Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Công ước viên 1969 về luật điều ước quốc tế và pháp luật việt nam về ký kết thực hiện điều ước quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.74 MB, 92 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TổNG HỢP LUND
KHOA LUẬT

v ữ THỊ THANH LAN

CÔNG ƯỚC VIÊN 1969 VỂ LUẬT
ĐIỂU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỂ KÝ KẾT THỰC HIỆN ĐIỂU ƯỚC QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Luật Quốc tế và So sánh
Mã số: 60 38 60

Ụ77.7 Víir R.I
1 HU V í N
TRUỚNG ĐẠI HỌC LÚẬT HÀ NỘI
PHONG 5 0 C

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
i







Người hướng dẫn khoa học:


1. TS. Lê Mai Anh

2. Giáo sư Kjell.A. Modeer

HÀ NỘI - 2004


MỤC LỤC

N&1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỀ ĐIÊÙ ƯỚC QUỐC TẾ
COCêNG u ớ c VIÊN 1969 VỂ LUẬT ĐIỂU ƯỚC QUỐC TẾ.............................. 8

ỵKMiiảệm Điều ước quốc tế theo Công ước Viên 1969............................... 9
IMáầìg đặc trưng cơ bản của Điều ước quốc tế............................................ 14
iKý kết điều ước quốc t ế ............................................................................... 20
ỊỊiếỊMữ l»u Điều ước quốc t ế ............................................................................. 25
|s5 Hận lực của Điều ước quốc tế....... .............................................................26
liên Điều ước quốc tế .........................................................................32
íi qụan hệ giữa ĐƯQT và một số hình thức pháp luật khác..................34
2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỂ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC

.................... ......... ..........................................................!.................... 39
lí triển của pháp luật Việt nam về ký kết và thực hiện ĐƯQT........39
2$2.Ipidlc quy định pháp lỷ cơ bản về thực hiện điều ước quốc t ế ..................... 54
\m z quy định về mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và ĐUQT.............56
m ĩ' HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỂ KÝ KẾT VÀ THựC
►liu ƯỚC QUỐC T Ế ............... ’......... !........................................................... 64
u Tllic trạng ký kết và thực hiện ĐUQT ở VN............................................... 64
.2 Pknrơng hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật VN về ký kết và

p iÌĩện Đ Ư Q T ......
....... ....................................................
J7
,87

m OỆU THAM KHẢO............................................................................................. 89


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Hiện nay, các nhà hoạch định chính sách trong thế kỷ XXI đang theo
đuổi ihững mục tiêu phát triển trong một thế giới đang biến đổi về chính trị,
kinh í và xã hội. Hai thế lực chủ yếu sẽ định hình thế giới phát triển là toàn
cầu ba và khu vực hóa. Từ cuối thế kỷ XX, toàn cầu hóa đã chứng minh được
rằng,ihững quyết định về kinh tế, dù được đưa ra ở đâu trên thế giới cũng
phải 'ĩih đến các nhân tố quốc tế. Thế giới không còn là tập hợp các nước ,
láng ,iềng tương đối tự trị, chỉ liên quan đến nhau ở ngoài biên giới. Trật tự
kinh í quốc tế đang chuyển thành một hệ thống thống nhất cao và gắn bó với
nhauỊua mạng điện tử. Trong đó, các mối liên hệ chặt chẽ đến mức, người
bán 1ở một nước có thể miêu tả những sản phẩm mà người tiêu dùng nước
mìnltra thích cho các nhà sản xuất ở nhiều nước khác, và thế giới khởi động
ngayiến trình lục tìm mẫu mã và sản xuất. Tất cả những điều mô tả trên đây
đang'ận hành trong một khuôn khổ chung là hệ thống quốc tế toàn cầu. Hệ
thốn này bao trùm toàn bộ đời sống quốc tế, gồm rất nhiều bộ phận. Trong
đó, ổu ước quốc tế được sử dụng làm công cụ pháp lý hữu hiệu để điều chỉnh
trật Iquan hệ quốc tế cũng như quá trình hợp tác quốc tế trong điều kiện và
môi ường toàn cầu hóa.
Từ vai trò quan trọng nêu trên của điều ước quốc tế, việc nghiên cứu về
điềitớc quốc tế thông qua nội dung của Công ước Viên 1969 về Luật điều
ướciốc tế giữa các quốc gia trở thành yêu cầu cần thiết đối với quá trình

thựcii nghĩa vụ thành viên các điều ước và cam kết quốc tế củaViệt Nam,
Các quy định pháp luật điều chỉnh việc ký kết và thực hiện điều ước
quốtế tại Việt Nam nằm rải rác trong các văn bản luật và dưới luật. Việc
hìnĩnành các quy định này chủ yếu được tiến hành dựa trên cơ sở các quy


định của Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế do Uỷ ban Thường
vụ quốc hội ban hành năm 1998. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Pháp
lệnh này đã bộc lộ những bất cập cần sớm được khắc phục, nhất là sau khi
Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi bổ xung vào năm 2001 và từ khi Việt Nam
gia nhập Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế. Nhận thức trên đây
đồng nghĩa với việc cần sớm hoàn thiện pháp luật quốc gia về ký kết, thực
hiện điều ước quốc tế theo hướng tương thích với các quy định pháp luật quốc
tế về ký kết điều ước quốc tế trong các quy định của Cồng ước Viên 1969.
Làm tốt công tác này chính là góp phần vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với những căn cứ khoa học và thực tiễn nói trên, tác giả đã lựa chọn đề
tài: "Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế" làm đề tài luận án thạc sỹ luật,
chuyên ngành Luật Quốc tế.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI
Pháp luật về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế đã được nhiều nhà
nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam tiếp cận nghiên cứu với
những khía cạnh khác nhau. Một số các đề tài khoa học đã được nghiên cứu
như : " Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp
với nước ngoài" của Bộ Tư pháp (1998); "Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế
của CHXHCN Việt Nam và pháp luật Việt Nam" (mã số 95-98-113/DT) hay
chương trình toạ đàm khoa học về "Thực trạng thi hành pháp lệnh ký kết và
thực hiện điều ước quốc tế"(3/2004); hay tọa đàm khoa học thảo luận về

