BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
•
•
•
•
TRƯ Ờ N G ĐẠI HỌC LUẬT HÀ N Ộ I
NGUYỄN THỊ HANG n g a
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONC KINH DOANH
MỘT SÔ VÂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THựC TIEN
•
•
•
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
•
•
•
•
Người hướng dẫn khoa học:. TS. Phan Chí Hiếu
THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAI H Ọ C LUẬT H À N Ó I
PHÒ NG Đ O C _
* ỵt r
HÀ NỘI - 2004
T ồi
cam
đocxn đ Á ỵ là C.ÔV\CỊ
K \gkiồK \
n ê n g tổ i. í S ấ c s ổ liẹ u c ta ợ c + H c h d a n th e o K 0 UOKV đ ã a ô n g b ổ . K ế t
C Ịu a K\eu t r o n g
lu ậ n v â n K \à y là + m r \ g + k ự c v à c k ỉ ^ a iùtng đư ợ c. c.ô n g
b ổ t^ o K ig b ấ t k ỳ
H à rvọì, +kấ K0 5 Kvâm 2 0 0 4
TTấc g i a
y\)gu yê^\ TTkị *HằKV0 7 \ ]g a
íJJ ôi x in chân th à n h /'à y tỏ lòng íũ ế / (ỉn bâu hắc đ ô i 'Mỉi nọrửĩi
Ỉitù ỉn o d ẫ n ỉìỉto a /«)(■- M iên ủ ỹ ít(ã f /t<)<‘ Jý /ta n v /ú 'íă ế u crm y các ỉ/tẩ y
yráo, cê g iá c, rỉồnọ n y ỉtiê ịt, /m u tè nà <ỵia đ ìn ỉi (ĩã /â n ũ )i/i ự ìú /t ffô f
ỈH!
Hũi, t/iá n y 5 n ă m 2004
'JJ ác (jiả
J\Tỹu^ên 3ifu 3£ấnỹ jV jfa
M Ụ C LỤ C
Mỏ đầu
Chương 1- Những vân đề lý luận về giao kết hợp đồng trong kinh
doanh
1.1. Giao kết hợp đồng trong kinh doanh và vai trò của nó đối với các
Trang
1
5
5
hên trong quan hệ hợp đồng
1.1.1. Quan niệm về hợp đồng trong kinh doanh trong xu hướng
5
phát triển nền kinh tế thị trường
1.1.2. Bản chất của giao kết hợp đồng
14
1.1.3. Vai trò của giao kết hợp đồng và những yêu cầu đặt ra đối với
16
giao kết hợp đồng trong kinh doanh
1.2. Các yếu tố của giao kết hợp đồng
'
19
1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
19
1.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
26
1.2.3. Sửa đổi, bổ sung đề nghị giao kết hợp đồng và hậu quả của
27
nó đối với quá trình giao kết hợp đồng
1.2.4. Thời điểm hình thành hợp đồng và địa điểm ký hợp đồng
28
1.3. Khái quát pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh ở
29
Việt Nam
Chương 2- Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng trong
33
kinh doanh
2.1. Các nguyên tắc giao kết hợp đồng
33
2.2. Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
35
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
35
2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết
46
2.3. Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng
54
2.4. Hậu quả pháp lý của giao kết họp đồng thiếu điều khoản chủ yếu
59
2.5. Hình thức giao kết hợp đồng
61
2.6. Phương thức giao kết hợp đồng
63
2.7. Một số vấn đề về giao kết hợp đồng bằng các phương tiện điện tử
66
Chương 3- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
70
pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết
70
hợp đồng trong kinh doanh
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong
73
kinh doanh
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong
78
kinh doanh
Kết luận
89
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng để các nhà kinh doanh triển
khai các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ là công cụ
của các nhà kinh doanh khi được giao kết hợp pháp. Việc giao kết hợp đồng
đúng pháp luật sẽ làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Nhưng ngược lại nếu giao kết hợp đồng không tuân thủ các qui định pháp luật,
thỏa thuận của các bên sẽ không có giá trị ràng buộc, do đó quyền lợi hợp
pháp của các nhà kinh doanh không được bảo vệ. Giao kết hợp đồng với các
thủ tục chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các bên thực hiện tốt hợp đồng, đồng thời
ngăn ngừa vi phạm và giúp giải quyết tranh chấp giữa các bên thuận lợi hơn
nếu có tranh chấp xảy ra. Chặt chẽ, chi tiết trong giao kết hợp đồng nhưng lại
hết sức linh hoạt đó cũng là yêu cầu của giao kết hợp đồng trong kinh doanh.
Nếu thủ tục giao kết quá cứng nhắc sẽ làm mất đi các cơ hội kinh doanh của
các nhà kinh doanh, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học công
nghệ thông tin ngày càng phát triển.
Giao kết hợp đồng được điều chỉnh khác nhau ở các nước trên thế giới,
có thể điều chỉnh bằng án lệ, có thể bằng các quy định pháp luật thành văn.
