Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Thừa kế theo pháp luật của công dân việt nam từ năm 1945 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.36 MB, 209 trang )

€ LUẬT
ĩf§&£

s?t *

Xv

T

.

- .*

-

•:

; P I Ị p G tR G N .ĨT Ầ f




LỜI CAM ĐOAN

I

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các sô' liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của ìuận án chưa từng được ai
công b ổ trong bất kỳ công trình nào khác.



TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phùng Trung Tập


M ỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

THỪA KẾ VÀ NHŨNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT

7

THỪA KẾ Ở VIỆT NAM

l .L

Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế

1.2,

Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam

1.3-.


/Tổng quan về các quy định thừa kế theo pháp luật ở nước ta
í từ năm 1945 đến nay
Chương

2: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA CÔNG DÂN

33,

45

VIỆT NAM

2.1-

Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

45

2X

Diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật

52

2.%

Di sản thừa kế và việc xác định di sản thừa kế theo pháp luật

107


2Jầ

Những người không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật

142

2J.

Thừa kế thế vị

154

Chương 3:

164

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT NHŨNG TRANH CHẤP
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỂ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

3.1. Thực trạng giải quyết những tranh chấp về thừa kế theo

164

pháp luật
3.2. Nhũng vướng mắc trong việc thi hành và áp dụng các quy

177

định thừa kế thec pháp luật trong Bộ luật Dân sự

3.3. Những đề xuất về hướng hoàn thiện các quy định về thừa kế

183

theo pháp luật
KẾT LUẬN

197

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC

200

CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

201


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1. BLDS

: Bộ luật dân sự

2. DLB

: Dân luật Bắc Kỳ

3. DLT


: Dân luật Trung Kỳ

4. HN&GĐ

: Hôn nhân và Gia đình

5. PLTK

: Pháp lệnh thừa kế

6. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7. TAND

: Tòa án nhân dân

8. TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


1

M Ở ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản

ccủa cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế;
mgười thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc
ttheo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ chế
(độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các
(Chế định pháp luật nói chung và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất
(Chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong
quá trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng.
ở nước ta, từ năm 1945 đến nay pháp luật thừa kế được xây dựng và
hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), theo đó
quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tinh
hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền
thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo pháp luật nói riêng của công dân Việt
Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào
thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Xét riêng về diện thừa
kế, thì quyền thừa kế của cổng dân Việt Nam được mở rộng tương ứng vói
quan điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hom đối vói mối quan hộ giữa ngưòi có
tài sản để lại và những người thừa kế.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều
chủ trương, đường lối nhằm đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần; nhiều hình thức sở hữu được thừa nhận như một quy luật tất
yếu, trong đó hình thức sở hữu tư nhân đã có được vị trí quan trọng. Việc thực
hiện tốt các chủ trương, đường lối đó đã tạo thêm cơ sở cho sự phát triển
quyền thừa kế của công dân Việt Nam.


2

Các đạo luật cơ bản (Hiến pháp) từ năm 1946 đến nay đều thể hiện
mguyên tắc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
'dân. Pháp luật về thừa kế từ năm 1945 đến nay đã nhất quán trên nguyên tắc

‘Cơ bản này và đã điềụ chỉnh kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế, cũng
inhư tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ
'quy định về thừa kế đã chiếm số lượng điều luật đáng kể, nhung trong quá trình
ắp dụng những quy định này ữong thực tiễn cũng như trong việc giải quyết
những tranh chấp về thừa kế..., vẫn tồn tại không ít khó khăn, vướng mắc. Hàng
năm có hàng ngàn vụ án kiện về thừa kế mà Tòa án nhân dân (TAND) các cấp
phải giải quyết, nhưng pháp luật về thừa kế và những quy định pháp luật khác
liên quan đến thừa kế chưa thật sự đồng bộ và thống nhất, vì thế nhiều vụ tranh
chấp thừa kế đã phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Nhiều bản
án, quyết định của Tòa án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Từ thực trạng
này, việc lựa chọn vấn đề "Thừa k ế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ
năm 1945 đến nay" để nghiên cứu và thực hiện đề tài luận án tiến sĩ luật là
đáp ứng được yêu cầu về tính cấp thiết trong lý luận và trong thực tiễn thi
hành, áp dụng pháp luật.
Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định, cũng từ việc nghiên cứu đề
tài này nhằm làm sáng tỏ thêm vấn đề về hiệu lực điều chỉnh cũng như về việc
hoàn thiện các quy phạm pháp luật về thừa kế ở nước ta.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
2.1. M ục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài "Thừa k ế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ năm 1945 đến nay'' nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản tuân theo
các nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, mà không


