Itộ (Ỉ1ÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
n ồ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯƠNG VĂN TRÒN
VAI TRÒ CỦA LUẬT
sư TRONG
VIỆC
BẢO VỆ#
•
■ -r ,
#
ỌUYỀỈN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO TRONG TỎ TỤNG HÌNH sự
Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số
: 50514
LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYÊN VĂN TUÂN
TRUNG TÂM THÔNG TIN THI
TRƯỜNG ĐẠI H Ọ C m  LH À ỉ;
PHÒNG ĐỌC _ k l l k 2 _
Hà Nội - 2002
m
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẤU
CHƯƠNG 1
BẢO ĐẢM QUYỂN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ VỊ TRÍ
6
CỦA LUẬT S ư TRONG T ố TỤNG HÌNH s ự VIỆT NAM
Bảo đảm quyển bào chữa của bị can, bị cáo
6
Vị trí của luật sư trong tố tụng hình sự.
14
Một số qui định chung về bào chữa trong tố tụng hình sự.
14
Vị trí của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự.
18
CHƯƠNG 2.
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUVÊN VÀ
32
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA IỈỊ CAN, BỊ CÁO TRONG CÁC
GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNli s ự .
Vai trò của luật sư trong giại đoạn điều tra, truy tỏ vụ
32
án hình sự.
Khởi tố bị can và vai trò của luật sư.
32
Sự tham gia của luật sư trong việc hỏi cung bị can và những
34
hoạt động điều tra khác.
Luật sư có quyén thay đổi người tiến hành tố tụng, người
38
giám định, người phiên dịch.
Luật sư có quyền đưa ra chứng cứ, những yêu cầu, khiếu nại
39
các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Vai trò của luật sư trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án.
45
Vai trò của luật sư trong việc gặp bị can.
47
2.2.
2.2.1.
Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
49
Vai trò của luật sư trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án
49
hình sự.
2.2.1.1.
Sự tham gia của luật sư ở phần
thủ tục bắt đầu phiên toà.
49
2.2.1.2.
Sự tham gia của luật sư ở phần
xél hỏi.
51
2.2.1.3.
Sự tham gia của luật sư ở phần
tranh luận tại phiên toà.
61
2.2.2.
Vai trò của luật sư ớ cấp xét xử phúc Ihẩm vụ án hình sự.
68
CHƯƠNG 3.
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT T ố TỤNG HÌNH s ự VÀ NÂNG CAO
71
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ.
3.1.
Hoàn thiện pháp luật tô tụng hình sự.
71
3.1.1.
Y nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
71
3.1.2.
Một số kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luât tố tụng hình
73
sự.
3.2.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư trong tô tụng
79
hình sự.
3.2.1.
Nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư.
79
3.2.2.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
83
nhằm tạo điều kiện cho luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa
cho bị can, bị cáo.
3.2.3.
Nâng cao nhận thức về vai trò của luật sư trong tố tụng hình
85
sự.
KẾT LUẬN
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
1
LỜI NÓI ĐẦU
l.T ính cấp thiết của đề tài luận văn
Chúng ta có đầy đủ lý do để khẳng định rằng nghề Luật sư là một nghề
cao quý trong xã hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Hoạt động Luật sư là một nghề không thể Ihiếu trong xã hội nhưng dó
không phải là nghề binh thường. Sự cần thiết của nghề Luật sư trước hết để
bảo đảm thực hiện một trong các quyền Hiến định của công dân, đó là quyển
được bào chữa, quyền được bảo vệ khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Hiến pháp 1992 được quy định: "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo
đảm. Bị cáo có th ể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. T ổ
chức Luật sư được thành lập đ ể giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vê
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phán bảo vệ pháp c h ế x ã hội ch ủ
nghĩa
Pháp lệnh luật sư năm 2001 với thời điểm ban hành rất quan irọng irong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được
Hiến pháp 1992 cùng với các điểm sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội
khoá X, đã nêu yêu cầu rất cao và cũng có thể nói đã nâng tầm người luật sư
vẻ dịa vị pháp lý trong xã hội: "Bằng hoạt động của mình, luật sư góp phần
báo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp c h ế x ã hội chủ nghĩa" (khoản 2
Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001).
Như vậy, có thể nói rằng vấn đề tạo điều kiện phát triển hoạt động luật
sư được Nhà nước ta dặc biệi quan tâm.
Trong những năm qua hoạt động tố tụng hình sự ở nước la đã có nhiều
tiến bộ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay chất lượng công tác tư pháp nói
chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường
2
hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyển tự do dân chủ
của nhân dân và công dân.
Những tồn tại, khuyết điểm nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng
trước hết do trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người
tiến hành tố tụng chưa được nâng cao. Vai trò của những người tham gia tố
tụng hình sự trong đó có luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo chưa đúng tầm đòi hỏi của nhân dân. Pháp luật tố tụng hình
sự nói chung, chế định luật sư trong pháp luật tố tụng hình sự nói riêng chưa
hoàn thiện và còn nhiều sơ hở. Công tác xây dựng, giải thích, hướng dẫn và
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong đó có pháp luật tố tụng hình sự
còn nhiều bất cập và hạn chế. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn về hoạt động luật sư chưa nhiều.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi Ihấy cần chọn đề tài: "Vai trò của luật sư
trong việc bào vệ quyền và lợi ích họp pháp của bị can, bị cáo". Làm luận văn
cao học với mong muốn đóng góp ý kiến của mình làm rõ hơn địa vị pháp lý
của luật sư; vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phù hợp với tình hình
mới. Đồng thời đề xuất những giải pháp hữu ích, thiết thực nhằm góp phần
hoàn thiện chế định luật sư, pháp luật tố tụng hình sự và những biện pháp hữu
ích nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo của luật
sư trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đ ề tài
Việc nghiên cứu đề tài: "Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo" nhằm làm rõ cơ sở pháp lý về địa vị pháp
lý của luật sư trong tố tụng hình sự và vai trò của luật sư với việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
được thực hiện đúng và có hiệu quả trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự.