Việt Nam theo xu hướng điều chỉnh pháp luật hợp đồng bằng các qui định
pháp luật thành văn. Ở Việt Nam có nhiều văn bản đề cập đến vấn đề giao kết
hợp đồng, chủ yếu tập trung ở Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và
Luật Thương mại. Các qui định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ký
kết và thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật về giao kết hợp đồng còn
nhiều tồn tại. Các qui định về giao kết hợp đồng hết sức tản mát, thiếu thống
nhất, trùng lắp và chồng chéo làm cho các nhà kinh doanh cũng như những
người áp dụng pháp luật gặp không ít khó khăn; nhiều các quy định bất hợp
]ý, quá gò bó, cứng nhắc không tạo ra sự linh hoạt cho các chủ thể kinh doanh
trong khâu giao kết hợp đồng. Các bất cập càng gia tăng trong điều kiện công
2
nghệ thông tin phát triển nhanh chóng đã làm phong phú thêm cách thức
truyền đạt và tiếp nhận thông tin.
Thực tế đó đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện
thực trạng áp dụng các qui định về giao kết hợp đồng trong kinh doanh, chỉ ra
các bất cập của pháp luật hiện hành về giao kết hợp đồng từ đó đề xuất hướng
khắc phục.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u
Cho đến nay, chưa có tác giả nào đề cập đến vấn đề này một cách toàn
diện, chỉ có một số luận văn thạc sỹ tiếp cận ở những góc độ khác nhau liên
quan đến ký kết và thực hiện hợp đổng kinh tế, giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Các luận văn này chủ yếu đề cập đến
vấn đề kỹ thuật trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài nhằm hạn chế những rủi ro khi ký kết và thực hiện hợp đồng, ví
dụ: Luận văn về ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và thực
tiễn ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Lâm (1997); hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài- Những vấn đề pháp lý khi ký kết và
thực hiện của tác giả Đào Ngọc Lý (1997); giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài theo pháp luật thương mại Việt Nam của tác
giả Nguyễn Vũ Hoàng (2003)... và một số đề tài tương tự khác. Cho đến nay
chưa có luận văn nào đề cập ở phạm vi rộng về giao kết hợp đồng trong kinh
doanh với tư cách là công cụ pháp lý quan trọng được các chủ thể kinh doanh
sử dụng để tìm kiếm lợi ríhuận, phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của
mình. Đây là đề tài lần đầu tiên được tác giả lựa chọn nghiên cứu.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ NGHIÊN c ứ u
Đề tài đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về giao kết
hợp đồng, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về giao kết hợp
đồng, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng trong kinh doanh.
3
Với mực đích đó, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Chỉ rõ các vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng
trong kinh doanh nói riêng;
- Chí ra các yêu cầu riêng của việc điều chỉnh pháp luật đối với giao kết
hợp đồng trong kinh doanh;
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng
trong kinh doanh;
- Đề ra phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật về giao kết hợp đồng nói chung, giao kết hợp đồng trong kinh doanh
nói riêng.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ú u
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương,
quan điểm về việc sửa đổi Bộ luật dân sự, Luật Thương mại...
Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, trong luận văn tác giả đã sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử
cùng các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn v.v...
5. Ý N G H ĨA KHOA HỌC VÀ T H ự C TIẺN CỦA ĐỂ TÀI
Luận văn có một số đóng góp sau đây:
-
Bước đầu làm rõ được một số vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng như
bản chất của giao kết hợp đồng, vai trò của giao kết hợp đồng và những yêu
cầu đặt ra đối với giao kết hợp đồng trong kinh doanh, các yếu tố cơ bản
của giao kết hợp đồng, thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng, xu hướng
điều chỉnh của pháp luật các nước và pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đ ồng...;
4
- Chi ra được các bất cập trong pháp luật hiện hành về giao kết hợp
đồng;
- Đề xuất được một số kiến nghị để hoàn thiện pháj3 luật về giao kết
hợp đồng nhằm góp phẩn xây dựng cơ chế điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt
cho giao kết hợp đồng trong kinh doanh.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương.
Chương 1- Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đổng trong kinh doanh
Chương 2- Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh
Chương 3- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
về giao kết hợp đồng trong kinh doanh
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ GIAO KẾT HỢP ĐỔNG
TRONG KINH DOANH
1.1. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ Đ ố i VỚI CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ HỢP Đ ồN G
1.1.1. Quan niệm về họp đồng trong kinh doanh trong xu hướng
phát triển nền kinh tê thị trường
Hợp đồng dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng phản ánh
bản chất là sự thỏa thuận trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Hợp đồng là
hình thức pháp lý thích hợp và phổ biến nhất của quan hệ tài sản. Thông qua
hợp đồng các bên thực hiện việc chuyển dịch các lợi ích vật chất với những
mục đích nhất định.
Dựa trên các căn cứ khác nhau mà khoa học pháp lý phân loại hợp đồng
thành những nhóm khác nhau. Căn cứ vào thời điểm phát sinh quyền và nghĩa
vụ, có hợp đồng ưng thuận và hợp đổng thực tế; căn cứ vào sự tương xứng về
quyền và nghĩa vụ có hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ (có tài liệu gọi là
hợp đồng mang tính chất đền bù, hợp đồng không mang tính chất đền bù [22,
tr 8]); căn cứ vào hình thức biểu hiện nội dung hợp đồng có hợp đồng bằng lời
nói, hợp đồng bằng cử chỉ, hợp đồng viết; căn cứ vào lĩnh vực phát sinh quan
hệ hợp đồng và nội dung cụ thể của hợp đồng có hợp đồng mua bán, hợp đồng
vận chuyển, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng đại lý, hợp
đồng xây dựng...
