ
quan có chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau soạn thảo và
ban hành. Cụ thể như sau:
Khái niệm “sáp nhập” hiện nay được quy định tại một số các văn bản pháp
luật. Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 quy định về sáp nhập pháp nhân tại Điều 89
như sau: “1. Một pháp nhân có thể được sáp nhập (sau đây gọi là pháp nhân được
sáp nhập) vào một pháp nhân khác (sau đây gọi là pháp nhân sáp nhập).2. Sau khi
sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự
của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập”. Theo
đó, một pháp nhân có thể được sáp nhập vào một pháp nhân khác và kết quả của
việc sáp nhập pháp nhân là pháp nhân được sáp nhập chấm dứt sự tồn tại; các
quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho
pháp nhân sáp nhập.
Khoản 1 Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định: “Một hoặc một
số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty


khác (sau đây gọi là công ty sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của công ty bị sáp nhập”. Cách thức sáp nhập giữa các công ty là một hoặc
một số công ty chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang
công ty nhận sáp nhập. Sau khi sáp nhập thì công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn
tại.
Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng đưa ra khái niệm về sáp nhập nhưng chủ
thể sáp nhập trong Luật Cạnh tranh là các doanh nghiệp, rộng hơn chủ thể sáp
nhập trong Luật Doanh nghiệp là các công ty. Hơn nữa, sáp nhập trong Luật
Doanh nghiệp được đề cập đến trong chương tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh
nghiệp trong khi sáp nhập trong Luật Cạnh tranh được đề cập đến trong mục tập

trung kinh tế.Khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy định: “Sáp nhập doanh nghiệp
là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”[22]. Sáp nhập doanh nghiệp trong Luật Cạnh
tranh được nghiên cứu dưới góc độ tập trung kinh tế. Tương tự như sáp nhập công
ty trong Luật Doanh nghiệp, các doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác và kết quả là
sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập chấm dứt.
Mặt khác, Khoản 1 Điều 3 Thông tư 36/2015/TT-NHNN của Ngân hàng
Nhà nước quy định: “Sáp nhập TCTD là việc một hoặc một số TCTD (sau đây gọi
là TCTD bị sáp nhập) chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
sang một TCTD khác (sau đây gọi là TCTD nhận sáp nhập), đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của TCTD bị sáp nhập”[28]. Các TCTD thuộc phạm vi điều chỉnh của
Thông tư bao gồm: NHTM; Công ty tài chính; Tổ chức, cá nhân có liên quan đến
việc tổ chức lại tổ chức tín dụng (quy định tại Điều 2 Thông tư này). Sáp nhập
TCTD là trường hợp đặc biệt của sáp nhập doanh nghiệp. Khi một TCTD sáp nhập


vào TCTD khác thì toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp được
chuyển cho bên đối tác (TCTD nhận sáp nhập) và TCTD bị sáp nhập cũng đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của mình. TCTD sau sáp nhập là sự kết hợp của TCTD bị
sáp nhập và TCTD nhận sáp nhập.
Bản thân NHTM là một pháp nhân. Bên cạnh đó, NHTM lại thuộc nhóm
các TCTD. Do đó, có thể định nghĩa “sáp nhập pháp nhân là ngân hàng thương
mại” như sau: Sáp nhập pháp nhân là NHTM là hình thức một hoặc một số NHTM
(sau đây gọi là NHTM bị sáp nhập) sáp nhập vào một NHTM khác (sau đây gọi
là NHTM sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp sang NHTM nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của NHTM
bị sáp nhập.
*/ Khái niệm hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại

Khái niệm “hợp nhất” (Consolidation) là khái niệm chỉ hai hay một số
doanh nghiệp cùng thỏa thuận chia sẻ tài sản, thị phần, thương hiệu với nhau để
hình thành một doanh nghiệp hoàn toàn mới, với tên gọi mới, chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp cũ.
Tương tự như khái niệm sáp nhập, khái niệm hợp nhất cũng được đề cập
đến trong một số các văn bản pháp luật như: Khái niệm về hợp nhất pháp nhân
trong Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13; Khái niệm hợp nhất doanh nghiệp quy
định trong Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Cạnh tranh 2004; Khái niệm hợp nhất
các TCTD được quy định trong Thông tư 36/2015/TT-NHNN.
Điều 88 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 quy định: “1. Các pháp nhân có
thể hợp nhất thành một pháp nhân mới. 2. Sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ
chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân mới được thành lập; quyền và nghĩa vụ
dân sự của pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân mới”. Như vậy, việc
hợp nhất giữa các pháp nhân dẫn đến hậu quả là chấm dứt sự tồn tại của các pháp