“Thực trạng thi hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm
1998” được tổ chức tháng 3/2004 tại Hoà bình... Bên cạnh đó, một số bài viết
của nhiều tác giả đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện nghiên
cứu Nhà nước và Pháp luật; tạp chí Luật học, chuyên đề thông tin khoa học


pháp lý của trường Đại học Luật Hà nội, Báo cáo nghiên cứu tổng kết của các
cơ quan chức năng...cũng đã nghiên cứu vấn đề này ở những cấp độ, phạm vi
và những bình diện khác nhau. Cụ thể như:
- Đoàn Năng (2001), Vấn đề quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia trong pháp luật và thực tiễn của Việt Nam, Chuyên đề Cơ sở lý
luận và thực tiễn áp dụng luật quốc tế, Tư liệu khoa học, Trường Đại học Luật
Hà nội
- Đoàn Năng (1997), Một số ý kiến về mối quan hệ giữa pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 97 (12)
- Lê Mai Anh (2003), Cơ sở lý luận của hoạt động chuyển hoá Điều ước
quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 3(179)
- Lê Mai Anh (2004), Các vấn đề pháp lý cơ bản của Công ước Viên
1969, Tạp chí nhà Nước và pháp luật, 5 (93)
- Lê Mai Anh (2004), Xây dựng Luật về ký kết và thực hiện ĐƯQT
nước CHXHCN Việt Nam nhìn từ góc độ khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, 10/2004
- Thái Vĩnh Thắng (2000), Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa, Tạp chí Luật học, số 2/2000
- Nguyễn Duy Chiến (2001), Vấn đề ký kết điều ước quốc tế trong 4
bản Hiến pháp Việt Nam, Chuyên đề Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng luật
quốc tế, Tư liệu khoa học, Trường Đại học Luật Hà nội
- Nguyễn Văn Luật (2000), Pháp luật nước ta trước nhu cầu hội nhập và
hợp tác quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6
- Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh về ký kết và thực hiện

ĐƯQT năm 1998 (1998-2003), Bộ Ngoại giao, Vụ Pháp luật quốc tế(5/2004)


- Báo cáo nghiên cứu về thực trạng thi hành Pháp lệnh về ký kết và thực
hiện ĐƯQT năm 1998, Văn phòng Quốc hội, Trung tâm thông tin thư viện và
nghiên cứu khoa học (2004)
- Phạm Trường Giang(1998), Vấn đề hoàn thiện pháp lệnh ký kết và thực
hiện ĐƯQT của Việt Nam, Đề tài khoa học: Mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp
luật Việt Nam- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản (mã số 95-98-113/DT).
- Nguyễn Thị Kim Ngân (2001), Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia -M ột số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật
học, Đại học Luật, Hà nội.
Nhưng về tổng thể, chưa có công trình khoa học nào ở cấp độ thạc sĩ, tiến
sĩ Luật học nghiên cứu một cách có hệ thống về Công ước Viên 1969 cũng như
pháp luật và thực tiễn ký kết, thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam.

2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN VĂN
Trước hết, luận văn tập trung làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý cơ bản về
điều ước quốc tế quy định trong nội dung Công ước Viên 1969 với tính chất là
luật hình thức. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích các quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn ký kết, thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam hiện nay.
Bằng phương pháp và các luận cứ khoa học rút ra từ những kết quả thực tế của
quá trình nghiên cứu trên, luận văn đưa ra nhận xét, đánh giá về việc thực hiện
nghĩa vụ thành viên Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế của Việt
Nam. Từ đó đề xuất các kiến nghị thiết thực, nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế
trước mắt cũng như trong tương lai.
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau chính sau đây:



- Phân tích các đặc trưng pháp lý cơ bản của điều ước quốc tế và những
hành vi pháp lý cơ bản của hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế, qua đó khẳng định vai trò
của điều ước quốc tế trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia.
- Phân tích vai trò và những quy định pháp lý cơ bản của pháp luật Việt
Nam về ký kết và thực hiện điều ước và đánh giá về thực trạng ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ký kết và
thực hiện điều ước quốc tế, đặc biệt đối với việc xây dựng một khung pháp lý
hoàn thiện ngang tầm với tính quan trọng của hoạt động này trong việc thúc
đẩy các quan hệ hợp tác đối ngoại.

4.PHẠM VI NGHIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN
Điều ước quốc tế và pháp luật về điều ước quốc tế là một vấn đề phức
tạp, cả về lý luận lẫn thực tiễn thực hiện không chỉ đối với Việt Nam mà cả
đối với nhiều nước trên thế giới. Trong phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ đề
cập đến những vấn đề cơ bản nhất về điều ước quốc tế và việc ký kết thực hiện
điều ước quốc tế trên cơ sở các quy định của Công ước Viên 1969 về Luật
Điều ước quốc tế giữa các quốc gia (không đề cập tới Công ước Viên 1986 về
Luật Điều ước quốc tế giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế và giữa các tổ
chức quốc tế với nhau). Luận văn cũng chỉ đề cập tới những vấn đề cơ bản
nhất của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện ĐƯQT và thực trạng thi
hành, từ đó góp phần làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa pháp lý của công tác ký kết
và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam nói riêng và các nước nói chung.


5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
Luận văn vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân

tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, kết hợp lý luận với thực tiễn.....
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn phân tích tổng thể, hệ thống các vấn đề pháp lý cơ bản của điều
ước quốc tế theo quy định của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế.
- Phân tích tổng thể những vấn đề cơ bản nhất của hoạt động ký kết và
thực hiện điều ước quốc tế trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành và thực
trạng công tác ĐƯQT ở Việt Nam
- Trên cơ sở các nguyên lý, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và kinh nghiệm của một số nước, luận văn đưa ra những kiến
nghị hợp lý, khoa học và có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho Việt Nam chủ
động tham gia vào các mối quan hệ song phương cũng như đa phương, đấu
tranh cho quyền lợi và sự phát triển của dân tộc, cho sự dân chủ và tiến bộ của
pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho công tác nghiên cứu giảng dạy, công tác nghiên cứu khoa học, có thể xem
như tài liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết về
điều ước quốc tế và pháp luật về điều ước quốc tế theo pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Luận văn có thể cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc xây dựng Luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của nhà nước
CHXHCN Việt Nam hiện đang được thúc đẩy triển khai.