Pháp luật Việt Nam còn phân chia hợp đồng thành hợp đồng kinh tế,
hợp đồng dân sự. Việc phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự vẫn tồn
tại đến thời điểm hiện nay và làm cho Việt Nam trở thành một trong số rất ít
quốc gia có sự phân biệt độc đáo này. Quan niệm về hợp đồng kinh tế trong
6
pháp luật Việt Nam có những đặc thù riêng và chịu sự ảnh hưởng của từng mô
hình kinh tế trong các giai đoạn lịch sử [9].
Dưới thời Pháp thuộc pháp luật về hợp đồng đã phân biệt những việc
“thương sự” với những việc “dân sự” nhưng không có sự phân biệt giữa hợp
đồng thương mại (hay như cách gọi hiện nay là hợp đồng kinh tế) với hợp
đồng dân sự.
Sau kháng chiến chống Pháp thành công, để thu hút mọi hoạt động kinh
tế phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm theo Nghị định số 735- TTg
ngày 10 tháng 4 năm 1956. Từ đây khái niệm hợp đồng kinh doanh đã xuất
hiện. Theo bản Điều lệ này, chủ thể của hợp đồng kinh doanh là các đơn vị
kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, công tư hợp doanh
giữa người Việt Nam, Việt kiều trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là văn bản đầu
tiên của Nhà nước ta qui định về hợp đồng trong hoạt động kinh tế với các mối
quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể kinh doanh tự nguyện cam kết thực hiện
các kế hoạch của Nhà nước. Mặc dù các qui định về hợp đồng còn sơ khai và
đơn giản nhưng văn bản này đã góp phần quan trọng trong việc cải tạo các
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng các quan hệ sản xuất mới tạo tiền đề cho việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có thể khẳng định đâỹ là đóng góp có
ý nghĩa trong bối cảnh Nhà nước ta vừa giành được chính quyền và bắt tay vào
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Điểm đáng ghi nhận là quan
niệm về hợp đồng kinh doanh thời bấy giờ đã thể hiện được bản chất của hợp
đồng là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự
do định đoạt của các bên.
Giai đoạn từ sau năm 1960 đến đầu năm 1970, cùng với chủ trương sử
dụng kế hoạch hóa như là công cụ chủ yếu để điều tiết nền kinh tế đã làm thay
đổi về căn bản bản chất của hợp đồng kinh doanh. Đặc trưng của giai đoạn
này là sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung. Các quan hệ hợp đồng
7
không còn đơn thuần phản ánh các quan hệ tài sản mà còn chứa đựng yếu tố
tổ chức- kế hoạch. Các đơn vị kinh tế ký kết hợp đồng với nhau không xuất
phát từ sự tự nguyện và vì lợi ích kinh tế cá biệt của mình mà vì các chỉ tiêu,
kế hoạch Nhà nước giao. Ký kết và thực hiện hợp đồng là một kỷ luật bắt buộc
của Nhà nước. Trong bối cảnh đó, các qui định về hợp đồng kinh doanh trước
đây với sự đề cao tính thỏa thuận và sự tự nguyện của các bên ký kết không
còn phù hợp. Phúc đáp các yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước về kinh
tế, ngày 4 tháng 1 năm 1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm
thời về hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04/TTg. Từ khi có bản Điều
lệ này, thuật ngữ hợp đồng kinh tế ra đời với nhiều điểm mới so với qui định
về hợp đồng kinh doanh trước đây. Một trong những điểm mới nổi bật là tính
bắt buộc trong quan hệ ký kết và thực hiện hợp đồng theo kế hoạch Nhà nước.
Đến đầu những năm 70, để thể chế hoá đường lối của Đảng về xây dựng
và phát triển kinh tế trong giai đoạn cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa phù hợp
với những chuyển biến mới của nền kinh tế quốc dân, Chính phủ đã ban hành
bản Điều lệ chính thức về hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54/CP của
Chính phủ ngày 10 tháng 3 năm 1975 thay cho Bản điều lệ tạm thời trước đó.
Đây là bản điều lệ về hợp đồng kinh tế chính thức cho đến khi xuất hiện Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989. Mặc dù chỉ dưới hình thức Điều lệ nhưng
vãn bản này đã qui định khá chi tiết và đầy đủ mọi vấn đề liên quan đến chế
độ pháp lý về hợp đồng kinh tế. Bản Điều lệ này tiếp tục khẳng định ký kết
hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc của Nhà nước.
Như vậy, trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, với chức năng như là
một công cụ để thực hiện kế hoạch của Nhà nước, hợp đồng kinh tế mang đặc
trưng hoàn toàn xa lạ với bản chất của hợp đồng, đó là tính kế hoạch. Vào thời
điểm này, các bên xác lập quan hệ hợp đồng trên cơ sở định hướng về chỉ tiêu
kế hoạch của Nhà nước, không được tự do thỏa thuận, tìm kiếm và lựa chọn
bạn hàng cho mình. Doanh nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và sản
8
xuất cho ai đều do Nhà nước quyết định. Vi phạm hợp đồng nghĩa là vi phạm
kỷ luật của Nhà nước. Hợp đồng, với tư cách là một công cụ pháp lý quan
trọng để các doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận, thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh không phát huy được hiệu quả.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước ghi nhận và đề cao quyền
tự do kinh doanh mà biểu hiện rõ nét nhất là Nhà nước tôn trọng, quyền tự chủ
và tự nguyện khi giao kết hợp đồng của các doanh nghiệp. Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức về hợp
đồng kinh tế, trả lại cho hợp đồng thuộc tính của nó- đó là sự thỏa thuận của
các bên trên nguyên tắc tự do, tự nguyện và binh đẳng.