nhân cũ và các quyền, nghĩa vụ dân sự của các pháp nhân cũ được chuyển giao
cho pháp nhân mới.
Khoản 1 Điều 194 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng có quy định: “ Hai hoặc
một số công ty (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một
công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các
công ty bị hợp nhất”. Theo đó, một công ty mới hình thành sau hợp nhất, các công
ty cũ sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình. Tất cả tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của công ty bị hợp nhất được chuyển giao cho công ty hợp nhất.
Luật Cạnh tranh 2004 đưa ra khái niệm về hợp nhất tại Khoản 2 Điều 17
như sau: “Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Có
thể nhận thấy, hợp nhất doanh nghiệp trong Luật Cạnh tranh được quy định giống
với Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, hợp nhất doanh nghiệp trong Luật Cạnh tranh

được coi là một hoạt động tập trung kinh tế còn trong Luật Doanh nghiệp coi hợp
nhất công ty là một trong các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp. Mặt khác, Luật
Cạnh tranh đưa ra khái niệm hợp nhất đối với các chủ thể là doanh nghiệp sẽ bao
quát hơn các chủ thể hợp nhất trong Luật Doanh nghiệp là các công ty.
Bên cạnh đó, Thông tư 36/2015/TT-NHNN quy định tại Khoản 2 Điều 3
như sau: “Hợp nhất TCTD là việc hai hoặc một số TCTD (sau đây gọi là TCTD bị
hợp nhất) chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để hình
thành một TCTD mới (sau đây gọi là TCTD hợp nhất), đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của các TCTD bị hợp nhất”. Như vậy, định nghĩa hợp nhất TCTD quy định tại
Thông tư 36 là trường hợp cụ thể hóa các định nghĩa hợp nhất quy định trong các
văn bản pháp luật trên. Các TCTD hợp nhất với nhau và có một TCTD mới được
hình thành. TCTD mới này kế thừa toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của các TCTD ban đầu. Còn các TCTD bị hợp nhất thì chấm dứt sự tồn tại
của mình.


Cũng như khái niệm sáp nhập pháp nhân là NHTM, khái niệm hợp nhất
pháp nhân là NHTM cũng chưa được quy định cụ thể trong một văn bản pháp luật
nào. Căn cứ vào quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành, có thể đưa ra định
nghĩa khái quát về hợp nhất pháp nhân là NHTM như sau: Hợp nhất pháp nhân là
NHTM là hình thức hai hoặc một số NHTM (sau đây gọi là NHTM bị hợp nhất)
hợp nhất thành một NHTM mới (sau đây gọi là NHTM hợp nhất) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang NHTM hợp
nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các NHTM bị hợp nhất.
Việc hợp nhất pháp nhân là NHTM sẽ dẫn đến hình thành một NHTM mới,
NHTM này là sự kết hợp của các NHTM thành viên. Các NHTM thành viên sẽ
chấm dứt sự tồn tại. Việc hợp nhất này chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự số
91/2015/QH13; Luật Doanh nghiệp 2014; Luật Cạnh tranh 2004; Thông tư
36/2015/TT-NHNN.
1.1.3. Đặc điểm của sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại

Sáp nhập và hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại là hai hoạt động
khác nhau nhưng chúng vẫn có đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, chủ thể của sáp nhập, hợp nhất ở đây là các NHTM; toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của NHTM bị sáp nhập, hợp nhất được
chuyển cho NHTM sáp nhập (trường hợp sáp nhập), hoặc được chuyển cho
NHTM hợp nhất (trường hợp hợp nhất). NHTM bị sáp nhập hoặc bị hợp nhất sẽ
chấm dứt sự tồn tại cững như tư cách chủ thể của mình. [29]
Thứ hai, sáp nhập, hợp nhất NHTM có thể thực hiện trên cơ sở tự nguyện
hoặc bắt buộc. Tự nguyện sáp nhập, hợp nhất là việc các NHTM tự nguyện sáp
nhập hoặc hợp nhất để phù hợp với mục tiêu phát triển và nguyện vọng của chủ sở
hữu. Bắt buộc sáp nhập, hợp nhất là việc các NHTM không đảm bảo được mức
vốn pháp định theo quy định hiện hành hoặc hoạt động yếu kém hoặc bị đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt không thực hiện được theo hình thức tự nguyện sáp
nhập, hợp nhất và có nguy cơ làm ảnh hưởng đến an toàn hệ thống và phải sáp


nhập, hợp nhất theo chỉ định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Có
thể hiểu sáp nhập, hợp nhất là quyền và cũng là nghĩa vụ của các NHTM. Các
NHTM có thể tự nguyện sáp nhập, hợp nhất thông qua thỏa thuận, đàm phán.
Trường hợp này sáp nhập, hợp nhất được hiểu là quyền của các NHTM. Nhưng
trường hợp NHTM yếu kém, mất khả năng thanh toán, có nguy cơ gây mất an toàn
cho hệ thống ngân hàng thì NHNN có thể ra quyết định buộc NHTM phải sáp
nhập, hợp nhất (theo Luật Ngân hàng nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng). Xét
trong trường hợp này thì sáp nhập, hợp nhất lại là nghĩa vụ của các NHTM.
Thứ ba, việc sáp nhập, hợp nhất NHTM phải tuân theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ. Bởi hoạt động sáp nhập, hợp nhất này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân
các chủ thể sáp nhập, hợp nhất mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người thứ ba như người gửi tiền, các nhà đầu tư, hệ thống ngân hàng và toàn
bộ nền kinh tế [19]. Do đó phải quy định những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt để
đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo an toàn cho cả hệ thống ngân

hàng cũng như sự ổn định của nền kinh tế.
Thứ tư, sáp nhập, hợp nhất là một trong những biện pháp để giúp các ngân
hàng thoát khỏi nguy cơ phá sản. Nếu như phá sản, giải thể được coi là những
phương thức giải quyết số phận của những doanh nghiệp gặp khó khăn và kinh
doanh kém hiệu quả thì sáp nhập, hợp nhất NHTM sẽ góp phần cơ cấu lại các
ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị
trường cũng không làm tổn hại tới lợi ích của những người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Bên cạnh những đặc điểm giống nhau trên, hai hoạt động sáp nhập, hợp
nhất pháp nhân là NHTM còn có những đặc điểm riêng như sau:

Tiêu
chí

Sáp nhập pháp nhân là
NHTM

Hợp nhất pháp nhân là
NHTM


Chủ thể
liên quan
Hình
thức

NHTM bị sáp nhập

NHTM bị hợp nhất


NHTM nhận sáp nhập

NHTM nhận hợp nhất

Các NHTM bị sáp nhập mang

Các NHTM mang tài sản,

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ

quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp

và lợi ích hợp pháp của mình

pháp của mình góp chung lại

chuyển sang cho NHTM nhận

thành lập một NHTM mới

sáp nhập
Hậu

Chấm dứt sự tồn tại của các

Tạo ra một NHTM mới (NHTM

quả pháp

NHTM bị sáp nhập và giữ


được hợp nhất và chấm dứt sự



nguyên sự tồn tại của NHTM

tồn tại của các NHTM bị hợp

nhận sáp nhập

nhất

Trách

Các NHTM bị sáp nhập

NHTM hợp nhất hưởng các

nhiệm

chuyển toàn bộ tài sản, quyền và

quyền và lợi ích hợp pháp, và

pháp lý

nghĩa vụ của mình sang cho

chịu trách nhiệm thực hiện toàn


NHTM nhận sáp nhập

bộ các nghĩa vụ của NHTM bị
hợp nhất

Quyền

Chỉ NHTM nhận sáp nhập

quyết

được quyền quyết định, điều

định

hành và quản lý

Đăng

NHTM nhận sáp nhập tiến

Các NHTM tham gia hợp nhất
cùng có quyền quyết định.