3

phụ thuộc vào sự định đoạt ý chí của người có tài sản để lại. Đó chính là việc
vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình
hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu

quả điều chỉnh của chế định pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã
hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với
chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận
cũng giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về thừa
kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Xây dựng các khái niệm thừa kế, khái niệm quan hệ pháp luật thừa kế,
khái niệm quyền thừa kế và khái niệm thừa kế theo pháp luật... Phân tích, lập
luận để làm rõ quá trình xây dụng và phát triển những qui định pháp luật thừa
kế ở nước ta từ năm 1945 đến nay để đánh giá nội dung những qui định về
thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển
trong hơn 50 năm qua.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của để tài
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm
pháp luật Viột Nam về thừa kế theo pháp luật và thừa kế nói chung từ năm
1945 đến nay. Do mức độ phức tạp trong lĩnh vực thừa kế nói chung và vấn đề
thực tiễn của nước ta nói riêng, trong bản luận án này không thể đề cập và giải
quyết được vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Cùng với việc
nghiên cứu các quy phạm pháp luật, trong bản luận án cũng đề cập và phân
tích thực tiễn thi hành và áp dụng các quy phạm thừa kế theo pháp luật, nhất là
thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế trong ngành TAND. Ngoài ra, khi
phân tích các quy định cụ thể, cũng đề cập đến một số quy định tương ứng
trong pháp luật một số nước để so sánh và đưa ra những kết luận, kiến nghị có
tính tham khảo nhất định.


4

3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế theo pháp luật vừa là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử

hình thành và phát triển khá phong phú. Chế định thừa kế nói chung và thừa
kế theo pháp luật nói riêng được qui định trong Bộ luật Dân sự (có hiệu lực từ
ngày 01-7-1996) đã hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
khoa học về thừa kế theo pháp luật cũng không nhiều. Một số bài nghiên cứu
đăng trên các tạp chí, trên các báo... mổi chỉ dừng ở mức độ trả lời các câu hỏi
về áp dụng pháp luật vào quan hệ thừa kế cụ thể hoặc mới chỉ tập trung vào
một số khía cạnh như: v ề thời điểm mở thừa kế, về điều kiện của những ngưòi
được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, về quyền thừa
kế của người con nuôi hay phân tích một tranh chấp để xác định chủ thể
hưởng di sản thừa kế theo pháp luật, vấn đề thừa kế thế vị hoặc xác định người
không được thừa kế theo pháp luật...
Vấn đề thừa kế nói chung còn được nghiên cứu khái quát ở một số
sách chuyên khảo có tính chất phổ thông, như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật
về thừa k ể ' của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về pháp luật thừa k ê của Tiến
sĩ Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền... Ngoài ra, trong thời gian qua
đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc sau đại học, các luận vãn thạc sĩ của
tác giả Nguyễn Thi Vĩnh về "Thừa k ế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Bắc về "Vấn đề thừa kế theo
pháp luật ỏ Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Tuấn về "Những
qui định chung vế quyền thừa k ế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam", luận văn
thạc sĩ của Đinh Thi Duy Thanh về "Chế định thừa k ế trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam ", luận văn thạc sĩ của Chế Mỹ Phương Đài về "Thừa k ế theo pháp
luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"... Nhìn chung, những công trình nghiên
cứu của các tác giả nói trên chủ yếu mới dừng ở phạm vi phân tích các quy
định trong Pháp lệnh thừa kế (PLTK) năm 1990 hay phân tích các quy định
trong BLDS.