Bên cạnh Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế điều chỉnh về hợp đồng kinh tế,
còn có Pháp lệnh Hợp đồng dân sự được ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1991
điều chỉnh về hợp đồng dân sự. Đây cũng là nét đặc thù trong lịch sử xây dựng
pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng kinh tế có trước
pháp luật về hơp đồng dân sự. Điều này dường như đi ngược với lịch sử hình
thành pháp luật điều chỉnh về hợp đồng trong kinh doanh của nhiều nước trên
thế giới. Ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật thương mại thường xuất hiện
sau Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự điều chỉnh mang tính nguyên tắc cho mọi
quan hệ hợp đồng, những vấn đề đặc thù của hợp đồng trong kinh doanh được
Bộ luật thương mại hoặc văn bản luật chuyên ngành qui định. Trong khi đó,
Việt Nam quan niệm hợp đồng kinh tế được coi là một loại hợp đồng tồn tại
song song và độc lập với hợp đồng dân sự. Điều 1- Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế qui định: “Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao
dịch giữa các bên kỷ kết về việc thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng
hóa, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa
thuận khác cố mục đích kinh doanh với sự qui định rõ ràng về quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên đ ể xây dựng và thực hiện k ế hoạch của mình”.
9
Quan niệm này về hợp đồng kinh tế dẫn đến sự phân biệt hợp đồng kinh
tế và hợp đồng dân sự theo các tiêu chí chủ thể, mục đích và hình thức của hợp
đổng như chúng tôi đã đề cập ở trên. Chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là
pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; pháp
nhân với các chủ thể khác như nhà khoa học, hộ nông dân, hộ gia đình, ngư
dân cá th ể ... (Điều 42 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế); mục đích của các bên khi
tham gia quan hệ hợp đồng là tìm kiếm lợi nhuận; hình thức của hợp đồng là
bằng văn bản. Một hợp đồng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó thì
không được coi là hợp đồng kinh tế.
Qua 15 năm thi hành, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã thể hiện là một
công cụ pháp lý quan trọng đảm bảo cho các quan hệ kinh tế được thiết lập và
thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, đẩy mạnh
sản xuất và lun thông hàng hóa, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các chủ thể
kinh doanh. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường cùng với
sự ra đời và hoàn thiện không ngừng của các qui định pháp luật điều chỉnh về
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh đã làm cho quan niệm hiện
hành về hợp đồng kinh tế không còn phù hợp và trở nên bất cập hơn bao giờ
hết.
Qui định bắt buộc một bên trong quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân
mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý kinh tế cũ, trong đó hình thức doanh
nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Ngày nay các chủ thể kinh doanh
được pháp luật thừa nhận vô cùng đa dạng. Bên cạnh pháp nhân, cá nhân có
đăng ký kinh doanh còn có các loại hình chủ thể kinh doanh không có tư cách
pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, tổ hợp tác, hộ gia
đình... Việc đa dạng hóa các hình thức doanh nghiệp, mở rộng các chủ thể
kinh doanh là sự đáp úng tất yếu của pháp luật đối với đòi hỏi của nền kinh tế
thị trường mang nhiều đặc thù của Việt Nam. Tuy nhiên, theo qui định về chủ
thể của hợp đồng kinh tế, các chủ thể đó lại không được là chủ thể trong quan
10
hệ hợp đồng kinh tế nếu họ không ký hợp đồng với một pháp nhân. Ví dụ,
quan hệ hợp đồng thể hiện dưới hình thức văn bản giữa các chú thê kinh
doanh không có tư cách pháp nhân để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh
của các chủ thể đó. Các quan hệ hợp đồng đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể
kinh doanh nhằm triển khai các hoạt động vì mục đích lợi nhuận lại không hội
đủ các dấu hiệu pháp lý để được công nhận là hợp đồng kinh tế. Đó là điều bất
hợp lý.
Việc xác định mục đích của hợp đồng có mang mục đích kinh doanh
hay không cũng gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Đã có không ít những tranh
chấp mà việc tranh cãi có mục đích kinh doanh hay không có mục đích kinh
doanh để xác định là hợp đồng kinh tế hay không phải là hợp đồng kinh tế, xét
cho cùng, không có mấy ý nghĩa về mặt khoa học nhưng làm cho việc giải
quyết vụ việc bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà kinh doanh.