NHTM được hợp nhất tiến hành

ký kinh

hành đăng ký thay đổi nội dung


đăng ký theo quy định của Luật

doanh

theo quy định của Luật Doanh

Doanh nghiệp

nghiệp
1.1.4. Phân loại sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại


Thứ nhất là sáp nhập, hợp nhất mở rộng thị trường. Loại sáp nhập, hợp
nhất này diễn ra đối với hai NHTM kinh doanh cùng loại sản phẩm nhưng ở
những thị trường khác nhau. Ví dụ: Một NHTM miền Bắc với một NHTM miền
Nam đều kinh doanh sản phẩm là tiền gửi – tiết kiệm, tín dụng cá nhân; bảo lãnh,
thu hộ với khách hàng định chế tài chính,… thì việc sáp nhập, hợp nhất hai NHTM
này sẽ đem lại lợi ích mở rộng thị trường cả miền Nam và miền Bắc, mở rộng địa
bàn khách hàng, tận dụng hệ thống phân phối. [31]
Thứ hai là sáp nhập, hợp nhất mở rộng sản phẩm. Loại sáp nhập, hợp nhất
này diễn ra đối với hai NHTM kinh doanh những sản phẩm khác nhau nhưng có
liên quan tới nhau trong cùng một thị trường. Ví dụ: Hai NHTM ở trong cùng một
khu vực, trong đó có một NHTM kinh doanh hoạt động tiết kiệm, cho vay, thẻ ghi
nợ nội địa đối với khách hàng cá nhân và kinh doanh hoạt động tiền gửi, thanh
toán quốc tế đối với khách hàng doanh nghiệp, trong khi một NHTM lại kinh
doanh tiết kiêm, bảo lãnh vay vốn đối với khách hàng cá nhân và tiền gửi, cho vay
ưu đãi đối với khách hàng doanh nghiệp, thì việc sáp nhập, hợp nhất hai NHTM
này sẽ đem đến việc mở rộng sản phẩm, thu hút thêm khách hàng, tận dụng hệ
thống phân phối.

Thứ ba, sáp nhập, hợp nhất kết hợp. Đây là loại sáp nhập, hợp nhất giữa
hai NHTM kinh doanh cùng cạnh tranh trực tiếp, chia sẻ dòng sản phẩm, cùng thị
trường. Ví dụ hai NHTM cùng ở trong một khu vực, cùng kinh doanh tiết kiệm, tín
dụng cá nhân đối với khách hàng cá nhân;…tiến hành sáp nhập, hợp nhất với
nhau. Kết quả của việc sáp nhập, hợp nhất theo hình thức này mang lại cho các
bên tham gia sáp nhập, hợp nhất cơ hội mở rộng thị trường, tăng hiệu quả trong
việc kết hợp thương hiệu, giảm chi phí cố định, tăng cường hiệu quả của hệ thống
phân phối.
1.1.5. Nguyên nhân dẫn đến việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng
thương mại


Thứ nhất là do sự bùng nổ về số lượng ngân hàng. Ở Việt Nam, trong mấy
năm gần đây đã chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng với sự tăng mạnh
về số lượng ngân hàng và chi nhánh ngân hàng được thành lập cũng như về tốc độ
tăng trưởng tín dụng bắt nguồn từ tăng trưởng cao của cung tiền là hậu quả của
chính sách tiền tệ nới lỏng. Sự mở rộng nhanh chóng này không đồng hành với sự
cải thiện trong công tác phòng ngừa rủi ro cũng như việc giám sát, thanh tra và xử
phạt của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, còn chịu tác động bởi tham nhũng,
can thiệp của chính quyền và các nhóm lợi ích [7].
Thứ hai là do sự yếu kém trong cơ chế quản trị, điều hành và nguồn nhân
lực.Để kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì việc xây dựng
một đội ngũ các nhà quản trị hiện đại có tầm vóc quốc tế là một yêu cầu cực kỳ
quan trọng. Nhiều ngân hàng hiện nay vẫn còn tình trạng chưa phân định trách
nhiệm và quyền hạn giữa ban kiểm soát và ban điều hành. Công tác quản trị, kiểm
soát, điều hành của NHTM không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
và việc thực hiện những nghiệp vụ của chính bản thân ngân hàng. Về nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập. Như vậy, khi thị trường tài chính có những biến động thì những
ngân hàng yếu kém không thể đứng vững sẽ buộc phải thực hiện phương án sáp