8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VÃN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về điều ước quốc tế theo Công
ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế
- Chương 2: Pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế

- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều
ước quốc tế
Trong quá trình viết luận văn, mặc dù tác giả đã có rất nhiều cố gắng, song bản
luận văn này khó tránh khỏi những điểm hạn chế, thiếu sót. Rất mong có sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ
ĐIỂU ƯỚC QUỐC TÊ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1969
VỂ LUẬT ĐIỂU ƯỚC QUỐC TÊ
Trong Luật Quốc tế hiện đại, Công ước Viên 1969 về Luật ĐƯQT ký
kết giữa các quốc gia (gọi tắt là Công ước Viên 1969) ngày 23 tháng 5 năm
1969 do Liên hợp quốc thông qua (có hiệu lực ngày 27 tháng 1 năm 1980) giữ
vị trí hết sức quan trọng. Công ước Viên 1969 không chỉ là kết quả của quá
trình pháp điển hóa thành công các quy phạm của Luật Tập quán quốc tế về
ký kết và thực hiện điều ước quốc tế mà còn xây dựng được khung pháp lý
quốc tế cơ bản để điều chỉnh hiệu quả quan hệ ký kết và thực hiện điều ước
quốc tế phát sinh giữa các chủ thể Luật Quốc tế.
Tuy nhiên, Công ước Viên 1969 không phải là khung pháp lý duy nhất
đẻ điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phát sinh giữa các
chủ thể Luật Quốc tế với nhau, mặc dù Công ước đã có sự bao trùm phần lớn
các vấn đề quan trọng về lĩnh vực này [37,6]. Sự hình thành Công ước Viên
1969 đã tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng điều ước quốc tế làm công
cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ hợp tác quốc tế giữa các quốc gia. Đồng
thời là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định nghĩa vụ pháp lý quốc tế của một
I

quốc gia trước các thoả thuận và cam kết quốc tế đã được xác lập một cách
hợp pháp. Điều này tạo nên một trong những điều kiện chủ yếu về phương

diện pháp lý để một quốc gia có thể hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa và liên
kết khu vực. Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế luôn tạo ra những
tác động đa chiều đến lợi ích thiết thực của mỗi một quốc gia trong hợp tác
quốc tế.


1.1. KHÁI NIỆM ĐIỂU ƯỚC QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1969

1.1.1

Khái niệm Điều ước quốc tế trong Công ước Viên 1969 nhìn từ

góc độ khoa học Luật Quốc tê
Trong khoa học Luật Quốc tế, thuật ngữ “Điều ước quốc tế”(viết tắt là
ĐƯQT) được sử dụng phổ cập để chỉ loại nguồn thành văn của Luật Quốc tế,
được hình thành theo trình tự, thủ tục xác định, với nội dung bao gồm các
nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế, nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý giữa các chủ thể Luật Quốc tế khi
tham gia quan hệ pháp luật quốc tế.
Lịch sử hình thành và phát triển của Luật Quốc tế cho thấy, ĐƯQT tồn
tại dưới rất nhiều tên gọi khác nhau, như Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư,
Tuyên bố, Hiến chương, Thoả ước, Công ước... v ề phương diện lý luận và
pháp lý quốc tế, thuật ngữ Điều ước quốc tế được tiếp cận với tính chất là sự
khái quát hóa về một trong những hình thức pháp lý thành văn của Luật Quốc
tế (nguồn pháp lý), có giá trị là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ hợp
tác quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế. Song, nếu
chỉ đơn thuần xem xét điều ước quốc tế từ góc độ là nguồn thành văn của Luật
Quốc tế thì khó có thể lìình dung đầy đủ các tiêu chí khoa học pháp lý để nhận
biết đâu là một văn bản ĐƯQT, từ đó phân biệt với các văn kiện quốc tế và
các hình thức pháp lý quốc tế khác. Vì vậy, Công ước Viên 1969 đã định

nghĩa ĐƯQT như sau:
“Điều ước là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và được pháp luật quốc tếđiều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả
thuận đó được ghi nhận trong văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn
,

kiện có quan hệ với nhau cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của
các văn kiện đó
Nội hàm khái niệm ĐƯQT nêu trên cho phép khẳng định rằng, ĐƯQT


là “thoả thuận” có yếu tố quốc tế. Vậy, yếu tố quốc tế gắn với thỏa thuận có
giá trị là ĐƯQT cần được hiểu theo những tiêu chí nào?
Không thể đơn thuần viện đến một số quy định trong Hiến pháp hay
Luật thực định của quốc gia với việc phân loại ĐƯQT như điều ước nhân danh
nhà nước, điều ước nhân danh chính phủ, điều ước do các cơ quan quản lý ký
kết... để làm sáng tỏ nội dung của các yếu tố quốc tế trong các thỏa thuận
mang danh nghĩa của một ĐƯQT. Bởi vì, cách phân biệt này không chỉ ra
được bản chất pháp lý quốc tế của ĐƯQT, càng không có cơ sở để phân biệt
văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia. Như vậy, yếu tố quốc
tế của loại hình văn bản pháp lý có giá trị của một ĐƯQT phải được xem xét
trong mối quan hệ pháp luật phát sinh giữa các quốc gia với nhau, thông qua
quá trình ký kết, thực hiện hoặc hủy bỏ một ĐƯQT. Nói cách khác, tính quốc
tế của một thỏa thuận điều ước là tổ hợp của tổng thể các yếu tố về hình thức,
nội dung và trình tự, thủ tục pháp lý quốc tế nhất định, liên quan đến việc hình
thành văn bản ĐƯQT
Dù tiếp cận theo góc độ lý luận hay thực tiễn thực thi, khi đề cập đến
khái niệm ĐƯQT, việc chỉ ra bản chất pháp lý của ĐƯQT là cực kỳ quan
trọng. Trong cách xác định của Công ước Viên 1969, ĐƯQT là một thoả
thuận dưới dạng văn bản, được ký kết bởi các quốc gia. Định nghĩa này của