Vào những năm 90, trong điều kiện của một nền kinh tế nghèo nàn lạc
hậu đang chuyển đổi các nhà làm luật chưa thể tiên liệu hết các phương thức
giao dịch hợp đồng. Qui định hợp đồng kinh tế nhất thiết phải được xác lập
bằng văn bản với những biểu hiện cụ thể là văn bản hợp đồng và các tài liệu
giao dịch như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng đã tỏ ra lỗi
thời so với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin trong thời
đại ngày nay và bất cập với thực tiễn kinh doanh phong phú và đa dạng. Mặt
khác, qui định này còn gây cản trở cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng
trong điều kiện hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, khi tính thỏa thuận trong quan hệ hợp
đồng kinh tế đã được đề cao, các quan hệ kinh tế, dân sự phát triển đa dạng thì
ranh giới giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế ngày càng trở nên mong
manh và khó phân định. Bởi xét cho cùng hai loại hợp đồng này đều có chung
bản chất là các hình thức pháp lý của các quan hệ tài sản; nội dung đều liên
quan đến việc chuyển dịch các lợi ích vật chất; chủ thể đều là pháp nhân, cá
11
nhán và các chủ thể khác. Sự phân biệt giữa pháp luật hợp đồng kinh tế và
pháp luật hợp đồng dân sự với tư cách là hai hệ thống pháp luật tồn tại song
song với nhau đã dãn đến tình trạng có nhiều nội dung trùng lắp, mâu thuẫn,
chồng chéo trong pháp luật điều chỉnh về hợp đồng.
Vì vậy, trong xu hướng hiện nay, cần thay đổi nhận thức về hợp đồng
kinh tế với tư cách là công cụ pháp lý để các chủ thể kinh doanh triển khai
hoạt động của mình. Những hợp đồng này chúng tôi gọi là hợp đồng trong
kinh doanh. Nhận định này xuất phát từ những lý do sau đây:
T h ứ nhất, khái niệm hợp đồng kinh tế ra đời trong điều kiện nền kinh
tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp trong đó các quan hệ hợp đồng bị điều
tiết bởi các chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước. Trong thời kỳ này yếu tố tài sản
trong các quan hệ kinh tế chịu sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố tổ chức kế
hoạch đến mức các quan hệ kinh tế không còn mối liên hệ chung nào với các
quan hệ dân sự nữa. Vì vậy, việc đồng thời tồn tại khái niệm hợp đồng kinh tế
bên cạnh hơp đồng dân sự và hình thành hai hệ thống pháp luật hợp đồng kinh
tế và dân sự độc lập và song song tồn tại là tất yếu. Ngày nay, nền kinh tế thị
trường ngày càng phát triển với các qui luật riêng của nó không thể có chỗ
đứng cho sự áp đặt mang tính kế hoạch trong các quan hệ hợp đồng. Nhu cầu
thị trường, sự cạnh tranh là cơ sở cho việc hình thành quan hệ hợp đồng giữa
các chủ thể kinh doanh và động lực thúc đẩy các quan hệ hợp đồng ngày càng
phát triển phong phú và đa dạng trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Hợp đồng
kinh tế, hợp đồng dân sự nghĩ cho cùng cũng là sự thỏa thuận trên cơ sở tự
nguyện của các bên để dịch chuyển những lợi ích vật chất nhằm phục vụ cho
nhu cầu nào đó của các bên.
T h ứ h a i, bằng việc đưa khái niệm hợp đồng dân sự tại Điều 394, trong
đó không đề cập tới mục đích của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng, Bộ
luật Dân sự đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng. Xu hướng
để Bộ luật Dân sự điều chỉnh chung cho cả các quan hệ hợp đồng kinh tế đã
12
hiện hữu và ngày càng trở nên rõ nét hơn. Việc từ bỏ các khái niệm hợp đồng
kinh tế, hợp đồng dân sự sẽ góp phần mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế
định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng việc từ bỏ khái niệm hợp đồng
kinh tế không đồng nghĩa với việc bỏ các qui định riêng về từng loại hợp đồng
cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Sở dĩ bên cạnh Bộ luật Dân
sự cũng cần thiết tồn tại các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh về hợp
đồng bởi hoạt động kinh doanh có những đặc thù mà Bộ luật Dân sự không
thể điều chỉnh hiệu quả. Bên cạnh đó bản thân các qui định của Bộ luật Dân sự
cũng rất cứng nhắc, không thích hợp cho mọi giao dịch trong hoạt động kinh
doanh, dễ làm mất đi các cơ hội kinh doanh trên thương trường. Mặt khác,
pháp luật về kinh doanh nói chung, hợp đồng trong kinh doanh nói riêng hình
thành từ nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội. Cùng với sự phát
triển của hoạt động kinh doanh, các quan hệ trong kinh doanh trở thành một
lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn với nhiều đặc thù đòi hỏi phải có một bộ
phận pháp luật riêng để điều chỉnh. Tham khảo kinh nghiệm của các nước trên
thế giới, hiện nay chỉ có một số ít nước, ví dụ Thụy Sỹ, Italia, Bộ luật Dân sự
đã “thôn tính” các qui phạm của pháp luật thương mại. Hầu hết các nước điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng luật thành văn đều thiết kế bên cạnh Bộ luật
Dân sự còn có Luật Thương mại điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh
doanh với những nét đặc thù của hoạt động này, ví dụ : Pháp, Đức, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, các nước Bắc  u ... Trong điều kiện của nền
kinh tế Việt Nam chúng tôi cho rằng nên tiếp thu xu hướng điều chỉnh pháp
luật về hợp đồng như các nước này, xây dựng Bộ luật Dân sự là đạo luật gốc
điều chỉnh mọi vấn đề mang tính nguyên tắc chung cho mọi quan hệ hợp
đồng, những vấn đề đặc thù được qui định trong văn bản pháp luật chuyên
ngành.