nhập, hợp nhất.
Thứ ba là do khả năng thanh khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu
tăng cao.Trong thời gian gần đây, do tình hình lạm phát có xu hướng giảm, mức
trần lãi suất giảm, khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hút tiền
gửi. Ngoài ra, chính sách tiền tệ thận trọng cũng khiến nguồn cung tiền ra thị
trường hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thanh khoản của các ngân
hàng. Bên cạnh đó, việc công khai tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống có thể ảnh
hưởng nhất định đến niềm tin của người dân vào tính an toàn của hệ thống ngân
hàng. Việc trích lập dự phòng có sẵn tại các ngân hàng, vấn đề xử lý nợ xấu vẫn


chưa có lời giải cụ thể và sẽ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng hiện nay và tương lai của các ngân hàng trong những năm
tới.
Thứ tư là do áp lực tăng vốn. Tăng vốn là việc bán thêm cổ phần cho cổ
đông hiện hữu và cổ đông mới với giá thấp nhất bằng mênh giá. Việc tăng vốn chỉ
hợp lý khi đạt được lợi nhuận kỳ vọng không thấp hơn tiền gửi ngân hàng. Tuy
nhiên, lợi nhuận của không ít ngân hàng chỉ đạt dưới 10% và cổ tức thì còn thấp
hơn nhiều, giá cổ phiếu của ngành ngân hàng bị tụt giảm, tính thanh khoản thấp.
Do đó, bài toán tăng vốn là vô cùng nan giải, đặc biệt là khối lượng cổ phần mới
quá lớn [6]. Chính vì vậy, nhiều ngân hàng đã tiến hành sáp nhập, hợp nhất với
nhau để giải quyết bài toán trên.
Thứ năm là do thách thức bởi sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
Các ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các NHTM trong việc trong việc
sử dụng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Do đó, việc đưa các sản phầm
này vào hoạt động sẽ thuận lợi hơn các ngân hàng trong nước. Bên cạnh đó, năng
lực tài chính của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài mạnh hơn các NHTM trong
nước: Tỷ lệ vốn điều lệ/tổng tài sản của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là
0% trong khi các NHTM trong nước là 10%. Mức độ rủi ro trong hoạt động của
các NHTM trong nước lớn hơn nhiều so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài:

khả năng sinh lời thấp và có xu hướng giảm, sự mất cân đối về các loại tiền tệ do
tình trạng đôla hóa nền kinh tế,...
1.2. Mục đích và vai trò của việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân
hàng thương mại
Sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM là một chiến lược nhằm phát huy
thế mạnh cũng như khắc phục những yếu kém của NHTM. Việc sáp nhập, hợp
nhất pháp nhân là NHTM nhằm đạt được những mục đích sau đây:
Thứ nhất, làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản của NHTM sau sáp nhập, hợp
nhất. Sau khi tiến hành sáp nhập, hợp nhất, các NHTM tận dụng tối đa các loại tài


sản để nhằm mục đích sinh lời. Việc này sẽ tăng cường hiệu quả sử dụng tài sản
của các NHTM. Các chi phí cố định sẽ giảm vì cơ sở hạ tầng được mở rộng cùng
với sự kết hợp năng lực quản lý của các NHTM sẽ đem lại một khối lượng sản
phẩm lớn hơn cho các NHTM.
Thứ hai, giảm tổng chi phí hoạt động thông qua việc loại bỏ trùng lặp
trong sử dụng phương tiện và các nguồn lực sản xuất khác. Chúng ta có thể dễ
dàng nhận thấy, ngay sau khi tiến hành sáp nhập, hợp nhất, các chi phí để hỗ trợ
kinh doanh như marketing sẽ giảm đặc biệt là chi phí quảng cáo. Điều này sẽ giảm
được chi phí hoạt động của các NHTM.
Thứ ba, giảm rủi ro thông qua việc đa dạng hóa nguồn thu nhập, chi phí,
danh mục cho vay và nguồn tiền gửi hoặc nhờ vào việc thu hút những nguồn vốn
dài hạn mới. Sự kết hợp của các NHTM sẽ làm cho nguồn thu nhập của NHTM
được đa dạng hóa từ rất nhiều nguồn khác nhau như từ khách hàng cá nhân, khách
hàng doanh nghiệp hoặc các định chế tài chính. Từ đó sẽ giảm thiểu những rủi ro
kinh doanh của NHTM.
Thứ tư, tăng cường sức mạnh thị trường, tạo ra lợi thế về các loại sản phẩm
và phân phối dịch vụ. NHTM sau khi sáp nhập, hợp nhất được thừa hưởng sức
mạnh từ các NHTM trước đó. Do đó, nó sẽ giúp tăng cường sức mạnh của thị
trường bởi tăng thêm được thị phần trên thị trường và kết hợp được phương pháp