5


Việc chọn đề tài "Thừa k ế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ
năm 1945 đến nay” để làm luận án tiến sĩ luật không có sự trùng lặp nào đối
với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Với đề tài liên quan đến một chế định pháp luật dân sự quan trọng
mang đậm bản chất giai cấp và có tác động đến chế độ kinh tế - xã hội, đồng
thời có liên quan đến một giai đoạn lịch sử dài và có nhiều biến đổi hơn
50 năm qua, do đó việc tiếp cận nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận án này
phải dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép
biện chứng lịch sử và biện chứng duy vật gắn với thực tiễn Việt Nam trên cơ
sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng về Nhà nước
và pháp luật.
Một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành cũng đã được
sử dụng hợp lý trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, như phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê... để làm sáng tỏ các vấn
đề được đặt ra và giải quyết trong luận án.
5. Những đóng góp mới của ỉuận án
Việc nghiên cứu đề tài: "Thừa k ế theo pháp luật của công dán Việt
N am từ năm 1945 đến nay" trong bản luận án này có được những điểm mới
sau đây:
-

Xây dựng và hoàn thiện các khái niệm như: Thừa kế, quan hộ pháp

luật thừa kế, quyền thừa kế, thừa kế theo pháp luật... nhằm minh chứng tính
đặc thù của thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng, từ đó góp
phần vào việc hoàn thiện hơn khoa học luật trong lĩnh vực thừa kế nói riêng và
trong lĩnh vực dân sự nói chung;



6

- Hệ thống hóa những quy định thừa kế theo pháp luật về từng vấn đề
lớn cụ thể qua các giai đoạn lịch sử để phân tích và đưa ra những nhận định
làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế nói chung và
thừa kế theo pháp luật nói riêng ở nước ta từ nãm 1945 đến nay;
- Phân tích, làm sáng tỏ quyền thừa kế theo pháp luật của công dân
Việt Nam từ nãm 1945 đến nay được củng cố, mở rộng và bảo vệ trong mối
liên hệ hữu cơ vói quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta qua mỗi giai
đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, từ đó xác định được tầm quan trọng của
chế định pháp luật này trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta;
- Từ lý luận và phân tích hiệu quả điều chỉnh các quy định thừa kế
theo pháp luật trong thực tiễn, có phát hiện những quy định thiếu tính khái
quát, tính đồng bộ, toàn diện đang tồn tại, kể cả một số quy định trong BLDS;
đưa ra những kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung một số điều (các Điều
645; 673; 680; 682...) và một số vấn đề khác chưa được qui định cần được bổ
sung như: Quyền của các chủ nợ của người để lại di sản và của ngưòi thừa kế
di sản...) trong BLDS cho phù hợp, có hiệu lực cao và lâu dài trong đời sống
xã hội.
- Đây là công trình đầu tiên trong lý luận khoa học luật giải quyết vấn
đề thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
6.Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
có 3 chương, 11 mục.


7

Chương 1

THỪA KÊ VÀ NHŨNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT THỪA KẾ
Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ VÀ QUYỂN THỪA KẾ

1.1.1. Khái niệm thừa kế
1 Thừa kế di sản theo quan hộ pháp luật dân sự chính là sự chuyển địch
tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức
có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được
hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Cho dù tài sản do người chết để lại
thuộc về cá nhân hay tổ chức được hưởng thừa kế..., thì nó vẫn tổn tại chung
cho xã hội, vì khi tài sản này lại được sử dụng, khai thác hợp lý cũng mang lại
hiệu quả kinh tế không chỉ đối với người được hưởng thừa kế, mà còn có lợi
chung cho toàn xã hội. Ị
Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ
khai của xã hội loài người. Cũng chính từ thời kỳ sơ khai đó, sở hữu và thừa kế
đã xuất hiện như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù
kinh tế, giữa chúng có mối liên quan ràng buộc, qua lại với nhau.
Ngay từ thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ thị tộc,
bộ lạc đã hình thành và tài sản có được thuộc về quyền chung của thị tộc, bộ
lạc thì thừa kế cũng đã manh nha hình thành theo tập tục. Trong giai đoạn đầu
của chế độ thị tộc, bộ lạc, vai trò của người phụ nữ có tầm quan trọng đáng kể,
địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, bộ lạc chi phối mọi vấn đề về
kinh tế, xã hội, hôn nhân... Chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã tạo ra tiền đề
cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc trong thị tộc,
bộ lạc của người mẹ. Ph.Ảngghen đã nhận xét: "Theo chế độ mẫu quyền,
nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế
nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết.