13
Như vậy, cần khẳng định bỏ khái niệm hợp đồng kinh tế nhưng luật
chuyên ngành vẫn được duy trì để điều chỉnh những nét đặc thù trong hoạt
động kinh doanh gắn liền với các hành vi kinh doanh được thê hiện dưới hình
thức pháp lý là hợp đồng, chúng tôi gọi là hợp đồng trong kinh doanh. Tuy
nhiên, chúng tôi không có ý định bỏ khái niệm hợp đồng kinh tế cũ, xây dựng
khái niệm hợp đồng kinh doanh mới để rồi trong thực tiễn vận dụng lại phải
phân biệt hợp đồng trong kinh doanh với hợp đồng dân sự như trước đây. Gọi
là hợp đồng trong kinh doanh, trong phạm vi luận văn này, mục đích của
chúng tôi chỉ là đặt tên mang tính giả định để từ đó đặt vấn đề cần thiết phải
có cơ chế điều chính riêng cho hợp đồng trong kinh doanh, trong đó có vấn đề
thủ tục giao kết hợp đồng. Làm thế nào để thiết lập được thủ tục giao kết hợp
đồng đơn giản, linh hoạt mà vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và sự an toàn về mặt
pháp lý để các chủ thể kinh doanh thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của
mình.
Để tìm kiếm lơi nhuận, rõ ràng các chủ thể kinh doanh phải tham gia
vào các quan hệ trao đổi hàng hóa, cung ứng dịch vụ... với nhau. Hình thức
của các quan hệ đó là được phản ánh qua hợp đồng và đó là hợp đồng trong
kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi (Khoản 2, Điều 3 Luật Doanh
nghiệp). Hợp đồng trong kinh doanh là hình thức pháp lý chủ yếu của các
quan hệ về tài sản trong các giao dịch của đời sống kinh doanh, được các nhà
kinh doanh sử dụng thường xuyên như một công cụ hữu hiệu để tìm kiếm lợi
nhuận. Hợp đồng trong kinh doanh gắn liền với các hành vi kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh. Miễn là các chủ thể được Nhà nước thừa nhận và cho
phép tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì hợp đồng được ký giữa
các chủ thể đó với nhau, hoặc giữa các chủ thể kinh doanh với các chủ thể
14
khác để triển khai các hoạt động kinh doanh đều được coi là hợp đồng trong
kinh doanh.
Xuất phát từ quan niệm đó, theo chúng tôi, hợp đồng trong kinỉi doanh
ỉà sự thỏa thuận được th ể hiện dưới các hình thức do pháp luật quì định giữa
các bên ký kết vê việc thực hiện các công việc đ ể triển khai hoạt động kinh
doanh. Các công việc để triển khai các hoạt động kinh doanh có thể bao gồm
tất cả các hoạt động nhằm thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2. Bản chất của giao kết hợp đổng
Dù là loại hợp đồng nào thì việc giao kết hợp đồng đều có chung bản
chất được thể hiện ở kết quả cuối cùng là sự thỏa thuận trên cơ sở thống nhất ý
chí của các bên để làm phát sinh các nghĩa vụ pháp
lý. Từ đó các bên có cơ sở
để thực hiện các cam kết và chịu trách nhiệm về những cam kết của mình.
Phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận mà khái niệm giao kết hợp đồng có
thể được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Hiểu theo nghĩa hẹp, giao kết hợp
đồng được hiểu như là một thời điểm mà tại thời điểm đó sự thống nhất ỷ chí
của các bên đ ã diễn ra [15, tr 79]. Theo cách tiếp cận hẹp, chỉ được nhìn nhận
giao kết hợp đồng ở kết quả cuối cùng là sự hình thành hợp đổng mà không
thấy cả quá trình của việc hình thành nên hợp đồng đó. Hiểu theo nghĩa rộng,
giao kết hợp đồng là quá trình hình thành quan hệ hợp đổng. Luận văn quan
niệm giao kết hợp đồng theo nghĩa rộng, theo đó giao kết hợp đồng là quá
trình hình thành quan hệ hợp đồng, được tạo bởi hai yếu tố là đề nghị giao kết
họp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Trên thực tế không phải
hợp đồng nào cũng được giao kết với sự tách bạch rõ ràng giữa hai yếu tố này.
Nhưng bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và mọi sự thỏa thuận đều được
hình thành từ hai yếu tố là sự bày tỏ ý chí của một bên và sự ưng thuận của
15
bên kia. Việc giao kết hợp đồng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, vì
vậy không thể thiếu hai yếu tố đó.