kinh doanh, hoạt động của các NHTM trước đó với một hệ thống khách hàng rộng
lớn hơn. Tăng cường sức mạnh thị trường sẽ giúp NHTM tạo lập thị trường về giá
cả (lãi suất, tỉ giá, phí dịch vụ) cũng như điều tiết thị trường về vốn, thanh khoản
hoặc lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, các NHTM sau sáp nhập, hợp nhất sẽ dễ dàng có
ưu thế hơn về các loại sản phẩm và phân phối dịch vụ. [10]
Thứ năm, giảm thiểu được các vấn đề khó khăn khi tham gia vào một thị
trường mới. Khi một NHTM muốn mở rộng thị phần sang một thị trường mới,
chúng sẽ phải trực tiếp đối mặt với các đối thủ đã quá quen thuộc với thị trường


đó, việc cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Mục đích của việc sáp nhập, hợp nhất
NHTM sẽ làm giảm được những khó khăn này.
Thứ sáu, tăng cường uy tín, vai trò của nhà quản lý Ngân hàng thương mại.
Sau khi sáp nhập, hợp nhất, nhà quản trị sẽ quản lý một NHTM lớn hơn trước, nếu
nhà quản lý điều hành một cách hiệu quả, giúp ngân hàng thu được những kết quả
kinh doanh tốt đẹp thì kết quả tốt đẹp này không chỉ dừng ở ý nghĩa tạo ra giá trị
hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa trong việc tạo uy tín cũng như vai trò lãnh đạo
của nhà quản trị và tổ chức Ngân hàng thương mại.
Thứ bảy, sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM đảm bảo sự lành mạnh
của hệ thống ngân hàng. Thực tế cho thấy, việc sáp nhập và hợp nhất NHTM dẫn
tới sự ra đời của tổ chức sau đó sẽ tận dụng được lợi thế của các đơn vị trước đó.
Ngoài ra, NHTM sau hợp nhất ổn định và nâng cao được năng lực của ngân hàng,
đồng thời tăng cường khả năng quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ, thực hiện đầy đủ
các chức năng của NHTM.
Vai trò của việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại:
- Đối với bản thân các NHTM: Hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là
NHTM mang lại lợi ích cho cả hai phía chủ thể nhận sáp nhập, hợp nhất và chủ
thể bị sáp nhập, hợp nhất tham gia. Hoạt động này mang lại các lợi ích kinh tế
như: tập trung nguồn lực, mở rộng và phát triển mạng lưới nhanh chóng, cải thiện
công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng cường cạnh tranh, giảm chi phí hoạt

động, nâng cao uy tín thương hiệu. Việc sáp nhập, hợp nhất là một bước tiến của
các NHTM cho việc mở rộng quy mô, nâng tầm của các NHTM lên cao, tranh thủ
được những ưu điểm của cả hai phía chủ thể và tận dụng được cơ sở hạ tầng cũng
như hệ thống nguồn nhân lực, mạng lưới của cả hai bên. Bên cạnh đó, việc sáp
nhập, hợp nhất cũng tránh cho một số NHTM phải rơi vào tình trạng giải thể, phá
sản. Bởi việc phá sản NHTM sẽ để lại rất nhiều hệ lụy cho cả nền kinh tế, nhất là
đối với một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào hệ thống NHTM và dư nợ tín dụng ở