8

Tài sản phải để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao cho
những người cùng huyết tộc với người mẹ" [1, tr. 79].
Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hộ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài
sản theo huyết thống. Hiện nay, ở Việt Nam và ở nhiều nước trên thế giới vẫn
còn tồn tại một bộ phận dân cư (tuy rất nhỏ) vẫn duy trì việc thừa kế tài sản
theo huyết thống của người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với sự phân công lao động
trong xã hội và gia đình, người đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi sống các
thành viên trong thị tộc, bộ lạc đã làm thay đổi quan hệ xã hội. Sự thiết lập địa
vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc, bộ lạc đã là căn cứ
sắp xếp lại trật tự của thị tộc, bộ lạc. Khi người đàn ông đã chiếm vị trí chủ
đạo trong đời sống xã hội, thì chế độ mẫu hệ đã bị thay thế bằng chế độ phụ
hệ. Cũng từ căn cứ đó, các con trong gia đình có quan hệ huyết thống với
người cha, mang họ của cha theo chế độ phụ hệ và thừa kế tài sản của người
cha được xác lập. Như vậy, tương ứng với từng giai đoạn lịch sử phát triển
nhất định là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình..., của
sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi.
Tóm lại, trong thòi kỳ đầu của xã hội loài người - thời kỳ Nhà nước
chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời, thì sở hữu và thừa kế tài sản đã xuất
hiện như một tất yếu khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh tế. Mối quan
hệ giữa sở hữu và thừa kế phát sinh trong xã hội rất mật thiết và được thể hiện
ở chỗ: Nếu sở hữu là yếu tố tiến đề để thừa kế phát sinh, thì ngược lại, thừa kế
lại là phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là
một thực tế xã hội được thể hiộn ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho
người còn sống, nó gắn chặt vói lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng
họ..., vì thế trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có sự tác động của các quy
tắc xã hội. Quy tắc đó được biểu hiện ở những yếu tố như phong tục, tập quán

và cao hơn nữa là quy phạm pháp luật.


9

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày càng
được làm ra nhiều hơn, không những bảo đảm cho sinh hoạt và đời sống của
cộng đổng thị tộc, bộ lạc, mà còn có dư thừa. Từ khi có của cải dư thừa, đời
sống trong mỗi gia đình và trong xã hội đã có nhiều sự thay đổi và theo đó
trong mỗi thị tộc, bộ lạc người có địa vị đã lợi dụng chức phận để chiếm đoạt
một phần sản phẩm của thị tộc, bộ lạc cùng với sự nắm quyền điều hành thị
tộc, bộ lạc. Những người nắm quyền đó đã trở thành những người giàu có
trong xã hội và xã hội nguyên thủy đã bắt đầu tan rã, nhường chỗ cho xã hội
mới - xã hội có giai cấp đã xuất hiện. Sự phân hóa này về cơ bản dựa theo mức
độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà các tầng lớp ngưòi trong xã hội chiếm hữu
được khác nhau, từ đó hình thành nên chế độ tư hữu về tài sản, mà chủ yếu đối
với tư liệu sản xuất. Hình thức thừa kế phù hợp với chế độ tư hữu tài sản được
hình thành. Hình thức thừa kế tư hữu tài sản đã xuất hiện như một tất yếu, nó
đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hộ tài sản và quan hệ thừa kế tài sản.
Khi giai cấp đã xuất hiện, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị trị,
đương nhiên đối kháng giai cấp trong xã hội là điều không tránh khỏi. Những
trật tự trong quan hệ sở hữu tài sản nói chung và trong quan hộ thừa kế nói
riêng được Nhà nước của chế độ tư hữu thiết lập trong giai đoạn này nhằm
mục đích bảo vệ những lọi ích của giai cấp thống trị. Thồng qua những quy
phạm pháp luật, Nhà nước điều chỉnh quan hộ thừa kế trong việc xác định
phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản thừa kế và
những vấn đề khác có liên quan đến việc thừa kế tài sản.
Cùng với sự hình thành và phát triển nhà nước và pháp luật của chế độ
tư hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Chế độ tư hữu tài sản là tiền đề của chế định