3
2.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu để tài luận văn phải giải quyết những
vấn để cơ bản sau đây:
- Làm rõ nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tô' tụng hình sự vị trí của luật sư quyền và
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Làm rõ cơ sở pháp lý về địa vị pháp lý của luật sư với việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo Irong các giai đoạn khởi tố điểu
Ira, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
- Chỉ ra những bất cập hạn chế của chế định luật sư trong pháp luật tô
tụng hình sự, những hạn chế của cơ chế bảo đảm sự tham gia của luật sư bào
chữa cho bị can, bị cáo trong lố tụng hình sự. Từ đó đề xuất ý kiến góp phần
hoàn thiện chế định luật sư trong pháp luật tô tụng hình sự và những biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt dộng bào chữa của luật sư trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Ý nghĩa khoạ học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo việc
nghiên cứu đề tài: "Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo" có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể là:
- Góp phần đổi mới tư duy pháp lý trong lĩnh vực hoạt động tố tụng
hình sự theo hướng dân chủ, nhân đạo và tiến bộ hơn.
- Nâng cao nhận thức về vai trò vị trí của luật sư bào chữa cho bị can, bị
cáo từ phía các cơ quan Nhà nước trong đó có các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự và xã hội.
- Góp phẩn hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và tăng cường hiệu quả
bào chữa của luật sư.
4
-
Luận văn có thể được coi là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn của các ngành, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các luật sư
cũng như mọi công dân có nhu cẩu tìm hiểu về luật sư bào chữa bảo vệ quyền
lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lên nin
về quyền con người; những quan điểm đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam
về dân chủ hoá trong hoạt động tố tụng hình sự.
Để làm sáng lỏ nội dung đề tài nghiên cứu, trong luận văn này chúng
tôi đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy
vật lịch sử cùng các phương pháp khoa học cụ thể, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp lôgic.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài iuận văn
Trong quá trình nghiên cứu và viết để tài luận văn: "Vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự". Chúng tôi đã tham kháo công trình nghiên cứu và các bài viết có liên
quan mật thiết đến đề tài luận văn, trong đó đáng chú ý là các công trình
nghiên cứu của TS. Nguyễn Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong tô' tụng hình
sự"; TS. Phạm Hồng Hải: "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội";
Thạc sỹ . Nguyễn Thị Thu Thuỷ: "Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền
con người trong tố tụng hình sự Việt Nam" và các bài báo của TS. Nguyễn
Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo"; Luật sư Hồ Sĩ Sơn: "Những đảm bảo hiệu quả của hoạt
dộng bào chữa trong tô'tụng hình sự"; Hoàng Thị Sơn: "Người bào chữa trong
tố tụng hình sự" và những tài liệu tham khảo khác.
Những công trình và những bài viết nêu trên cùng các bài viết khác
trong mục "Tài liệu (ham khảo" của luận vần, dù mức độ và phạm vi khác
nhau, nhưng đều thể hiện khá rõ nét vai trò của người bào chữa nói chung, của
5
luậl sư bào chữa nói riêng Irong tố lụng hình sự khi tham gia vào quá trình tố
tụng hình sự.
Những đề xuất trong các công trình và bài viết đó rất đáng được trân
trọng nghiên cứu, học tập và áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, để khẳng định
hoạt động luật sư là một nghề độc lập cao quý và càng được tôn vinh trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với sự
ra đời của Pháp lệnh luật sư năm 2001 không chỉ nâng cao vị thế của luật sư
trong xã hội, mà còn đưa luật sư nước ta lên ngang tầm với luật sư của các
nước trên thế giới và khu vực. Vì vậy, vai trò của luật sư nói chung, luật sư bào
chữa cho bị can, bị cáo nói liêng, cần được nghiên cứu một cách sâu sắc và
đầy đủ gắn với sự phát triển đổi mới hoạt dộng tư pháp trong nước và đáp ứng
nhu cầu hội nhập Quốc tế với ý nghĩa đó đề tài luận văn đã tập trung nghiên
cứu những vấn đề chủ yếu là:
- Làm rõ và sâu sắc thêm một bước cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; vị trí của
luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự.
- Vai trò của luật sư bào chữa trong các giai đoạn khởi tố điều tra, truy
lố và xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.
Trong quá trình nghiên cứu làm luận vãn, người thực hiện đề tài đã gập
nhiều khó khăn do còn thiếu kinh nghiệm, thiếu tài liệu tham khảo và thực tế
Iham gia bào chữa cho bị can, bị cáo của bản Ihân chưa nhiều vì vậy nội dung
luận văn chắc chắn còn Ihiếu sót và hạn chế. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ tận
tình của người hướng dẫn là TS. Nguyễn Văn Tuân, Phó vụ trướng Vụ quản iý
Luật sư và tư vấn pháp luật, để tài đến nay đã được hoàn thành. Tôi xin trân
trọng gửi đến thầy hướng dãn luận văn TS. Nguyễn Văn Tuân; các Quý thầy
cô khoá cao học Luật; các tác giả của các công trình nghiên cứu, các tư liệu
được sử dụng trong luận văn đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG 1
BẢO ĐẢM QUYỂN BẢO CHỬA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ
VI TRÍ CỦA LUÂT S ư TRONG T ố TUNG HÌNH s ư VIẺT NAM
•
*
•
9
•
<1
1.1- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo .
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can bị cáo là nguyên tắc, hiến định
trong tố tụng hình sự.Điều 132, Hiến pháp qui định;"Quyền bào chữa của bị
cáo được bảo đảm". Nguyên gắc này được phát triển và cụ thể hóa trong các
điều 35; 37 và các điều khác của Bộ luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó, pháp
luật tô tụng hình sự qui định các quyển tố tụng của bị can, bị cáo và khả năng
sử dung các quyền đó để bác bỏ sự buộc tôi, đ&ra lý lẻ và chứng cứ để bào
chữa cho mình và những quyền đó được pháp luật bảo đảm. Điểu 12 Bộ luật
tố lụng hình sự qui định : "Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ
bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyển bào chữa của họ.