Chúng ta đều biết hợp đồng là sự thỏa thuận nhưng không phải mọi sự
thỏa thuận đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận đó phải hướng tới một đối tượng
xác thực và làm phát sinh các nghĩa vụ pháp lý. v ề mặt ý chí, các bên liên
quan trong hợp đồng phải thể hiện ý muốn ràng buộc bởi những thỏa thuận
đó. Thỏa thuận của các bên chỉ trở thành hợp đồng khi có sự thống nhất về ý
chí và được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Quá trình bày tỏ ý chí và
thống nhất ý chí để hình thành quan hệ hợp đồng gọi là giao kết hợp đồng. Vì
vậy, bán chất của việc giao kết hợp đồng là quá trình tuyên b ố ý chí của các
chủ th ể tham gia giao dịch nhằm thỏa thuận và đi đến thống nhất các nội
dưng cần giao dịch, biểu hiện ở những hình thức nhất định được pháp luật
thừa nhận. Như vậy, giao kết hợp đồng phải là một quá trình trong đó: 1/có ít
nhất sự tham gia của 2 bên (cá nhân hoặc tổ chức); 2/có sự chủ động bày tỏ ý
chí một cách trực tiếp của một bên (gọi là bên đề nghị giao kết hợp đồng) đối
với bên khác được xác định (bên được đề nghị giao kết hợp đồng); 3/có sự ưng
thuận của hai bên và 4/được xác lập dưới một hình thức do pháp luật qui định.
Quá trình này diễn ra nhanh chóng hay kéo dài tùy thuộc vào ý chí của
các bên nhưng xem xét ở góc độ cơ bản và đơn giản nhất quá trình này có các
giai đoạn chính sau:
- Bên đề nghị giao kết hợp đồng bày tỏ ý chí muốn giao kết hợp đồng
với bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Việc bên đề nghị giao kết hợp đồng
bày tỏ ý chí muốn giao kết hợp đồng gọi là đề nghị giao kết hợp đồng;
- Bên được đề nghị xem xét đề nghị giao kết hợp đồng và nếu đồng ý
với các nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng thì cũng phải tuyên bố ý chí
cho bên kia (chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng);
- Bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được chấp nhận đề nghị.
Quá trình này được biểu hiện ở sơ đồ sau:
16
Đé nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị GKHĐ
Theo sơ đồ, đây là quá trình giao kết hợp đồng đơn giản nhất. Trên thực
tế quá trình này thường tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau, theo đó các bên
có thể đàm phán, thương lượng (trực tiếp hoặc gián tiếp) và hợp đồng được
hình thành khi các bên thỏa thuận được với nhau về các nội dung cơ bản trên
cơ sở tự nguyện ý chí của các bên.
1.1.3.
Vai trò của giao kết hợp đồng và những yêu cầu đặt ra đối với
giao kết họp đồng trong kinh doanh
Không thể có hợp đồng nếu không có giao kết hợp đồng. Giao kết hợp
đồng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh doanh bởi thiếu nó các chủ thể
không thể triển khai các hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và không
có công cụ pháp lý hữu hiệu để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh
của họ.
Giao kết hợp đồng, trước hết, tạo tiền đề cho việc thiết lập quan hệ giữa
các bên. Bằng việc giao kết hợp đồng, các chủ thể có những tìm hiểu ban đầu,
thể hiện ý chí muốn xác lập quan hệ hợp đồng và đặt những viên gạch tiếp
theo cho việc xây dụng mối quan hệ kinh doanh ổn định và bền vững. Thông
qua giao kết hợp đồng, các bên có cơ hội để tìm kiếm và lựa chọn các đối tác
phù hợp với mình. Các chủ thể được tự do bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí với
nhau một cách tự nguyện. Khi giao kết hợp đồng, các bên được bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ, không ai được can thiệp vào sự tự do ý chí của họ. Ý chí
của các bên sẽ không gặp gỡ nhau nếu không được bày tỏ, thỏa thuận và đi
đến thống nhất bằng việc giao kết hợp đồng. Vì vậy, có thể nói giao kết hợp
17
đồng là cầu nối để bắc cầu cho quan hệ của các bên trong việc triển khai các
hoạt động trên thương trường. Các bên tự nguyện đặt mình vào sự ràng buộc
lẫn nhau bằng việc thiết lập mối quan hệ thông qua quá trình giao kết hợp
đồng.
Bên cạnh đó ý chí của các bên được xác lập bằng thủ tục giao kết hợp
đồng đúng qui định pháp luật sẽ được ghi nhận và bảo vệ. Hợp đồng được
thiết lập sẽ làm phát sinh các nghĩa vụ pháp lý ràng buộc các bên, những thỏa
thuận không trái với các qui định của pháp luật sẽ trở thành “luật” đối với các
bên trong quan hệ hợp đồng. Việc giao kết hợp đồng không phù hợp với các
qui định của pháp luật sẽ bị vô hiệu, khi đó các bên phải tự gánh chịu mọi
thiệt hại phát sinh. Những điều khoản được soạn thảo chặt chẽ trong các văn
bản hợp đồng tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện các cam kết, hạn chế vi
phạm hợp đồng và giúp các cơ quan tài phán có cơ sở rõ ràng để giải quyết
các tranh chấp.
Ngoài ra, các quan hệ sản xuất, trao đổi, cung ứng hàng hóa và dịch
vụ... giữa các chủ thể kinh doanh được minh bạch hóa thông qua việc giao kết
hợp đồng. Việc đưa ra các đề nghị từ đó thương thuyết và đi đến thống nhất
bằng văn bản hợp đồng là quá trình làm sáng tỏ các quan hệ hợp tác giữa các
bên. Các điều khoản được thỏa thuận và đi đến thống nhất là bằng chứng cho
mối quan hệ hợp tác lành mạnh của các chủ thể. Thông qua việc giao kết hợp
đồng, các ý đồ không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh cũng bị bộc lộ,
qua đó giúp các đối tác có sự lựa chọn và né tránh những mối quan hệ không
chính đáng.
