A. MỞ BÀI
Tố cáo và giải quyết tố cáo góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước và ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Pháp luật về tố cáo và
giải quyết tố cáo nói chung, những quy định về bảo vệ người tố cáo nói riêng đang
ngày càng được hoàn thiện, nhất là sau khi Luật Tố cáo 2018 và Nghị định
31/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố
cáo được ban hành. Chính vì vậy, em xin chọn đề bài : “ Phân tích các quy định
pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo và nêu ý nghĩa của các quy định này
” để làm rõ hơn tầm quan trọng của các chính sách bảo vệ người tố cáo.
B. NỘI DUNG
I. Quyền tố cáo của công dân và sự cần thiết phải bảo vệ người tố cáo
1. Quyền tố cáo của công dân
Xuất phát từ tư tưởng “lấy dân là gốc”, từ bản chất chính trị của chế độ dân
chủ nhân dân, ngay từ khi mới thành lập chính thể mới, cùng với việc thiết lập
chính quyền các cấp, Đảng, Bác Hồ và Chính phủ đã khẳng định quyền làm chủ
của nhân dân, quan tâm đến việc kiểm soát hoạt động của bộ máy Nhà nước, việc
giải quyết khiếu kiện của dân, chống phiền hà, nhũng nhiễu dân. Hiến pháp năm
1946 đã ghi nhận các quyền và tự do dân chủ hoàn toàn là của người dân Việt Nam
như quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, quyền bình đẳng trước pháp
luật, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,…
Tuy Hiến pháp năm 1946 chưa có một điều khoản cụ thể nào quy định quyền tố
cáo của công dân, song thể chế dân chủ mà Hiến pháp này tạo dựng nên đã là nền
1
tảng cơ bản hình thành quyền tố cáo của công dân trên thực tế. Kế thừa và phát
triển tư tưởng dân chủ của Hiến pháp năm 1946, Điều 29 Hiến pháp năm 1959 đã
chính thức ghi nhận quyền tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân:
“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất
kỳ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ,
nhân viên cơ quan Nhà nước...”. Các Hiến pháp 1976, 1980, 1992 và 2013 tiếp tục
kế thừa và ghi nhận quyền tố cáo của công dân theo hướng ngày càng mở rộng
quyền của công dân và tạo điều kiện một cách tốt nhất cho công dân trong lĩnh vực
tố cáo.
2. Yêu cầu thực tiễn cần bảo vệ người tố cáo
Trong những năm qua, công dân đã chủ động, tích cực thực hiện quyền tố
cáo, số lượng đơn thư tố cáo của công dân có chiều hướng gia tăng. Điều này
chứng tỏ người dân đã biết phát huy quyền dân chủ trong đấu tranh chống các hành
vi vi phạm pháp luật, nhân dân không còn thờ ơ với công việc của nhà nước, ý thức
được trách nhiệm của mình và biết đấu tranh góp phần ổn định trật tự xã hội, xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt là trong công cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng đã xuất hiện nhiều cá nhân tiêu biểu, đại diện cho đông
đảo quần chúng nhân dân tích cực trong việc phản ánh, lên án, tố cáo các hành vi
vi phạm pháp luật (tham nhũng), tiêu cực nơi sinh sống, công tác và làm việc, góp
phần to lớn vào việc ngăn ngừa và từng bước đẩy lùi tệ nạn tham nhũng ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn nhiều vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện quyền tố cáo của công dân. Thực tế cũng phản ánh còn nhiều hiện
tượng không phản ánh, tố cáo những vi phạm pháp luật khi những vi phạm đó
không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của mình vì sợ liên lụy đến bản thân.
Thậm chí có nhiều vụ việc vi phạm pháp luật trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình nhưng công dân cũng không dám tố cáo vì đối tượng sử
2
dụng các thủ đoạn che giấu hành vi vi phạm bằng cách mua chuộc, đe dọa và thực
hiện các hành vi bạo lực khiến cho công dân hoang mang, lo sợ. Đặc biệt, đối với
các hiện tượng tham nhũng thì tâm lý này có phần còn nặng nề hơn vì những đối
tượng tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn, địa vị và ảnh hưởng
trong xã hội, thường ở “thế mạnh”, còn người “tố cáo” thì thường lại ở “thế yếu”.
II. Quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới công tác giải quyết hiệu quả các khiếu
nại, tố cáo nói chung, việc giải quyết tố cáo nói riêng và coi việc thực hiện quyền
tố cáo là phương thức thể hiện dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và công dân, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các vi
phạm pháp luật khác. Thể chế hóa đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng, tại
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Như vậy, Hiến pháp không chỉ tuyên bố về quyền tố cáo của công dân mà còn
có những quy định nhằm bảo đảm thực hiện quyền này. Những đảm bảo pháp lý
đối với quyền tố cáo và người tố cáo khẳng định tính chất đặc biệt quan trọng của
vấn đề, đồng thời khẳng định ý chí của Nhà nước trong việc xử lý những người có
hành vi cản trở việc thực hiện quyền tố cáo cũng như trả thù người tố cáo.
3
Điều 166 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào thực hiện một
trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi
khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc
việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc
thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo
gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Trả thù người
khiếu nại, tố cáo; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi quy định tại
điểm a khoản 1 Điều này; d) Dẫn đến biểu tình; đ) Làm người khiếu nại, tố cáo tự
sát.3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm
đến 05 năm.”
Luật tố cáo được quốc hội thông qua ngày 12/6/2018, có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2019 đã dành hẳn 01 chương (Chương VI: từ Điều 47 đến Điều 58) để
quy định về bảo vệ người tố cáo. Điều 47 Luật tố cáo quy định về phạm vi,người
được bảo vệ. Theo đó, việc quy định việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại
tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người tố cáo, bao gồm: nơi cư trú, công tác,
làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác
do cơ quan có thẩm quyền quy định( khoản 1 điều 47). Cũng theo quy định của
Điều này, đối tượng bảo vệ ngoài người tố cáo cần phải bảo vệ thì người thân
thích của người tố cáo như: cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em ruột, con... cũng phải
được bảo vệ.
1. Người tố cáo được giữ bí mật thông tin
Thông qua việc tố cáo của người dân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết
được hành vi vi phạm và tiến hành xử lý đối với người có hành vi vi phạm đó.
Điều này có thể dẫn đến việc người bị tố cáo có hành vi trả thù, trù dập người tố
4
cáo. Do đó, cơ quan nhà nước khi tiến hành giải quyết tố cáo thì cần phải đảm bảo
giữ bí mật những thông tin cần thiết để bảo vệ cho người tố cáo, tạo cho họ sự yên
tâm khi tố cáo hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, Điều 4 Luật tố cáo đã quy
định về nguyên tắc giải quyết tố cáo, trong đó có nguyên tắc phải bảo đảm an toàn
cho người tố cáo.
Các thông tin về người tố cáo là những thông tin về nhân thân người tố cáo
hoặc những thông tin để xác định nhân thân của họ như tên, tuổi, nghề nghiệp, giới
tính, địa chỉ và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo và
với những thông tin đó, nếu bị tiết lộ sẽ dẫn đến người tố cáo sẽ bị trả thù, trù dập
hoặc gây bất lợi cho người tố cáo.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải có trách nhiệm bảo đảm bí mật
cho người tố cáo trong tất cả các khâu từ tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; xác
minh, kết luận xử lý tố cáo, thậm chí, ngay cả khi công khai kết luận nội dung tố
cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Khi tiếp nhận tố cáo, thụ lý giải
quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải nghiên cứu, xác định
nội dung vụ việc, những thông tin nếu tiết lộ sẽ gây bất lợi cho người tố cáo để áp
dụng biện pháp phù hợp nhằm giữ bí mật thông tin cho người tố cáo. Trường hợp
cần thiết có thể lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá nhân khác của
người tố cáo ra khỏi đơn tố cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời lưu
trữ và quản lý thông tin về người tố cáo theo chế độ thông tin mật.
Trong quá trình giải quyết tố cáo, nếu có yêu cầu làm việc trực tiếp với người
tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, người giải quyết tố cáo phải bố trí
thời gian, địa điểm và lựa chọn phương thức làm việc phù hợp để bảo vệ bí mật
thông tin cho người tố cáo. Trường hợp phát hiện người không có thẩm quyền có
hành vi thu thập thông tin về người tố cáo, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm
áp dụng biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng
biện pháp ngăn chặn hoặc xử lý đối với người có hành vi vi phạm.