-
Trong xã hội ta việc bảo vệ lợi ích, danh dự và nhân phẩm của con
người là vấn để lất được quan tâm. Vì vậy, việc buộc tội và xét xử không
công minh môt công dân sẽ gây thiêt hai không chỉ cho ho mà ảnh hỏng đến
cả xã hội. Là thành viên trong xã hội, người bị buộc tội và bị truy cứu trách
nhiệm hình sự được sử dụng nhiều quyển do pháp luật qui định đổ bảo vệ lợi
ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc
xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự, céíý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp củạ bị can, bị cáo và tìm ra sự thật của vụ án. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khóa VIII) nêu lõ
: "Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm,
dồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai. Xét xử không công minh
vi phạm quyền dân chủ của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực
eúa việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ,
công khai trong hoạt động". Ngày 02 tháng 01 nãm 2002 Bộ chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 08/NQ/TW về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có nêu rõ "Clìâìhỉợng công
tácV pháp nói chung chúa ngang tầm yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân . Còn
nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự
do dân chủ cùa công dân làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và các cơ quan tư pháp". Cùng với việc quan tâm cuộc sống của
nhâu dân, các cư quan Nhà nước cần phải tôn trọng và báo đảm các quyên
của công dân đã đưược Hiến pháp qui định.
Thi.
hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo có lác
dộng tích cực đến chất lựng xét xử và các định sự ihật khách quan của vụ án.
Có người cho rằng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cùa bị can,bị
cáotMờng được thế hiện là "Quyền bào chữa của bị can, bị cáo". Hiểu Him’vậy
là không phù hợp với Hiếp pháp và Pháp luật tô tụng hình sự. Khái niệm "Báo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo rộng hơn khái niệm "Quyền bào chữa
của bị can, bị cáo". "Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các
hành vi tô tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện
trên cơ sỏ' phù hợp với qui định của pháp luật nhằm phủ nhận một phẩn hay
loàn bộ sự buộc tội của các cơ quan liến hãnh lố tụng, làm giám nhẹ hoặc loại
Irừ trách Iilỉiệm hình sự của mình trong vụ án hình s ự ll).
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo không phải là quyển của công dân
nói chung mà chỉ là quyền liêng của bị can, bị cáo. Quyền này có ý nghĩa
quan trọng không chỉ để bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo mà JÒI1 để
nâng cao uy tín của việc xét xử, để tạo sự tintìiởng của xã hội đối với việc xét
7
>
r r iv
✓
xứ cua lò a án
(2)
.
Quyển bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm trong bất kỳ giai
đoạn nào của tô lụng mà họ tham gia ~ Giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm. Trong tất cả các giai đoạn này, bị can, bị cáo sử dụng quyền tố
tụng đó đế bác lại sự buộc tội họ. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo để họ sử
dụng bác lại sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, đưa ra lý lẻ và chứng
cứ nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình.
(1) X em : Luật sư, TS Phan H ồng Hải “Đ ảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội” .
Nhà xuất bản Công an nhân dân, H à Nội 1999, trang 29.
(2) TS N guyễn Văn Tuân, “ Vai trò của luật sưư trong tố lụng hình sự” NXB Đại học quốc
gia, Hà Nội 2001, Ti 15.
8
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo dược thế hiệii(|iơi 2 hình ihức : Tự
bàu chừa cúa bị can, bị cáo và bào chữa với sự giúp đỡ của người bào chữa.
I lai hình thức này được tiến liành song song và có thể sứ đụng trong lâì cá
các giai đoạn tồ lụng, từ khới tồ, điếu tra, Iruy lô và xét xử vụ án hình sự.
Theo điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự, bị can là người bị khởi tố vế hình
sự, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định diỉira xét xử. Bị can có quyền biết
mình bị khơi tố về tội gì; cỉỊÌira chứng cứ và những yêu cầu ; dề nghị thay dối
người tiên hành tô tụng, người giám định, người phiên dịch, tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa.
Bị can ùứược nhận Quyết định khởi tố bị can (bản sao), quyết định áp
dụng biện pháp ngăn chặn, được giao nhận bản kết luận điều tra sau khi kết
thúc điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, có quyển khiếu nại, quyết
định của cơ quan điểu tra và Viện kiếm sát.
Bị cáo được giao nhận báu sao quyết định đùivụ án ra xét xử, được
tham gia phiên tòu, được yêu cầu để nghị thay dổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự,
đua ra chứng cứ và những yêu cầu, tự bào chữa hoăc nhờ người khác bào chữa
, nói lời sau cùng trước khi nghị án, được kháng cáo bản án, quyết định của
r p V
/
1Òa án.
Trưước hết, bị can, bị cáo phải được biết họ có quyền gì. Không biết đ-
ược quyền và những phịỉmg tiện bào chữa thì bị can, bị cáo không thể bào
chữa có hiệu quả. Điểu 46 của Bộ luật tố tụng hình sự có qui định các cơ
quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong đó có bị can, bị
cáo.
Bị can được biết mình bị buộc tội gì ? Không biết được diều đó họ khó
có thể thực hiện quyền bào chữa của mình. Quyết định khởi tố bị can xác
định ai là người đang bị điều tra và người đó được biêì họ bị buộc vào tội gì.
Cơ quan ra quyết định khơi tố bị can phải giao quyết định và giải llìích quyển
9 ■
và nghĩa vụ cho bị can. Bị can ký vào biên bản giao nhận (khoản 3, điều 103
Bộ luật tô tụng hình sự).
Quyền giải thích đối với việc buộc tội là một trong những quyền quan
trọng cứa bị can. Lời giải thích của bị can là một trong những nguồn chứng
cứ, là phtìmg tiện chứng minh, nó được kiểm tra và đánh giá theo qui định của
pháp luật tố tụng hình sự. Điều đó liên quan đến việc nhận tội cũng nhi'không
nhận tội của bị can. Tiếc rằng quyền đó của bị can ch à được đề cập trong Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành của nưước ta.