Công ước Viên 1969 đã chỉ ra phạm vi điều chỉnh của Công ước là quan hệ
điều ước phát sinh giữa các quốc gia. Trên thực tế, quan hệ điều ước không chỉ
phát sinh giữa các quốc gia mà còn hoàn toàn có thể phát sinh giữa các chủ
thể khác của Luật Quốc tế với nhau và với quốc gia. Việc Công ước giới hạn
phạm vi điều chỉnh chỉ đối với quan hệ điều ước phát sinh giữa các quốc gia
như vậy có lý do từ hoàn cảnh lịch sử hình thành của Công ước. Quyết định
không mở rộng Công ước 1969 về điều ước tới các tổ chức quốc tế được Uỷ
ban Luật quốc tế giải thích: “ các điều ước được kỷ kết giữa các tổ chức quốc
tế có rất nhiều những đặc thù riêng; và Uỷ ban cho rằng sẽ quá phức tạp và


sẽ làm chậm việc dự thảo các điều khoản của Công ước này nếu đưa vào đó
điều khoản thoả đáng liên quan đến ĐƯQT của các tổ chức quốc tế ”
[46,187]. Vì vậy, Công ước minh thị khẳng định việc giới hạn đó không ảnh
hưởng đến giá trị pháp lý quốc tế của các thỏa thuận hình thành bởi các tổ
chức quốc tế hoặc giữa tổ chức quốc tế với chủ thể khác của Luật Quốc tế.
Với sự phát triển của Luật Quốc tế nói chung và điều ước quốc tế nói riêng,
quy định này là một trong những hạn chế của Công ước Viên 1969.
Khi xác định ĐƯQT là thỏa thuận thành văn giữa các quốc gia, Công
ước đã ngầm định chỉ rõ bản chất pháp lý quốc tế của ĐƯQT là kết quả của sự
thỏa thuận về ý chí của các quốc gia. Đặt trong quan hệ quốc tế, thỏa thuận là
sự gặp gỡ, trao đổi, thương lượng, nhân nhượng lẫn nhau để đạt đến sự nhất trí
về các vấn đề mà các bên chủ thể Luật Quốc tế cùng quan tâm. Như vậy, quan
hệ điều ước phải có sự tham gia ít nhất từ hai chủ thể Luật Quốc tế trở lên.
Tính pháp lý của các thỏa thuận này được thể hiện ở kết quả là các thỏa thuận
đã thành công, về hình thức, kết quả đó đươc ghi nhận dưới dạng các quy
phạm pháp luật quốc tế, trực tiếp điều chỉnh quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ
thể đã tham gia kết ước.
Điều lý giải như trên cho phép phân biệt ĐƯQT với cam kết quốc tế,
vốn là sự tự ràng buộc của chủ thể Luật Quốc tế vào nghĩa vụ pháp lý quốc tế

nhất định. Sự ràng buộc đó được thực hiện thông qua hành vi pháp lý đơn
phương hoặc thỏa thuận của chủ thể Luật Quốc tế. Trong một ĐƯQT, các
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ điều ước được các chủ thể kết ước cam kết thực
hiện trên cơ sở của nguyên tắc Pacta sunt servanda và các nguyên tắc khác mà
Công ước Viên 1969 đã ghi nhận.
Có thể thấy, tuy cùng là sự thể hiện ý chí quốc gia, nhưng về mọi
phương diện, quá trình đưa ý chí quốc gia vào nội dung của điều ước khác với
quá trình đưa ý chí quốc gia vào văn bản pháp luật trong nước. Sự thỏa thuận
về ý chí giữa các chủ thể ký kết hoặc gia nhập để hình thành ĐƯQT có sự độc


lập tương đối so với các quy định của pháp luật quốc gia, nhưng lại có mối
quan hệ biện chứng với các quy định đó, do sự ràng buộc của lợi ích quốc gia
đối với cả hai quá trình lập pháp trong nước và quốc tế. v ề điều này, Công ước
Viên đã đề cập khá cụ thể trong một số quy định pháp lý về mối quan hệ giữa
ĐƯQT và các văn bản pháp luật quốc gia.
Trong sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, việc ký kết và thực hiện
ĐƯQT là một trong số hoạt động pháp lý cơ bản, thuộc lĩnh vực thực thi
quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của quốc gia về phương diện đối nội và đối
ngoại. Với khái niệm “điều ước quốc tế”, Công ước Viên 1969 đã đặt nền
móng cho việc xác định giá trị pháp lý của ĐƯQT, đồng thời có ý nghĩa xây
dựng khung pháp luật về điều ước quốc tế với tư cách là một ngành luật độc
lập, thuộc hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại.
1.1.2 Phân loại Điều ước quốc tê
Công ước Viên 1969 tiếp cận một cách thận trọng khi phân loại ĐƯQT,
nhất là né tránh bất cứ một sự phân loại mang tính hệ thống nào, đồng thời
hạn chế cả sự phân biệt về phạm vi giữa các điều ước với nhau [40,35]. Nhưng
vẫn có thể theo cách làm truyền thống là đưa ra những tiêu chí chung để phân
loại một cách tương đối các ĐƯQT hiện hành trên thế giới như căn cứ vào số
lượng chủ thể, nội dung, đối tượng, thời điểm...

Trong số các tiêu chí mà dựa vào đó, có thể phân loại điều ước thì số
lượng và tính chất chủ thể kết ước được xem là một trong những tiêu chí cơ
bản [40,78]. Theo cách này, ĐƯQT được phân biệt thành ĐƯQT song phương
và ĐƯQT đa phương.
ĐƯQT song phương được được ký kết giữa hai quốc gia với nhau. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp, ĐƯQT song phương có nhiều hơn hai chủ thể
tham gia, như ĐƯQT giữa EU và Switzerland.