mức cao và vốn tự có của các NHTM vẫn còn quá mỏng so với các nước trên thế
giới và khu vực như ở Việt Nam. [9]
- Đối với Nhà nước: Hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM có
vai trò lớn để nhà nước tái cơ cấu nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
các NHTM, loại bỏ và làm sạch thị trường các NHTM yếu kém, hoạt động không
hiệu quả. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, quản lý đối với một hệ thống tổ chức
tín dụng khổng lồ cũng dần được giảm tải.
Sáp nhập, hợp nhất còn là phương thức thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) và
gián tiếp (FII) hiệu quả, thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu ngân
hàng phát triển.[8] Hoạt động sáp nhập, hợp nhất trong ngành ngân hàng sẽ tạo
nên những NHTM lớn hơn, vững mạnh hơn, nâng cao uy tín của các NHTM, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, mở ra nhiều cơ hội mới cho ngành tài chính nước ta và
nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đối với xã hội: Sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM sẽ tránh được
nguy cơ thất nghiệp cho người lao động tại những NHTM yếu kém. Bởi nếu
không thực hiện sáp nhập, hợp nhất, các NHTM đó hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn
đến việc giảm biên chế hoặc có thể giải thể, phá sản. Khi đó, người lao động sẽ bị
mất việc làm, ảnh hưởng đến đời sống của người lao động nói riêng và đời sống xã
hội nói chung.[16]
Việc sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM còn mang đến lợi ích cộng
đồng, tăng khả năng cung cấp dịch vụ ngân hàng, các dịch vụ có thể được nâng

cấp về chất lượng; mở rộng thị trường, cạnh tranh về các chính sách ưu đãi, giúp
cho người dân có nhiều sự lựa chọn hơn nữa.
Bên cạnh những hiệu ứng tốt, sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM
cũng có thể tạo ra một số bất lợi như:
- Các NHTM sau khi sáp nhập, hợp nhất thì quy mô được mở rộng, vốn
điều lệ tăng nhưng những yếu kém nội tại của từng ngân hàng trước đó không
khắc phục được như: khó khăn về thanh khoản, nợ xấu tăng cao, sự yếu kém về


quản trị, điều hành. Mục tiêu tái cơ cấu không đạt được kết quả. Điều này tác động
đến nền kinh tế vốn đang tiềm ẩn nhiều bất ổn như của nước ta.
- Không những thế, một số trường hợp tái cơ cấu ngân hàng nhưng khách
hàng lại không nhận được nhiều lợi ích mà còn phải chịu một số bất lợi giống như
việc chịu sự ảnh hưởng của chính sách giá cả tăng lên do các NHTM phải bù đắp
vào chi phí tái cơ cấu và thích nghi với các hoạt động điều hành quản trị của
NHTM mới.
- Hơn nữa, việc sáp nhập, hợp nhất có thể làm tổn thương thị trường tài
chính. Trong trường hợp thị phần của hai bên đối tác lớn sáp nhập, hợp nhất sẽ tạo
thành một định chế khổng lồ làm ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh tranh khác, thay
đổi cán cân thị trường tài chính, có thể dẫn tới hiện trường tập trung kinh tế và độc
quyền.
1.3. Khái niệm, Đặc điểm, Nguyên tắc và Cấu trúc của pháp luật về sáp
nhập, hợp nhất pháp nhân là Ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm pháp luật về sáp nhập và hợp nhất pháp nhân là Ngân
hàng thương mại.
Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, đối tượng điều chỉnh của pháp luật
về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM cũng là các quan hệ xã hội. Sự tồn tại
của các quan hệ xã hội này được thể hiện thông qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất
pháp nhân là nhằm mục đích tái cơ cấu hoặc thiết lập nên một pháp nhân là
NHTM mới. [5]

Căn cứ vào tính chất của các quan hệ xã hội do pháp luật về sáp nhập, hợp
nhất pháp nhân là NHTM điều chỉnh và các phương pháp điều chỉnh, đối tượng
điều chỉnh của pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM gồm hai
nhóm chính: quan hệ quản lý nhà nước về hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân
là NHTM và quan hệ giữa các NHTM với nhau trong hoạt động sáp nhập, hợp
nhất.