Việc hỏi cung bị can phải do điều tra viên tiến hành ngay sau khi có
quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điểu tra
hoặc tại nơi ở của người đó (khoản 1, điều 107 BLTTHS). Từ thời điểm đó bị
can được thực hiện quyền bào chữa của mình. Bị can không phải chịu trách
nhiệm về việc họ từ chối khai và khai gian dối. Bị can có thể tự viết lời khai
của mình. Trách nhiệm của điều tra viên khi hỏi cung bị can câu hỏi đặt cho
bị can cần phải rõ ràng, cụ thể và có liên quan đến vụ án. Không được Iĩiớm
cung và cấm bức cung, doạ nạt, dùng áp lực, hoặc những biện pháp trái pháp
luật khác.
Sau khi hỏi cung điều tra viên đọc lại biên bản cho bị can nghe, hoặc
để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ Sung và sửa chữa biên bản thì bị can
và diều tra viên cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký
vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì điều
tra viên và bị can cùng ký xác nhận lời khai đó (Điều 108 Bộ luật tố tụng
hình sự).
Quyền của bị can được xem hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra ở nước ta hiện nay cht&iđược tìộ luật tố tụng hình sự đề cập. Ngược lại, theo điều
34 Bộ luật tố tụng hình sự, chỉ được giao nhận bản kết luận điều tru sau khi
kết ihúc điểu tra mà không được xem hổ sơ vụ án. Trong khi đó điều 36 Bộ
luật tố tụng hình sự qui định người bào chữa có quyền đọc hổ sơ vụ án và ghi
chép những điều cần thiết trong khi kết thúc điều tra. Rõ ràng một điều
không hợp lý là người bào chữa tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích cho bị can
thì iạièợc mở rộng quyền hơn bị can.
10
Một số người cho lằng trong tình hình hiện nay với trình độ tổ chức và
cán bộ điều tra hoạt động điều tra clìùabảo đảm đầy đủ, toàn diện và khách
quan, do đó nêu cho bị can xem hồ sơ, họ sẽ chối tội cản trở công tác điều
tra, truy tô và xét xử. Từ nhận thức nỉĩ/vậy, họ cho rằng Điều 34 Bộ luật tố
tụng hình sự qui định nhívậy là phù hợp. Một số người khác
nhái bảo đảm cho bị can quyền xem xét hổ sư vụ án, sau
lại cho rằng cần
khi kết thúc điều tra
đế cho bị can biết mình bị buộc tội gì và bằng những chứng cứ nào. Từ dó mà
bị can có thể thực hiện quyền bào chữa. Họ cho rằng việc bị can xem hồ SƯ
chẳng những không gây cản trở cho quá trình điều tra mà còn giúp cho quá
trình điều tra được đầy đủ khách quan và toàn diện hơn.
Theo chúng tôi, qui định không cho bị can xem hồ sơ vụ án là qui định
không được bảo dám, bởi vì mỗi khi bị cán có người bào chữa thì người bào
chữa có the thông báo cho bị can những Ihông tin mà họ biết được khi đọc hổ
sư vụ án. Mật khác, khi đọc hồ sư vụ án người bào chữa có thế phát hiện tình
tiết hồ sư vụ án cần phái làm rõ, bàn bạc cùng bị can.
Từ đó có Ihể khẳng định là bị can cần được bình đẳng về quyền với
người bào chữa và điều đó cần dược ghi nhận cụ thể trong pháp luật. Qui định
nhu’vậy chẳng những bảo đảm cho bị can quyên bào chữa mà còn càng làm
cho diều tra viêa có trách nhiệm tiến hành điều tra vụ án đầy đủ, toàn diện và
khách quan hơn.
Trước khi thông qua Bộ luật tố Lụn^ hình sự, trong Ihông tư 16 TATC
ngày 27/9/1974 có qui định: trước khi xét xử 5 ngày bị can phải được tống dạt
cáo trạng.
Điều 142 Bộ luật tố tụng hình sự qui định trong thời hạn không quá 20
ngày đối với tội ít nghiêm trọng,không quá 30 ngày đối với tội rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kếl
luận điều tra, Viện kiếm sát phải rạ một trong những quyết định sau đây :
- Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.
- Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Đình chỉ hoăc tam đình chỉ vu án.
11
Bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chí vụ án phái
được giao cho bị can. Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không đề
cập đến thời hạn tông đạt cho bị can bản cáo trạng.
Khoản 3 Điều 175 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: "Trong trường hợp
bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng theo qui định lại khoản 2 Điều 34 và
nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà". Điều đó đông
nghĩa với việc nếu bị cáo không yêu cầu thì vụ án vẫn được xét xử. Chúng tôi
tán thành với quan điếm cho rằng, "Giải quyết vấn đề quan trọng như vậy
không nên phụ thuộc vào sự mong muốn hoặc không mong muốn của bị cáo
là người có thể không hiểu hết được tính quan trọng của việc nghiên cứu bản
cáo trạng"(3).
Bị can, bị cáo được đưa ra chứng cứ và những yêu cẩu. Quyền đưa ra
chứng cứ được thực hiện bằng việc khai báo , giải thích, đưa ra tài liệu, vật
chứng và đề nghị điều tra viên, Viện kiểm sát và Toà án ihực hiện hỏi nhàn
chứng, tiến hành giám định và những hoạt động điều tra khác nhau nhằm làm
rõ vụ án.
Kể từ thời điểm Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị can trở thành
bị cáo, có quyền hỏi nhân chứng, giám định viên, bị cáo khác, tham gia xem
xét vật chứng và giải thích đối với lời khai của người làm chứng, giám định
viên, những bị cáo khác. Bị cáo có quyền bình đẳng với người buộc tội và
người bị hại trong khi trình bày và kiểm tra chứng cung ứng. Hội đồng xét xử
cần xem xét ý kiến đề xuất và trình bày của bị cáo.