ĐƯQT đa phương luôn có từ ba chủ thể tham gia trở lên, thiết lập nên
các quyền vằ nghĩa vụ giữa một chủ thể với các chủ thể khác. ĐƯQT đa
phương thường mở để các Nhà nước hoặc các chủ thể Luật Quốc tế khác có
thể ký kết hoặc gia nhập.
Công ước Viên 1969 không phân biệt cụ thể sự khác biệt giữa ĐƯQT
song phương và đa phương. Nhưng hoàn toàn có căn cứ để đưa ra cách phân
loại trên khi dựa vào các quy định của Công ước về việc hình thành văn bản
điều ước, ký kết ĐƯQT và đặc biệt bảo lưu, gia nhập, những vấn đề chỉ áp
dụng đối với ĐƯQT đa phương.
Tiêu chí phân loại ĐƯQT dựa vào đặc điểm nội dung và mục đích của
ĐƯQT. Tuy nhiên, việc xác định nội dung và mục đích của ĐƯQT là rất khó
khăn, cho nên việc phân loại ĐƯQT dựa trên tiêu chí này thường không thể đạt
được[40,36] Nhưng từ đặc điểm nội dung của ĐƯQT, lại có thể phân loại
ĐƯQT với tiêu chí mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nghĩa vụ pháp lý được
đặt ra trong ĐƯQT đó với các ĐƯQT tương tự.
Căn cứ vào lĩnh vực điều chỉnh, ĐƯQT có thể phân loại ĐƯQT về
chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, văn hóa... Căn cứ vào phạm vi áp
dụng ĐƯQT có thể phân chia thành điều ước song phương, điều ước khu vực
và điều ước toàn cầu. Căn cứ vào thời điểm ban hành có thể phân thành điều
ước thời chiến và điều ước thời bình. Căn cứ vào tính chất, có thể có điều ước
khế ước và điều ước luật... Tất cả các tiêu chí phân loại trên thể hiện cách nhìn

phong phú về ĐƯQT.
Pháp luật mỗi quốc gia lại có sự phân loại ĐƯQT khác nhau. Ví dụ,
pháp luật về ĐƯQT của Việt Nam chia ĐƯQT thành bốn loại, đó là ĐƯQT
được ký kết với danh nghĩa Nhà nước; ĐƯQT được ký kết với danh nghĩa
Chính phủ; ĐƯQT được ký kết với danh nghĩa các Bộ, Ngành và ĐƯQT do
Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ký kết, trong phạm
vi thẩm quyền của các cơ quan này. v ề tổng thể, việc phân loại ĐƯQT theo


pháp luật quốc gia chủ yếu tạo cơ sở dễ dàng cho công tác ký kết, thực hiện và
quản lý nhà nước đối với ĐƯQT. Còn trong cách tiếp cận của Công ước Viên
1969, dù là ĐƯQT được ký kết ở cấp nào thì vẫn mang danh nghĩa của quốc
gia, tức quốc gia mới là thành viên của ĐƯQT đó.
1.2 NHỮNG ĐẶC TRƯNG c ơ BẢN CỦA ĐlỂU ƯỚC QUỐC TẾ
1.2.1 Hình thức của Điều ước quốc tế
ĐƯQT là nguồn pháp luật thành văn của Luật Quốc tế. Theo quy định
của Công ước Viên 1969 cũng như pháp luật và thực tiễn ký kết ĐƯQT của
các quốc gia, hình thức ĐƯQT được khẳng định là thỏa thuận bằng văn bản.
Nói cách khác, ĐƯQT phải được thể hiện dưới hình thức văn bản, với mẫu
truyền thống là văn kiện dưới dạng viết hoặc in ấn. Công ước Viên 1969 về
Luật ĐƯQT không điều cKĩĩĩh nhứngThõathuận miệng (mà Luật cổ gọi là
điều ước Quân tử). Những hình thức mới xuất hiện như fax, telex, thư điện tử,
kết quả của sự phát triển công nghệ thông tin, không được Công ước Viên
1969 quy định là hình thức có giá trị pháp lý ghi nhận kết quả thoả thuận giữa
các quốc gia. Việc không ghi nhận những hình thức khác ngoài hình thức văn
bản viết một phần nhằm tránh sự hiểu lầm khi trao đổi thông tin bằng giao tiếp
và một phần vì tại thời điểm ban hành, Công ước không thể trù tính được sự
phát triển của khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, phải thừa nhận những ưu
điểm vượt trội của hình thức văn bản với công năng trong việc xác nhận sự
ràng buộc các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể một cách chính xác, rõ

ràng, đồng thời có thể lưu giữ, bảo quản như một bằng chứng xác thực của
việc ký kết hoặc gia nhập ĐƯQT.
ĐƯQT là một văn kiện duy nhất, nhưng cũng có thể là hai hay nhiều
văn kiện có liên quan với nhau và không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các
văn kiện đó. v ề vấn đề này, Khuyến nghị của u ỷ ban Luật Quốc tế của Liên
hợp quốc đã khẳng định rõ ràng rằng, không có sự khác biệt nào về hiệu lực


pháp lý của một ĐƯQT được chứa đựng trong một văn bản duy nhất hay một
ĐƯQT được hình thành bởi một tập hợp các văn kiện có quan hệ với nhau, v ề
cơ bản, thỏa thuận thành văn này có các dấu hiệu sau:
* Tên gọi của văn bản điều ước
ĐƯQT rất đa dạng về tên gọi và việc đặt tên cho văn bản thỏa thuận
hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí của các bên ký kết. Không có sự phân biệt giá
trị hiệu lực giữa các ĐƯQT theo tên gọi. Trong thực tiễn, rất nhiều các ĐƯQT
có cùng nội dung và tính chất, nhưng có thể được đặt theo các tên gọi khác
nhau, ví dụ, ở quan hệ điều ước này gọi là Hiệp ước, ở quan hệ điều ước khác
lại được gọi là Định ước, Hiệp ước, Công ước, Nghị định thư... Các danh pháp
này hầu như không thể giới hạn được.
* Về cơ cấu của ĐƯQT
Hầu hết các ĐƯQT thường được xây dựng thành ba phần: Phần lời nói
đầu; phần nội dung; phần các điều khoản sau cùng. Với phần lời nói đầu, văn
bản ĐƯQT không chia thành điều, khoản, chương... và không chứa đựng
những quy phạm cụ thể có giá trị xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia. Lời nói đầu chỉ nêu lý do, mục đích hoặc tên của các bên ký kết.
Phần nội dung của điều ước là phần quan trọng nhất, được cơ cấu thành
các phần, các chương, các điều,... nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể kết ước trong các lĩnh vực hợp tác quốc tế phát sinh giữa các chủ thể
với nhau.
Phần cuối cùng bao gồm các điều khoản về điều kiện, thời điểm, thời

hạn có hiệu lực của điều ước, ngôn ngữ soạn thảo, cơ quan lưu chiểu điều ước...
Mặc dù ĐƯQT thường được bố trí theo các chương, mục, điều khoản cụ
thể, nhưng đây cũng không phải là yêu cầu bắt buộc về mặt hình thức thể hiện
đối với mọi ĐƯQT. Chẳng hạn, một số điều ước về thành lập tổ chức quốc tế,
như Tuyên bố Băng cốc 1967 về thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam


Á (ASEAN) là một trong số những ĐƯQT không có kết cấu như thường gặp
của ĐƯQT.
* Về ngôn ngữ dùng để soạn thảo ĐƯQT
Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản ĐƯQT cũng do sự thoả thuận của các
quốc gia thành viên, trên cơ sở phù hợp và đảm bảo có sự bình đẳng giữa các
quốc gia. Tuy nhiên, cách thỏa thuận sử dụng ngôn ngữ trong điều ước song
phương có thể có sự khác biệt với điều ước đa phương.
Chẳng hạn, với điều ước song phương, hai bên kết ước thông thường
thỏa thuận sử dụng ngôn ngữ của cả hai bên hoặc ngôn ngữ quốc tế. Ngược
lại, đối với điều ước đa phương, ngôn ngữ được lựa chọn là ngôn ngữ làm việc
chính thức của Liên hợp quốc, như các tiếng Anh, Pháp, Nga, Tây ban nha, Ả
Rập và Trung quốc. Các văn bản ĐƯQT soạn thảo bằng ngôn ngữ được lựa
chọn đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau. Ngôn ngữ của văn bản
ĐƯQT có thể được quy định ngay trong các điều khoản của điều ước, ví dụ
như cách quy định tại Điều 111 Hiến chương Liên hợp quốc, Điều 53 Công
ước Viên 1961 về Quan hệ Ngoại giao...
1.2.2 Chủ thể của Điều ước quốc tế

THƯ VI1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HA NU
ÔI
PHONG 0 0 c _____


J

Ký kết ĐƯQT là một trong quyền năng chủ thể quan trọng đối với một
quốc gia độc lập và có chủ quyền. Khi tham gia quan hệ điều ước, quốc gia có
đầy đủ quyền năng trong việc tiến hành các hành vi ký kết, như hành vi đàm
phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt, đình chỉ, bãi bỏ ĐƯQT... Trong Luật Quốc tế,
tư cách chủ thể ký kết là một trong những yếu tố quyết định đến giá trị pháp lý
của văn bản được ký kết. Luật Quốc tế khẳng định ĐƯQT là nguồn pháp luật
thành văn, điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các quốc gia đã quy định tư cách
chủ thể ký kết điều ước quốc tế phải là quốc gia (hoặc ngoài phạm vi điều
chỉnh của Công ước Viên 1969 là các tổ chức quốc tế...). Do đó, những thoả
thuận giữa một bên là nhà nước và một bên là thể nhân hay pháp nhân như


một công ty quốc tế hoặc một công ty đa quốc gia không làm phát sinh quan
hệ ĐƯQT [42,112]. Quan hệ pháp luật liên quan đến việc hình thành và thực
hiện các văn bản này thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật
khác, không phải quy phạm pháp luật điều chỉnh ĐƯQT. Từ đây, có thể
khẳng định, thoả thuận có yếu tố quốc tế với ý nghĩa là ĐƯQT phải là thoả
thuận giữa các quốc gia, để phân biệt với loại hình thỏa thuận quốc tế mà quốc
gia là một bên kết ước, nhưng có giá trị là hợp đồng quốc tế.
Các quốc gia thực hiện các quyền năng của chủ thể quan hệ điều ước
thông qua các cơ quan được uỷ quyền thay mặt quốc gia để tiến hành các hoạt
động ký kết ĐƯQT. Liên quan đến vấn đề này, Điều 7 Công ước Viên 1969
đã phân biệt đại diện của một quốc gia trong ký kết ĐƯQT bao gồm: Chủ thể
đương nhiên theo luật, không cần có uỷ quyền và chủ thể khi ký kết ĐƯQT
phải có ủy quyền.
Các chủ thể trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình không
cần xuất trình giấy uỷ quyền là Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao

trong việc thông qua văn bản của một ĐƯQT giữa quốc gia nhận cử và quốc
gia tiếp nhận; người được uỷ quyền đại diện cho các quốc gia tại một hội nghị
quốc tế hoặc một tổ chức quốc tế hoặc một cơ quan của tổ chức này để thông
qua văn bản của một điều ước tại hội nghị (ĩó, trdĩíg ĩổ #]hí§ẹ.;4ó háy trong cơ
quan đó.

TRƯỞNG OẠ: HỌC i.ÙÁĨ HÁ NÔ! Ị

1

__ 1

. i

A

_

A í

_

/

Ngoài những người thuộc diện quy định như trên, một cá nhân chỉ được
coi là đại diện cho một quốc gia để thông qua hoặc xác thực văn bản của một
ĐƯQT hay để biểu thị việc quốc gia đó đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của
một điều ước khi có giấy uỷ quyền hợp pháp, trừ khi các quốc gia hữu quan có
thoả thuận khác.
Như vậy, căn cứ vào giá trị pháp lý của từng hành vi ký kết mà Công ước