5
2.Người tố cáo được bảo đảm vị trí công tác, việc làm
Trường hợp người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức: Người tố cáo có
căn cứ cho rằng người có thẩm quyền quản lý, sử dụng có hành vi trù dập, phân
biệt đối xử hoặc thuyên chuyển công tác dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền yêu cầu bằng văn bản người đã giải
quyết tố cáo hoặc người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm
quyền quản lý, sử dụng mình có biện pháp xem xét, xử lý đối với người có hành vi
đó. Chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bảo vệ,
người giải quyết tố cáo có trách nhiệm kiểm tra, xác minh. Trường hợp có căn cứ
cho rằng yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì chậm nhất là 05 ngày làm việc,
người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu
người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ được quy định: Đình chỉ, tạm
đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý kỷ luật hoặc quyết định
khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo; khôi phục vị trí công
tác, vị trí việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm;
thuyên chuyển công tác của người được bảo vệ sang cơ quan, tổ chức, đơn vị khác
nếu có sự đồng ý của họ; xử lý kịp thời, ra quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người có
hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được bảo vệ.
Trường hợp người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động mà
không phải là viên chức: Người tố cáo, người thân thích của người tố cáo có
quyền yêu cầu bằng văn bản với tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao
động hoặc cơ quan có thẩm quyền khác ở địa phương có biện pháp bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu bảo vệ,
người có thẩm quyền bảo vệ có trách nhiệm kiểm tra, xác minh. Trường hợp thấy
6
yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì chậm nhất trong thời gian 03 ngày làm
việc, người có thẩm quyền bảo vệ phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền
hoặc đề nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp để bảo vệ: Yêu cầu người sử
dụng lao động chấm dứt hành vi vi phạm; khôi phục vị trí công tác, việc làm, các
khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người được bảo vệ; kiến
nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Người tố cáo không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú.
Luật tố cáo quy định người tố cáo không bị phân biệt đối xử trong việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú và trách nhiệm này thuộc về
Uỷ ban nhân dân các cấp trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Khi người tố cáo
cho rằng bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ nơi cư trú thì có
quyền yêu cầu người đã giải quyết tố cáo yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền có biện pháp bảo vệ, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của
người tố cáo đã bị xâm phạm, đồng thời xem xét, xử lý người có hành vi vi phạm.
Khi nhận được yêu cầu của người giải quyết tố cáo về việc áp dụng biện pháp bảo
vệ đối với người tố cáo, Chủ tịch UBND có trách nhiệm kiểm tra, xác minh, quyết
định áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để bảo vệ: Đình chỉ, tạm đình chỉ,
hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo; khôi phục các quyền, lợi ích hợp
pháp của người tố cáo đã bị xâm phạm; xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với người
có hành vi xâm phạm; các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
4. Người tố cáo được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín
Theo điều 58 và khoản 3 điều 47 Luật tố cáo quy định: Khi người giải quyết
tố cáo nhận được thông tin người tố cáo bị đe doạ, trả thù, trù dập thì có trách
7
nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan cơ quan khác có
thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo và đề nghị cơ
quan có thẩm quyền xử lý theo quy định pháp luật đối với người có hành vi đe doạ,
trả thù, trù dập người tố cáo. Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc tố cáo có
thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình
hoặc của người thân thích của mình thì có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo
hoặc cơ quan công an áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.
Trường hợp đề nghị của người tố cáo là chính đáng, có căn cứ thì người giải
quyết tố cáo hoặc cơ quan công an kịp thời áp dụng các biện pháp hoặc đề nghị cơ
quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để bảo vệ.
Việc quy định người tố cáo phải có văn bản yêu cầu bảo vệ. Trường hợp khẩn
cấp để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tố cáo và người thân thích của người
tố cáo, người tố cáo có thể yêu cầu trực tiếp bằng miệng hoặc thông qua các
phương tiện thông tin khác nhưng sau đó phải thể hiện ngay bằng văn bản. Đây
cũng là cơ sở để các cơ quan xác định các biện pháp bảo vệ phù hợp, bảo đảm tính
khả thi trên thực tiễn.
Đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tố cáo, người thân thích
của người tố cáo:
Trường hợp xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang diễn ra hoặc có
nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ
quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền để áp dụng ngay các biện pháp: bố trí lực
lượng, phương tiện, công cụ để bảo vệ an toàn cho người được bảo vệ tại nơi cần
thiết; tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn.
Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người
được bảo vệ, tùy theo từng trường hợp cụ thể, người có thẩm quyền giải quyết tố
8
cáo chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc,
học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng các biện pháp:
xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý đối với người có
hành vi xâm hại; trường hợp xác định việc xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
người được bảo vệ có nguy cơ tái diễn thì ra quyết định bảo vệ và xây dựng kế
hoạch bảo vệ.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và khả năng xảy ra trên thực tế của hành vi xâm
hại, cơ quan ra quyết định bảo vệ xem xét, áp dụng các biện pháp: bố trí nơi tạm
lánh khi người tố cáo, người thân thích của họ có nguy cơ bị xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe; bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ trực tiếp bảo vệ; di chuyển
và giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; hạn chế phạm vi đi lại, quan hệ giao
tiếp, làm việc, học tập của người được bảo vệ trong một thời hạn nhất định; xử lý
hành chính hoặc kiến nghị xử lý hình sự đối với hành vi tấn công, xâm hại hoặc đe
dọa tấn công, xâm hại,...
Đối với việc bảo vệ tài sản:
Trường hợp xác định hành vi xâm hại tài sản đang xảy ra hoặc có thể xảy ra
ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, người có
thẩm quyền giải quyết tố cáo chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ.
Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo
theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp: yêu cầu người có
hành vi xâm hại chấm dứt hành vi vi phạm; xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị
người có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Đối với việc bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân
Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, người có thẩm quyền bảo
vệ áp dụng các biện pháp: Yêu cầu người có hành vi xâm hại chấm dứt hành vi vi
9
phạm và buộc xin lỗi, cải chính công khai; xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị
người có thẩm quyền xử lý; đề nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan khôi
phục danh dự, uy tín, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người được bảo
vệ bị xâm hại.
III. Ý nghĩa của các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo
Thứ nhất, việc ghi nhận, luật hóa và đảm bảo thực hiện quyền tố cáo của công
dân thể hiện chế độ dân chủ của Nhà nước Việt Nam, thực hiện xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Với mục tiêu tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phương châm mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các vấn đề quốc kế dân sinh phải để cho dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Thứ hai, là cơ sở để người dân tích cực thực hiện quyền tố cáo của mình.
Người tố cáo là người biết được hành vi vi phạm pháp luật của người khác đang
được thực hiện hoặc đã được thực hiện và trình báo với cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền về những gì mình biết. Người tố cáo cần phải được áp dụng các biện
pháp bảo vệ, bởi lẽ những người này trước hết là công dân; do đó, họ có quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những
quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật khác. Hơn nữa, người tố cáo là công dân có vai trò đặc
biệt: họ là người cộng tác, phối hợp với cơ quan nhà nước trong lĩnh vực phòng,
chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Họ cung cấp các thông tin góp phần giải quyết
đúng đắn vụ việc bị tố cáo. Vì vậy, họ có nguy cơ bị người có hành vi vi phạm
pháp luật đe dọa, xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản với ý
đồ nhằm ngăn cản, trả thù do sự cộng tác, phối hợp đó.
Thứ ba, bảo vệ người tố cáo cũng góp phần hạn chế hành vi vi phạm pháp
luật, bảo vệ kỷ cương phép nước. Thông qua tố cáo của công dân mà nhiều hành vi
10
tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ được làm sáng tỏ, phát hiện những cán bộ,
công chức không đủ tư cách, thoái hóa biến chất, góp phần làm cho bộ máy nhà
nước thêm trong sạch, củng cố lòng tin nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, để thu thập được đầy đủ, chính xác các thông tin từ người tố cáo,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đảm bảo an toàn cho họ. Đó cũng là
cách Nhà nước thể hiện rõ sức mạnh và trách nhiệm của mình đối với công dân nói
chung cũng như đẩy mạnh tính tích cực của cộng đồng, ngăn chặn ý đồ gây khó
khăn, cản trở, trả thù người tố cáo.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng quy định của pháp luật hiện nay về bảo vệ người tố cáo đã có một
bước phát triển rất lớn so với các quy định trước đó và đây chính là những cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên
tâm thực hiện quyền tố cáo của mình góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm
pháp luật, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tiến trình xây dựng
Nhà nước Pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa của chúng ta.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Trường đại học Luật
Hà Nội, Nxb. CAND, 2009;
2. Tập bài giảng pháp luật thanh tra, khiếu nại và tố cáo. Nxb: Hồng Đức.
3. Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 2013;
4. Luật tố cáo 2018;
5. />6.
/>
nhung/
7. />
12