Điều 10 Bộ ỉuật tố tụng hình sự qui định: "Không ai có thể bị coi là có
tội và chịu hình phạt khi chưa có bản kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật
Điều 11 Bộ luậí tố tụng hình sự qui định: "Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh là mình vô tội". Do vậy, lỗi phạm của bi
''' T iê n sĩ N g u y e n z V án Tuân: "Vai trò củ a luậi sư trong lô' tụng hìn h sự" N hà xuất bán Đ ại h ọ c q u ố c g ia Hà
N ộ i - 2 0 0 1 trang 2 1 .
12
can, bị cáo là do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chứng minh, còn bị
can, bị cáo dược coi là vô tội khi Tòa án chưa xác định là có tội.
Trường hợp bị can, bị cáo nhận tội nhung không đ ù ra những chứng cứ
phù hợp với sự nhận tội của họ, thì cơ quan tiến hành tố tụng không thể bắt
buộc buộc họ xiiát trình chứng cứ khắng định sự nhận tội mà phải tự mình
xác định sự thật của vụ án. Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự qui định . "Lời
phân tộicuầ bị can, bị cáo chỉ có thể đươc coi là chứng cứ, nếu phù hợp với
các chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo
làm chứng cứ duy nhất để kết tội".
Pháp luật cũng qui định nghĩa vụ của bị can, bị cáo phải có mặt theo
giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp vắng mặt
khồng có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải. Bị can, bị cáo không được đi
klioi nơi cu'trú ciPtrú của mình nếu không được phép của cơ quan đã áp dụng
biện pháp ngăn chặn. Bị can, bị cáo không được gây khó khăn cho công tác
điểu tra V.V...BỊ can, bị cáo phải chấp hành các quyết định của cơ quan tiến
hành tố tụng vể việc giám định pháp y, khám xét thân thể v.v... Trong những
trường hợp cần thiết bị can, bị cáo có thể bị đuhđến nơi tiến hành các hoạt
động điều tra, xét xử.
Trong các quyền của bị can, bị cáo quyền có ngươi bào chữa chiếm vị
trí rất có ý nghĩa. Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự qui định : "Bị can, bị cáo có
quvền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa".
Luật sư với toícách là người bào chữa của bị can, bị cáo có trách nhiệm
giúp đỡ họ về mặt pháp lý, đại diện lợi ích của họ ở giai đoạn điều tra, xét xử.
Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự là một phần quyền bào chữa
của bị can, bị cáo và đây chính là bảo đảm quan trọng để bị can, bị cáo thực
hiện các quyền tô tụng của mình.
Trong thực tế giải quyết án hình sự, sự tham gia của luật sư bào chữa
đã góp phần thúc đẩy công tác điều t i x é t xử được đầy đủ, chính xác, khách
quan và kịp thòi định đúng tội danh, áp dụng đúng hình phạt trên cư sỏ xem
xéi đến tất cả các tình tiết giảm nhẹ và tàng nộ^cúa vụ án.
13
Ví dụ : Phùng Thế Tài ơ Thanh Hóa là vị thành niên, sinh 7/10/1983,
phạm tội cướp tài sản do bị lủ lê. Tài bị toà án tỉnh Thanh Hóa xử vào
ngày21/8/1998 với mức án 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo (theo khoản
1 điểu 151 BLHS). Tính đến ngày xử thì bị cáo Tài ở độ tuổi;14 tuổi 10 tháng
Tháng 4 năm 1999 (lúc này Tài 15 tuổi 6 tháng), Tài phạm tội mua bán
trái phép 5 tép Heroin, bị án sơ thẩm của Toà án tỉnh Thanh Hóa xử phạt 7
năm tù giam và chuyển 30 tháng án treo của tội thành cũ thành tù giam, tổng
cộng hình phạt là 9 năm 6 tháng tù giam.
Tại phiên toà phúc thẩm, một vị thẩm phán giải thích với bị cáo rằng
án cũ dược xử treo là có chiếu cố, nay phạm tội mới nặng hơn là tái phạm
nguy hiểm, tội cũ xử án treo phải được chuyển thành tù giam.
Luật sư chứng minh lúc bị cáo phạm tội cũ còn đang ở độ tuổi vị thành
niên, do đó theo khoản 5 điều 59 Bộ luật hình sự thì không bị qui là tái phạm
hoặc tái phạm nguy hiểm.
Vị công tố viên trong phần tranh luận nêu rằng : án cũ 30 tháng tù cho
hưởng án treo chưa được xóa án, lại phạm tội mới nên phải chuyển án treo
của tội cũ thành tù giam cộng với tội mới thành hình phạt chung. Xét không
có tình tiết giảm nhẹ đề nghị y án sơ thẩn*.
Khi nêu quan điểm bào chữa cho bị cáo trong phần tranh luận tại phiên
toà phúc thấm, luật sư vận dụng khoản 5 điều 59 BLHS và khoản 2 điều 3
Nghị quyết của Quốc hội sô 32/1999/QH 10 ngày 21/12/1999, trong đó qui
định không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi vể tội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm tù, nếu vụ
án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ.
Qua phân tích và đề nghị của luật sư, Hội đổng xét chấp nhận cho bị
cáo Tài được tha miễn chấp hành 30 tháng tù vể tội cũ, nhưng tiếc rằng còn 7
năm tù về tội mói tòa phúc thẩm vẫn giữ nguyên.
Như vậy, trong quá trinh giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố,
diều tra, truy tố đến xét xử, việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là nguyên tắc, là điếu kiện quan trọng để bảo đảm cho việc xử lý án hình sự
theo linh thần đúng người, đứng tội, đúng pháp luật, không oaa sai.
14
1.2. Vị trí của luật sư trong tô tụng hình sự.
1.2.1. M ột sô qui định chung vé bào chữa trong tô'tụng hỉnh sự.
Như đã phân tích quyền bào chữa trong tố tụng hình sự thuộc về bị can,
bị cáo trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy vậy, còn có quan điểm cho
rằng "Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự thuộc cả người bị tình nghi phạm
lội, người bị tạm giữ và người bị kết á n " (4). Bị can, bị cáo sử dụng các biện
pháp do pháp luật qui định đế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước cơ
quan tiến hành tố tụng.