Viên 1969 đưa ra yêu cầu đại diện cần có uỷ quyền và, đại diện không cần có


uỷ quyền trong khi tiến hành các trình tự, thủ tục ký kết ĐƯQT. Quy định về
đại diện hợp pháp trong quan hệ điều ước nhằm đảm bảo sự an toàn cần thiết
cho ĐƯQT ở cấp độ quốc tế cũng như trong cấp độ quốc gia. Bên cạnh đó,
Điều 46 của Công ước Viên 1969 cũng một lần nữa khẳng định, một quốc gia
không thể viện dẫn một hành động biểu thị chấp nhận ràng buộc đối với một
ĐƯQT là vi phạm thẩm quyền ký kết điều ước theo pháp luật quốc gia để từ bỏ
những nghĩa vụ pháp lý đã cam kết, trừ khi việc vi phạm này quá rõ ràng và
liên quan đến một quy định có tính chất cơ bản của pháp luật trong nước.
Đánh giá quy định của Công ước Viên 1969 về thẩm quyền ký kết
ĐƯQT, Uỷ ban luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc nêu rõ Công ước đã cố
gắng dung hòa hai khía cạnh liên quan đến vấn đề thẩm quyền ký kết ĐƯQT,
đó là: công nhận và tôn trọng quyền tự do trong việc xác định đại diện ký kết
ĐƯQT của mỗi quốc gia; đồng thời, Công ước vẫn bảo đảm các ĐƯQT không
bị giảm giá trị bởi chính sự phức tạp và không rõ ràng trong việc quy định và
giới hạn thẩm quyền về ký kết ĐƯQT cho các chủ thể đại diện trong pháp luật
các quốc gia.
Từ những quy định về thẩm quyền nêu trên dẫn tới một khía cạnh pháp
lý cần phải quan tâm, pháp luật quốc tế không phân biệt giá trị pháp lý giữa
một ĐƯQT do người đứng đầu nhà nước ký với một ĐƯQT do các Bộ trưởng
ký. Sự thay đổi chính phủ của các quốc gia thành viên cũng không ảnh hưởng
đến hiệu lực của các ĐƯQT đã được ký kết. Tựu chung, danh nghĩa ký kết
ĐƯQT về phương diện quan hệ quốc tế là danh nghĩa quốc gia hay tổ chức
quốc tế (tức danh nghĩa của chủ thể Luật Quốc tế).
1.2.3 Nội dung của Điều ước quốc tế
Vấn đề nội dung của ĐƯQT có liên quan chặt chẽ với việc khẳng định
ý chí thỏa thuận giữa các chủ thể kết ước, cơ sở cho việc thiết lập các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý quốc tế của thành viên ĐƯQT. Các chủ thể

kết ước thỏa thuận với nhau về nội dung quyền, nghĩa vụ theo điều ước thông


qua xây dựng các quy phạm điều ước. Tùy thuộc vào đối tượng và lĩnh vực ký
kết mà nội dung của điều ước có các loại quy phạm khác nhau, như quy phạm
Jus cogens, quy phạm tùy nghi, quy phạm xung đột.
Về cơ bản, nội dung của ĐƯQT chủ yếu chứa đựng loại quy phạm trực
tiếp điều chỉnh quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ điều ước, kết
quả của các thỏa thuận thành công giữa các bên. Tuy nhiên, trong một số văn
bản điều ước, như điều ước ký kết trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, bên cạnh
quy phạm điều chỉnh quyền nghĩa vụ của chủ thể còn tồn tại loại quy phạm
mang tính chất dẫn chiếu hoặc chọn luật (quy phạm đặc thù). Tính pháp lý của
văn bản điều ước được đặc trưng bởi nội dung chứa đựng các quy phạm pháp
luật quốc tế nêu trên. Dựa vào dấu hiệu nội dung, có thể phân biệt được
ĐƯQT với các văn kiện chính trị mà các quốc gia tuyên bố trong các quan hệ
hợp tác quốc tế.
1.2.4 Luật điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện ĐƯQT
Những yếu tố về hình thức, nội dung của ĐƯQT, chủ thể ký kết ĐƯQT
có quan hệ mật thiết với điều kiện về Luật áp dụng điều chỉnh quan hệ ký kết
và thực hiện ĐƯQT. Một thỏa thuận quốc tế giữa hai quốc gia sẽ không có giá
trị của một ĐƯQT, nếu quan hệ thỏa thuận đó không được điều chỉnh bằng
Luật Quốc tế. Quá trình hình thành các văn bản ĐƯQT phải được tiến hành
trên cơ sở các quy định của Luật Quốc tế, mà trực tiếp là các quy định trong
Công ước Viên 1969.
Cùng với yếu tố chủ thể, điều kiện về luật áp dụng là dấu hiệu để phân
biệt một thỏa thuận quốc tế là ĐƯQT với một văn bản thỏa thuận có giá trị là
hợp đồng quốc tế. Chẳng hạn, khi thỏa thuận được hình thành bởi các quốc gia
nhưng Luật áp dụng điều chỉnh quan hệ đó là luật quốc gia của một trong các
bên ký kết thì văn bản hình thành không có giá trị pháp lý của ĐƯQT.



1.2.5 Vai trò của Điều ước quốc tế
Quan hộ quốc tế giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết sức đa
dạng, khác biệt về bản sắc văn hoá cùng các điều kiện về chính trị-kinh tế-xã
hội. Hình thành và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, ĐƯQT có
chức năng duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc tế, giữ gìn quan hệ
bình đẳng giữa các quốc gia, đảm bảo hài hoà giữa lợi ích cộng đồng quốc tế
và lợi ích quốc gia, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc
tế được thực thi, tuân thủ.
ĐƯQT được ký kết bởi các quốc gia nhằm hướng đến và bảo vệ những
lợi ích của quốc gia nói riêng và lợi ích chung của cả cộng đồng quốc tế nói
chung. Những thoả thuận của các quốc gia thể hiện trong nội dung của ĐƯQT
là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực thi nghĩa vụ thành viên ĐƯQT, kể
cả việc áp dụng các quy định của ĐƯQT để giải quyết những tranh chấp phát
sinh trong quá trình thực thi, tuân thủ ĐƯQT và các nghĩa vụ thành viên.
Trong mối quan hệ với các hình thức pháp luật khác, ĐƯQT ngày càng
khẳng định vị trí nguồn cơ bản của Luật quốc tế, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ
thống pháp luật quốc gia. Sự phát triển và vai trò của ĐƯQT đang chứng minh
những thay đổi về cơ cấu trong hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế, đồng
thời góp phần duy trì trật tự pháp lý quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc
tế nói chung và hội nhập pháp luật nói riêng.
Ngày nay, ĐƯQT càng khẳng định vai trò là công cụ pháp lý quan trọng
mà cộng đồng quốc tế sử dụng để đặt nền móng và thúc đẩy quan hệ hợp tác
quốc tế phát triển mạnh mẽ và là cầu nối giữa các quốc gia, các dân tộc.
1.3 KÝ KẾT ĐIỂU ƯỚC QUỐC TÊ
Hành vi pháp lý của chủ thể kết ước (hành vi ký kết) là xử sự của các
đại diện ký kết ĐƯQT theo trình tự, thủ tục quy định trong Công ước Viên
1969 và pháp luật mỗi quốc gia, nhằm hình thành văn bản và tạo hiệu lực pháp