thừa kế, ngược lại chế định thừa kế là cơ sở để củng cố chế độ tư hữu tài sản.
Như vậy, giữa chúng có mối liên hệ ràng buộc theo nhũng chuẩn mực pháp
luật nhất định và mang bản chất giai cấp sâu sắc.


10

Thừa kế là phạm trù pháp luật có tính khả biến. Tính khả biến được thể
hiện bằng các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này không những phụ
thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là cũng
có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Thừa kế
khi đó không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp luật, mà còn mang
tính lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo từng giai đoạn
phát triển nhất định.
Với những phân tích trên đây, có thể xác định rằng, thừa kế tài sản là
phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát
triển kinh tế - xã hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và
phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản (từ
chế độ chiếm hữu nô lộ đến xã hội hiện đại ngày nay) được thể hiện ở sự
chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống (bao gồm cá nhân, tổ
chức) theo các nguyên tắc, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm quan hệ pháp luật thừa kế
Viộc chuyển dịch tài sản của cá nhân người đã chết cho nhũng người
còn sống luôn tổn tại quan hệ giữa người với người. Khi thừa kế tài sản chưa
có sự can thiệp của Nhà nước (trong xã hội cộng sản nguyên thủy), thì đó chỉ
đơn thuần là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Quan hệ thừa kế xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của quan hệ sờ hữu và cùng phát triển theo sự phát triển
của xã hội loài người. Nhung khi quan hộ thừa kế tài sản đã do Nhà nước điều
chỉnh bằng pháp luật, thì quan hộ giữa người với người trên cơ sở tài sản của

người chết để lại là những mối quan hệ pháp luật và là mối quan hộ pháp luật
dân sự.
Trong lý luận khoa học pháp luật dân sự, quan hộ pháp luật dân sự
được xác định là nhóm các quan hệ xã hội do pháp luật dân sự điều chỉnh.
Như vậy, theo phương pháp suy diễn lôgíc, có thể hiểu: Quan hệ pháp luật


11

thừa kế là nhóm các quan hệ xã hội phát sinh trên cơ sở chuyển giao tài sản
của người chết để lại cho những người còn sống do pháp luật thừa kế (hay
rộng hơn là pháp luật dân sự) điều chỉnh.
Ở nước ta, sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ thừa kế có
những diễn biến, thay đổi phức tạp vì chính quá trình hình thành và phát triển
pháp luật dân sự phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua từng
thời kỳ. Tuy nhiên, dù khi quan hộ thừa kế được điều chỉnh bằng văn bản dưới
luật (Sắc lệnh, Thông tư, Pháp lộnh...) hay bằng văn bản pháp luật chính thức
(Bộ luật Dân sự), thì quan hộ pháp luật thừa kế vẫn giữ nguyên được nội hàm
của nó. Điều đó thể hiện ở căn cứ phát sinh (sự kiện chết của một cá nhân);
điều kiện phát sinh (người chết có tài sản để lại, có người thuộc diện thừa kế
hay có cá nhân, tổ chức được chỉ định hưởng di sản theo di chúc) và điều kiện
xác lập quan hệ thừa kế tài sản (tài sản của người chết để lại phải còn vào thời
điểm mở thừa kế, người thừa kế phải thực hiện quyền thừa kế của họ...).
Khi nghiên cứu để đưa ra khái niệm quan hộ pháp luật thừa kế, có
quan điểm cho rằng: "Thừa kế là một loại quan hệ sở hữu" [67, tr. 8]. Để có
thể thống nhất trong lý luận khoa học khái niệm quan hộ pháp luật thừa kế,
thiết nghĩ cũng cần phân tích thêm để làm sáng tỏ vấn đề này.
Trong khoa học cũng như trong pháp luật đã xác định, thừa kế là sự
chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống, do đó quan hệ pháp
luật thừa kế chỉ phát sinh từ thời điểm người để lại di sản chết hoặc được xác