Nhưng trong thực tế, bị can, bị cáo thường là những người ít am hiểu
pháp luật, nên họ không thể thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả các
quyền được pháp luật qui định cho họ. Ví dụ, quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, quyền yêu cầu mới thêm
nhân chứng, quyển yêu cầu cho đối chất với nhân chứng v.v... Mặt khác bị
can, bị cáo kém xa người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán) về am hiểu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, để
đảm bảo quyền lợi của bị can, bị cáo pháp luật tố tụng hình sự qui định cho họ
quyền có người bào chữa.
Theo qui định tại Điểu 35 Bộ luật tố tụng hình sự, những người sau đây
cỏ ihể là người bào chữa:
- Luật sư
- Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo.
- Bào chữa viên nhân dân.
Khi được bị can, bị cáo mời hoặc được Đoàn luật sư cử theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa được cấp giấy chứng nhận để bào
chữa cho bị can, bị cáo.
Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo qui định của Pháp lệnh
luật sư năm 2001 và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật,
<4) TS. P hạm H ổ n g H ái "B ảo đ ả m q u y ề n b à o ch ữ a c ù a n g ư ờ i bị b u ộ c tội" N X B C ô n g an n h â n d â n H à N ộ i, Tr
125.
15
các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo qui định của pháp luật (khoản 1 Điều 1
Pháp lệnh luật sư năm 2001). Luật sư và người bào chữa không hoàn toàn
đồng nhất với nhau. Luật sư chỉ trỏ thành người bào chữa khi họ tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tiêu chuẩn và
điều kiện để có thể gia nhập Đoàn luậl sư được qui định tại Điều 8 Pháp lệnh
luật sư năm 2001, dó là:
a. Là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam
b. Có trình độ đại học Luật
c. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề Luật sư ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài
được pháp luậl Việt Nam công nhận, Irừ trường hợp được miễn Iheo qui định
tại Điều 9 Pháp lệnh luật sư năm 2001.
d. Có phẩm chất đạo đức tốt
đ. Không phải là cán bộ công chức theo qui định của pháp luật về cán
bộ, công chức.
"Bào chữa viên nhân dân được hiểu là người được tổ chức, đoàn thể xã
hội cử ra bào chữa cho bị can, bị cáo" (5). Như vậy, bất kỳ công dân nào được
các đoàn Ihể giới thiệu hoặc bị cáo lựa chọn và Tòa án chấp nhận đều có thể
trở thành bào chữa viên nhân dân.
Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đến nay, chưa có một văn bản
nào hướng dãn về hoạt động của bào chữa viên nhân dân. "Muốn bào chữa bảo
đảm đúng đắn, khách quan, trên cơ sớ qui định của pháp luật và thực sự có tác
dụng, người bào chữa phải có năng lực thực sự, trong đó quan trọng là hiểu
biết về pháp luật, hiểu biết bị can, bị cáo. Cho nên, việc cơ quan, đoàn thể giới
thiệu một người bất kỳ làm bào chữa viên nhân dân thành một tổ chức ổn
định không căn cứ vào từag vụ án cụ thể phần nào mang tính hình thức, chua
đi vào thực chất và tất nhiên sẽ hạn chế về kết quả"(6).
L ẽ K im Q u ẽ " N h ư n g d ié u c á a b iế l vé d ié u tia , lu y ló , x é t x ử và thi hành án". N X B P h áp lý 1 9 8 9 , trang 17.
Trần V ă u Đ ộ " N g u y ê n tắc b ả o đ ả m q u y ề n b à o ch ữ a cù a bị c a n , bị c á o [rong tô' lụ n g h ìn h sự", tạp c h í
TAND
số
9 /1 9 9 2 trang 11.
16
"Kể từ khi có pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 thì tổ chức bào chữa
viên nhân dân không còn tồn tại và xu thế chung pháp luật cũng không thừa
nhận tổ chức này được tồn tại và hoạt động. Vì vậy, đề nghị Nhà nước nên bỏ
khoản
c Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự" (7). Chúng tôi cho rằng ý kiến đó là
hợp lý do sự phát triển về số lượng và chất lượng của đội ngũ luật sư bào chữa
hiện nay, từng bước đáp ứng yêu cầu xã hội về việc bào chữa cho bị can, bị
cáo.
Người đại diện hợp pháp củạ bị can, bị cáo cũng có thể tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can,
bị cáo. Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo có thể là cha, mẹ người
giám hộ, anh, chị, em ruột đối với những trường hợp bị can, bị cáo là người
chưa ihành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thẩn, không
thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ do luật định.
Trong thực tế, việc bào chữa bảo vệ quyển lợi hợp pháp cho bị can, bị
cáo do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện cũng rất ít mà chủ yếu là do
luật sư bào chữa thực hiện.
Để việc bào chữa được bảo đảm khách quan và có hiệu quả, Điều 35 Bộ
luật lố lụng hình sự qui định những người không được bào chữa, đó là:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó hoặc người thân thích của
những người này;
- Người tham gia tố tụng trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch;
Một người có thể bào chữa cho nhiều bị can, bị cáo cùng một vụ án nếu
quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người có thể bào chữa cho
một bị can, bị cáo.
Theo khoản 4 Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa dù là
luật sư, bào chữa viên nhân dân hay người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
í7) Đ à m Đ ìn h Đ ịn h "Thực trạng qu a h oại d ộ n g lố tụng hìn h sự c ù a luật sư H à Bấc", T ạp c h í T A N D ; s ố
1 0 /1 9 9 6 trang Í9.