!



lý cho văn bản ĐƯQT đó. Quá trình hình thành một ĐƯQT thường được chủ
thể kết ước tiến hành bằng nhiều hành vi pháp lý khác nhau như hành vi đàm
phán, soạn thảo, thông qua, ký, phê chuẩn, phê duyệt... Trên thực tiễn ký kết
ĐƯQT, các hành vi pháp lý nêu trên có thể được phân biệt thành hai nhóm cơ
bản và có giá trị pháp lý quốc tế khác nhau trong cùng một quan hệ ĐƯQT.
1.3.1 Nhóm hành vi xây dựng văn bản điều ước
Các hành vi đàm phán, soạn thảo, và thông qua văn bản điều ước quốc
tế là những hành vi pháp lý chính thức, thể hiện xử sự của chủ thể ký kết,
nhằm hình thành hình thức vật chất để ghi nhận kết quả của các thỏa thuận
song phương hoặc đa phương. Hiệu lực pháp lý của nhóm hành vi này phụ
thuộc một phần rất quan trọng vào việc từng chủ thể ký kết phải tuân thủ các
quy định của pháp luật quốc tế và quốc gia về trình tự, thủ tục xác định thẩm
quyền và tư cách đại diện hợp pháp khi tham gia các hoạt động ký kết điều
ước quốc tế ở giai đoạn hình thành văn bản dự thảo điều ước quốc tế.
Văn bản chính thức của một ĐƯQT được xây dựng sau khi đã được
đàm phán, thông qua và được các quốc gia đàm phán xác thực văn bản. Đàm
phán được coi là giai đoạn đầu tiên của quá trình ký kết các ĐƯQT. Văn bản
dự thảo ĐƯQT đã chuẩn bị từ trước do các bên tham gia đàm phán tự dự thảo
và sau khi đàm phán thành công thì các bên sẽ tiến hành soạn thảo văn bản
chính thức để các bên thông qua. Thực chất của đàm phán là quá trình thương
lượng, đấu tranh để đi đến thoả thuận thống nhất [14,78], là việc các quốc gia
thoả thuận một cách tự nguyện bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ
nhằm nắm bắt cái chung và bảo vệ lợi ích riêng của mỗi bên. Quá trình đàm
phán là một giai đoạn mang tính quyết định đến nội dung của các nghĩa vụ đã
được trù tính trong văn bản dự thảo [45,29] Đây là một giai đoạn thường tốn
nhiều thời gian. Vì vậy, để tránh việc thoả thuận bị kéo dài hoặc bế tắc, đàm
phán luôn đòi hỏi sự thiện chí rất lớn từ cả các bên tham gia. Nếu đàm phán
thành công, văn bản dự thảo sẽ soạn thảo chính thức để các bên thông qua.



Thông qua văn bản không phải là một hành vi thể hiện sự ràng buộc đối
với một ĐƯQT của các chủ thể thực hiện hành vi đó, trừ những trường hợp
được áp dụng theo nguyên tắc khác [37,66]. Theo Chú thích của Uỷ ban Luật
quốc tế: “Thông qua văn bản của một ĐƯQT hầu như luôn diễn ra bằng sự
đồng ý của tất cả các quốc gia thảo luận và có thể nói rằng nhất trí là nguyên
tắc chung”. Văn bản đã được các bên thống nhất thông qua là văn bản cuối
cùng. Xác thực văn bản có thể là một hành động nhưng cũng có thể là một thủ
tục [37]. Thực chất của hoạt động này nhằm công nhận một văn bản là xác
thực và sau đó nó không bị biến đổi.
1.3.2

Nhóm hành vi nhằm thực hiện sự ràng buộc về pháp lý với tư

cách là thành viên điều ước quốc tê
Theo điều 11 Công ước Viên 1969, hành vi nhằm ràng buộc với nghĩa
vụ thành viên ĐƯQT của chủ thể ký kết được quy định dưới những hình thức
pháp lý đa dạng, như Ký, Phê chuẩn, Phê duyệt, Chấp thuận, và trong nhiều
trường hợp, tư cách thành viên của điều ước quốc tế đối với một chủ thể còn
có thể hình thành theo cách thức Gia nhập điều ước. Các hành vi trên cơ bản
có cùng chung bản chất pháp lý vì đều hướng đến cùng một mục đích là tạo
hiệu lực thi hành cho điều ước và hiệu lực thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia
thành viên. Tuy nhiên, trong quá trình thiết lập quan hệ điều ước quốc tế, hành
vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, chấp thuận hoặc gia nhập mà các chủ thể tiến
hành, thể hiện mức độ chấp thuận của chủ thể ký kết đối với ĐƯQT, vẫn có sự
phân biệt nhất định về giá trị hiệu lực. Chẳng hạn, hành vi ký chỉ có thể tạo
hiệu lực pháp lý cho điều ước, nếu điều ước đó không quy định phải qua thủ
tục phê chuẩn.
*


Ký là biểu hiện chung nhất cho việc thể hiện sự ràng buộc của điều

ước đối với các chủ thể một cách chính thức. Thực tiễn hoạt động ký kết
ĐƯQT cho thấy có 3 hình thức ký ĐƯQT là ký tắt, ký ad reíerendum và ký
đầy đủ. Trong các hình thức ký đó, ký đầy đủ là hình thức phổ biến nhất và


×