Quan hệ quản lý nhà nước về hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là
NHTM là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện hoạt
động quản lý đối với các hoạt động sáp nhập, hợp nhất trong nền kinh tế. Chủ thể
quản lý trong quan hệ pháp luật này là Nhà nước còn các chủ thể bị quản lý là các
NHTM tham gia sáp nhập, hợp nhất và các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt
động sáp nhập, hợp nhất NHTM như: khách hàng, chủ nợ, người lao động,…[14]
Có thể lấy ví dụ về các quan hệ pháp luật phát sinh trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với các hoạt động sáp nhập, hợp nhất NHTM như: quan hệ trong việc từ
chối hay chấp thuận cho sáp nhập, hợp nhất; quan hệ thanh tra, giám sát giữa
NHNN với các NHTM,… Trong các quan hệ quản lý thì phương pháp điều chỉnh
là mệnh lệnh phục tùng.
Quan hệ giữa các NHTM với nhau trong hoạt động sáp nhập, hợp nhất là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động sáp nhập,
hợp nhất của các NHTM. Có thể lấy ví dụ như: quan hệ giữa các NHTM trong
việc đàm phán, ký kết hợp đồng hay quan hệ giữa các NHTM trong việc chuyển
đổi phần vốn góp, cổ phần. Đây là các quan hệ phát sinh giữa các NHTM thiết lập
trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng. Phương pháp điều chỉnh là phương pháp bình
đẳng, thỏa thuận.
Mặc dù hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về “pháp luật về sáp nhập, hợp
nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại”. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một cái
nhìn khái quát về quan hệ sáp nhập, hợp nhất này như sau:
Pháp luật về sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là ngân hàng thương mại là

tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM. Từ các
quan hệ về đàm phán, ký kết hợp đồng, thực hiện thủ tục sáp nhập, hợp nhất đến
các quan hệ chuyển giao quyền, nghĩa vụ và lợi ích trong hoạt động sáp nhập,
hợp nhất pháp nhân là các NHTM được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.


1.3.2. Đặc điểm pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp
nhân là ngân hàng thương mại
Hoạt động sáp nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM được điều chỉnh bằng
cả hệ thống luật chung và luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, đối với mỗi hành vi
sáp nhập, hợp nhất khi xem xét dưới các góc độ khác nhau thì hoạt động phải chịu
sự điều chỉnh của từng ngành luật riêng.
NHTM là một pháp nhân, vì vậy, trong hoạt động sáp nhập, hợp nhất chủ
thể này chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật chung gồm Luật dân sự và Luật
doanh nghiệp. Những vấn đề liên quan đến tài sản, chuyển giao quyền sở hữu tài
sản trong sáp nhập, hợp nhất cần phải tuân thủ các quy định được ghi nhận trong
luật dân sự. Những yếu tố về cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị, điều hành của
NHTM cũng phải phù hợp với Luật doanh nghiệp.[15] Tuy nhiên, NHTM với tư
cách là một TCTD, còn phải chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật chuyên
ngành trong lĩnh vực này. Dưới góc độ kiểm soát tập trung kinh tế, hành vi sáp
nhập, hợp nhất pháp nhân là NHTM có thể chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh
tranh. Dưới góc độ là hành vi đầu tư, hành vi này có thể chịu sự điều chỉnh của
Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán. Như vậy, một đặc điểm trong pháp luật điều
chỉnh hoạt động sáp nhập, hợp nhất NHTM là sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh
dười từng khía cạnh, góc độ bản chất của hoạt động.
Thứ hai, thông qua hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp nhập, hợp
nhất NHTM mà Nhà nước có thể thực hiện nhiệm vụ quản lý và điều hành nền
kinh tế một cách hữu hiệu. Hoạt động sáp nhập, hợp nhất NHTM có thể được coi
là một trong những cách thức tái cơ cấu hệ thống tài chính làm hệ thống này hoạt

động lành mạnh và hiệu quả hơn. Ngoài các công cụ quản lý khác thì việc ban
hành khung pháp lý phù hợp điều chỉnh hoạt động sáp nhập, hợp nhất, đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay đóng vai trò quan trọng giúp Nhà nước quản lý, điều hành
nền kinh tế vĩ mô.


×