17
đều phải được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chấp nhận, cấp
giây chứng nhận người bào chữa trong vụ án để họ thực hiện nhiệm vụ bào
ui lũa. Ciiúng tôi đồng tình với ý kiến cho rằng "Việc cấp giấy chứng nhận chỉ
nên áp dụng đối với người bào chữa không phải là luật sư" (8) bởi vì mỗi khi
phap luật cho phép luật sư bình đẳng với người buộc tội khi xem xét và đánh
giá chứng cứ trong vụ án thì không có lý do gì bắt họ phải phụ thuộc ý chí của
cơ quan tố tụng cho phép hoặc không cho phép họ tham gia bào chữa cho bị
can, bị cáo mỗi khi bị can, bị cáo mời họ hoặc họ được đoàn luật sư giới thiệu
báo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo theo án chỉ định, phù hợp
với qui định của pháp luật qui định tại khoán 2 Điều 37 Bộ luật lố tụng hình
sự, đó là các trường hựp:
- Bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung phạt
có mức cao nhất là tứ hình được qui định tại Bộ luật Hình sự.
- Bị can, bị cáo là người chưa Ihành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần.
Theo qui định tại khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố lụng hình sự, trong trường
hợp qui định tại điểm a và b, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ
vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ mới qui định về sự thay đổi, từ chối
ngiời bào chữa trong trường hợp người bào chữa tham gia tố tụng là bắt buộc.
Cc ý kiến cho rằng, "Bị can, bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi, từ chối luật sư
Ircng bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Bị can, bị cáo trong bất cứ
thời điểm nào của quá trình tố tụng có quyền từ chối luật sư, mời luật sư khác
hoẬc tự bào chữa"(9). Đó là ý kiến mà chúng tôi cho là hợp lý và thỏa đáng, vì
rằng giữa luật sư và bị can, bị cáo có mối quan hệ nhất định. Luật sư xuất hiện
lK‘ 'IS. N g u y ẻ n V ãn T uân "Vai u ò c ù a luậi sư iron g lố lụ n g hìn h sụ" N X B Đ ạ i h ọ c Q u ố c g ia H à N ộ i 2 0 0 1 ,
ir a ig 34~
í9) 7S. N g u y ề n V ãn T uân "Vai trò c ù a luậi sư trong lô' tụng hìn h sự", N X B Đ ạ i h ọ c Q u ố c g ia H à N ộ i 2 0 0 1 ,
tiaig 38'
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUÂT HÀ NÔI
PHÒNG ĐỌC t o y ý h
18
trong tô tụng theo ý muốn và yêu cầu của bị can, bị cáo, luật sư cũng sẽ chấm
dứt hoạt dộng của mình nếu như bị can, bị cáo mong muốn như vậy.
Như vậy, mối quan hệ giữa người bào chữa và bị can, bị cáo chỉ xuất
hiện ở một trong hai trường hợp: Hoặc là bị can, bị cáo mời người bào chữa
cho họ và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp thuận, hoặc là cơ quan tiến
hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư cử thành viên của mình để bào chữa cho bị
can, bị cáo và được họ đồng ý (nếu họ đã thành niên). Do đó cả hai trường hợp
nêu trên thì ý chí của bị can, bị cáo luôn là yếu tố quyết định có hay không có
người bào chữa nong tô tụng hình sự.
Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự cho dù được mời
hay được cử thì cũng chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị
can, bị cáo. Từ đó, có thể khẳng định việc thực hiện bào chữa cho bị can, bị
cáo là trách nhiệm và nghĩa vụ của người bào chữa. Trách nhiệm, nghĩa vụ
này tồn tại trên cơ sở thỏa thuận giữa bị can, bị cáo và người bào chữa dưới
dạng một hợp đồng dân sự.
1.2.2.
Vị trí của luật su' - người bào chữa cho bị can, bị cáo trong tô
tụng hình sự.
Luật sư trong tố tụng hình sự có vai trò tích cực thúc đẩy việc bào chữa
cho bị can, bị cáo thông qua việc thực hiện chức năng tố tụng hình sự của
mình một cách đầy đủ là có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật qui
định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo, giúp bị can, bị cáo về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Luật sư không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã
đám nhận, nếu không có lý do chính đáng. Sự tham gia của luật sư là một
trong những báo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Hiện nay, còn lổn tại nhiều quan điểm khác nhau về vị trí của luật sư
Irong lố tụng hình sự, thể hiện:
-
Quan cliểin 1: Một sô' người cho ràng luật sư là người bào chữa, là
người Iham gia tố lụng độc lập.
19
- Quan điểm 2: Luật sư trong tố tụng hình sự là người đại diện của bị
can, bị cáo.
- Quan điểm 3: Luật sư là chủ thể độc lập trong tố tụng, luật sư đồng
thời là người đại diện cho lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
- Quan điểm 4: Vị trí tố tụng của luật sư như là người đại diện của bị
can, bị cáo và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho họ, và một số quan điểm khác.
Với những lý do khá thuyết phục khi lý giải, luật sư có nhiều quyền
trong việc xuất trình và nghiên cứu chứng cứ, luật sư có quan hệ ngang bằng
với người buộc tội, luật sư có những phong cách, bước đi do họ xác định và
không một điểu Ira viên, kiểm sát viên, thẩm phán, cơ quan quản lý luật có
quyền bắt luật sư phải hành động như thế này hoặc như thế khác đối với từng
vụ án cụ thể. Mặl khác, quyền và nghĩa vụ của luật sư được pháp luật lố tụng
hình sự qui định một cách rõ ràng và đầy đủ. Có người cho rằng: "Luật sư lẽ dĩ
nhiên là một chủ thể độc lập trong tố tụng"(l0).
Phản bác lại ý kiến một số tác giả dựa vào qui định của pháp luật thực
định cho "người bào chữa quyền tự mình được kháng cáo bản án theo hướng
có lợi cho bị cáo khi bị cáo là người chưa thành niên, ngưòi có nhược điếm về
thể chất hoặc tâm thần để coi người bào chữa là người tham gia tố tụng độc
lập"(ll), có người lại cho rằng: "Không thể coi người bào chữa là người tham
gia tố tụng độc lập. Bởi vì xuất phát từ ý thức chủ quan của mình, người bị
buộc tội có thể từ chối người bào chữa ở bất cứ giai đoạn nào của tố tụng nếu
họ thấy sự iham gia của người bào chữa không làm tốt hơn hoặc làm xấu đi
tình trạng của họ. Vì vậy, không thể coi người bào chữa là người tham gia tố
tụng độc lập"(l2).