Với những vai trò đó, giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng không
chỉ đối với các bên trong quan hệ hợp đồng mà còn có ý nghĩa đối với việc
thiết lập trật tự kinh doanh chung.
THƯ VI ÊN
tr ư ơ n g d ạ i h ọ c lù â t h à n o i
phòng
nóc
18
Để đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động kinh doanh đầy năng động, linh
hoạt nhung cũng không ít rủi ro, giao kết hợp đồng trong kinh doanh phải đáp
ứng được các yêu cầu sau đây:
Tliứ nhất, việc giao kết phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản mà pháp
luật qui định, đặc biệt là nguyên tắc tự do, tự nguyện và không trái pháp luật.
Nguyên tắc tự do, tự nguyện đòi hỏi các bên phải có toàn quyền quyết định
trong việc lựa chọn đối tác trong quan hệ hợp đồng và tự ràng buộc mình
trong quan hệ hợp đồng với đối tác đó. Trên cơ sở đó các bên sẽ tự thực hiện
các cam kết và chịu trách nhiệm trước nhau và trước pháp luật, không ai có
quyền can thiệp vào quan hệ hợp đồng của các chủ thể bởi bất kỳ sự can thiệp
nào cũng làm cho sự thoả thuận của các bên bị lệch lạc và tước đi quyền tự
định đoạt của các chủ thể; nguyên tắc không trái pháp luật đòi hỏi các chủ thể
khi giao kết hợp đồng phải tuân thủ các trình tự, các bước mà pháp luật qui
định và nội dung mà các bên thỏa thuận, giao dịch mà các bên thực hiện, mục
đích mà các bên hướng tới không được vi phạm các điều cấm của pháp luật;
Thứ hai, giao kết hợp đồng trong kinh doanh phải đơn giản, linh hoạt
về thủ tục nhưng chặt chẽ về mặt pháp lý. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho các
bên nhanh chóng thiết lập được các quan hệ hợp đồng để tận dụng các cơ hội
kinh doanh và tiết kiệm thời gian. Đối với các chủ thể kinh doanh thời gian và
cơ hội là vàng. Vì thế, thủ tục giao kết nếu đơn giản, linh hoạt, một mặt được
các chủ thể tuân thủ triệt để, mặt khác, nếu không đáp ứng được yêu cầu nó,
tự thân nó sẽ bị các chủ thể kinh doanh né tránh, luồn lách. Khi đó bản thân
các điều luật cứng nhắc không có ý nghĩa thi hành trên thực tế. Muốn vậy, thủ
tục giao kết hợp đồng trong kinh doanh phải hạn chế tối đa sự can thiệp cứng
nhắc của pháp luật và phù hợp với tập quán kinh doanh được các chủ thể sử
dụng thường xuyên và ổn định trong thực tiễn kinh doanh. Bên cạnh đó, thủ
tục giao kết hợp đồng trong kinh doanh tuy đơn giản, linh hoạt nhưng phải
19
chặt chẽ nhằm đảm báo sự an toàn đối với hoạt động đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi
ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh.
Với các yêu cầu đó các qui định về thủ tục ký kết cũng như hình thức
của hợp đổng kinh doanh phải thật gọn nhẹ, tránh mang nặng tính hình thức,
tránh vụn vặt, liệt kê chi tiết, mặt khác phải đảm bảo tính hợp lý và thống nhất
cao độ.
Kết quả cuối cùng của giao kết hợp đổng là sự hình thành hợp đồng. Để
tạo nên hợp đồng phải có quá trình giao kết với 2 yếu tố cấu thành là sự bày tỏ
ý chí của một bên (đề nghị giao kết hợp đồng) và sự chấp nhận ý chí được
tuyên bố của bên kia (chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng).
Vì vậy, pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng ở tất cả các nước trên
thế giới đều qui định về đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, sự thay đổi, bổ sung đề nghị và hậu quả pháp lý của nó đối với quá
trình giao kết hợp đồng. Dưới đây, luận văn sẽ lần lượt làm rõ các yếu tố đó.
1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
1.2.1.1. Khái niệm và những yêu cầu của đ ề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một bên muốn giao kết
hợp đồng với chủ thể nào đó. Đề nghị giao kết hợp đồng được gửi cho một bên
xác định có giá trị ràng buộc đối với bên đưa ra đề nghị và bên nhận được đề
nghị. Khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị hợp đồng thì sẽ xác lập quan hệ
hợp đồng.
Trên thực tế, giữa đề nghị hợp đồng và một số hành vi như quảng cáo,
báo giá, rải tờ rơi... dễ gây nhầm lẫn và nhiều khi khó phân biệt. Vì vậy, cần
phải xác định rõ bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng. Một tuyên bố “tôi s ẽ
bán chiếc xe này cho anh với giá 20 triệu đồng” và người kia chấp thuận ngay
“Xong liền, mai tôi trả tiền nhận xe” không phải là một đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Khi đó, trong ví dụ này, họp