Chúng tôi cho rằng, những quan điểm của các tác giả nêu trên là rất
xác đãng và khá thuyết phục, luy nhiên mỗi người có cách nhìn vấn đề ở khía
ll"'T S. N g u y ê n V ãn T uân "Vai trò c ù a luật sir trong lố lụ n g hìn h sự" N X B Đ ạ i h ọ c Q u ố c g ia H à N ộ i 2 0 0 1 ,
trang 34.
1111 N g ỏ H ư ớ n g Đ à m vê q u y ền b à o ch ữ a c ủ a bị c á o , T ạp c h í Luật h ọ c s ò 3 - 1 9 9 7 ,11 2 6 , 2 7 .
ll2) P h ạm l lồ iig H ái "Báo đ ảm q u y ề n b ào ch ữ a c ù a n gư ờ i bị b u ộc tội", N X B C ố n g an nhân dãn H à N ộ i 1 9 9 9 ,
trang 129.
20
cạnh khác nhau và hơn nưa đây là một trong những vấn đề rất phức tạp và thời
sự của lý luận và thực tế trong tố tụng hình sự.
Do vậy, muốn xác định vị trí của luật sư bào chữa cần phải xuất phát từ
việc làm rõ mối quan hệ giữa Luật sư và bị can, bị cáo mà luật sư có trách
nhiệm bảo vệ và mối quan hệ giữa luật sư bào chữa với các cơ quan tố tụng
hình sự đang tiến hành vụ án đó, đặc biệt là với Toà án.
Đúng là luật sư đại diện quyền lợi cho bị can, bị cáo giúp đỡ họ về mạt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên, quan
hệ giữa luật sư và bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự khác xa với quan hệ giữa
luật sư và đương sự khi luật sư là người đại diện cho đương sự trong tố tụng
dân sự:
Thứ nhất: Trong tố tụng hình sự luật sư bào chữa không thay mặt bị
can, bị cáo, mà hợp tác cùng bị can, bị cáo. Họ không thay mặt nhau mà là bổ
sung cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong tố tụng dân sự, luật sư là đại diện có quyền thay mặt đương sự để
g i ả i q u y ế t v ụ án d â n sợ.
H ai là: Trong tố tụng hình sự luật sư không thay bị can, bị cáo, Luật sư
có quyền và nghĩa vụ của luật sư. Bị can, bị cáo có quyền riêng của họ. Tuy
nhiên họ có cùng mục đích là "gỡ tội" cho bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không
có quyền bắt buộc Luật sư chịu chung hậu quả từ việc Luật sư không thực
hiện trách nhiệm tố tụng của mình khi sử dụng phương tiện và phương pháp
khi sử dụng phương tiện và phương pháp bào chữa của mình được pháp luật
quy định. Ví dụ: Luật sư không thực hiện những hành vi mà luật sư cho là trái
pháp luật theo yêu cẩu của bị can, bị cáo.
Trong tố tụng dân sự, người đại diện thông quạ hành vi của mình trực
tiếp thiết lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của người
mà luật sư đại diện (Điều 148 Bộ luật dân sự).
Ba là: Trong tố tụng hình sự Luật sư không có quyển từ chối bào chữa
cho bị can, bị cáo mà Luật sư đó đảm nhận.
21
Trong tố tụng dân sự, người đại diện trong bất kỳ thời điểm nào đều có
quyền từ chối việc đại diện cho người được đại diện.
Theo qui định của pháp luật, luật sư bào chữa tham gia tố tụng hình sự
chỉ khi có sự đổng ý của bị can, bị cáo và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp
thuận.
Có luật sư cho rằng, vị trí tố tụng của luật sư như là người đại diện của
bị can, bị cáo. Khi bác lại ý kiến nêu trên, có người cho rằng nếu thừa nhận
luật sư là người đại diện cho bị can, bị cáo có nghĩa là trong quá trình hình
thành con dường bào chữa, luật sư phải gắn bó với ý chí của bị can, bị cáo và
bắt buộc phải ủng hộ tất cả những gì bị can, bị cáo nói và làm. Nhưng lập luận
như vậy là không đúng và không có cơ sở.
Tuy vậy, vị trí độc lập của luật sư không nên hiểu bằng từ ngữ cứng
nhắc và khẳng định rằng luật sư không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo.
Chúng ta không thể nói về sự độc lập của luật sư đối với bị can, bị cáo.
Bởi vì, chỉ khi tồn tại sự mong muốn của bị can, bị cáo thì luật sư mới được
tham gia vào tố tụng hình sự. Mặt khác, trong bất cứ thời điểm nào, bị can, bị
cáo đều có quyền từ chối luật sư cả trong giai đoạn điều tra và cả trong giai
đoạn xét xử.
Như đã rõ, lời của bị can, bị cáo chỉ được Tòa án xác định trong các bản
án. Có luật sư cho rằng vị trí độc lập của luật sư trong tố tụng hình sự đã đặt
luật sư ngang bằng với cơ quan tiến hành tố tụng cả trong trường hợp quyết
định bị can, bị cáo có lỗi hay không có lỗi trước khi Tòa án xác định lỗi của bị
cáo do luật sư bảo vệ. Từ đó luật sư lựa chọn quan điểm bào chữa cho bị cáo.
Không thể đồng ý với ý kiến vừa nêu, bởi vì pháp luật cấm. Luật sư
chuyển sang quan điểm buộc tội chính bị can, bị cáo và luật sư đó có trách
nhiệm bảo vệ. Một luật sư không được bào chữa cho nhiều người khi quyển lợi
giữa họ trái ngược nhau. Luật sư trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không có
quyền buộc tội bị can, bị cáo do mình có trách nhiệm bảo vệ. Ngoài ra, những
quan điểm của luật sư chưa hẳn đã trùng với kết luận của Tòa án.