định là đã chết theo một bản án cùa Tòa án tuyên bố một người là đã chết có
hiệu lực pháp luật (thời điểm mở thừa kế). Quyền của người có tài sản để lại
(kể cả trong trường hợp có di chúc) và quyền của người thừa kế (nhận hay
không nhận di sản) chỉ có giá trị pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế. Quyền
nhận di sản cùa người thừa kế chỉ là căn cứ phát sinh quyền sở hữu đối với di
sản mà người đó được hưởng, nếu họ quyết định nhận di sản. Đặc biệt, xét
trong trường hợp người chết không có tài sản để lại hoặc tài sản của người


12

chết để lại đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người đó không còn lại gì,
dù người thừa kế có thực hiện quyền thừa kế do pháp luật quy định (nhận thừa
kế) chăng nữa, thì cũng không phát sinh quan hộ thừa kế nào. Vậy, thừa kế
không phải là một loại quan hệ sở hữu, mà nó chỉ là một loại quan hệ pháp
luật dân sự độc lập với quan hệ sở hữu tài sản.
Khi quan hệ pháp luật thừa kế đã được xác định là nhóm các quan hộ
xã hội phát sinh trên cơ sở chuyển giao tài sản của người chết để lại cho
những người còn sống do pháp luật về thừa kế (hay rộng hơn là pháp luật dân
sự) điều chỉnh, thì cũng theo phép suy diễn lôgíc có thể xác định quan hộ thừa
kế theo pháp luật là nhóm các quan hệ thừa kế được xác lập trên cơ sở chuyển
giao tài sản của người chết để lại cho những người còn sống theo hàng thừa kế
do pháp luật quy định. Như vậy, quan hệ thừa kế theo pháp luật xác định rõ
thành phần chủ thể (phía người nhận di sản thừa kế) là những người còn sống
được pháp luật về thừa kế quy định (theo diện và hàng thừa kế).
1.1.3. Khái niệm quyền thừa kế
Khi chế độ tư hữu xuất hiện, cùng với nó xã hội phân chia thành giai
cấp, Nhà nước và pháp luật ra đời. Nhà nước đã điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo ý chí của giai cấp thống trị, trong đó quan hệ thừa kế không nằm ngoài
phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Như vậy, để phát sinh quan hệ pháp luật

thừa kế, khái niệm quyền thừa kế mới xuất hiộn.
Nếu thừa kế là nhóm những quan hệ xã hội phát sinh ngay cả trong
một xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có Nhà nuớe và nó mang tính kinh tế tài sản, thì quyền thừa kế chỉ có thể phát sinh trong một xã hội có Nhà nước và
pháp luật.
Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy
nó chứa đựng những yếu tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật.
Nếu chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế, thì
quyền thừa kế là chế định pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản


13

thuộc quyền sở hữu của họ trong việc chuyển dịch tài sản để lại sau khi họ
chết cho những người còn sống có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất
định (theo di chúc hoặc theo pháp luật). Chế định quyền thừa kế không những
điều chỉnh phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc để lại di sản
và nhận di sản thừa kế, mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người
thừa kế hợp pháp khi bị xâm phạm. Các hình thức dịch chuyển di sản của một
người đã chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật là
những cơ sở xác lập quyền sở hữu đối với di sản của người được hưởng thừa kế
hợp pháp. Như vậy, giữa quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế có mối liên hệ
hữu cơ với nhau, mối liên hệ hữu cơ đó được biểu hiện ở những đặc điểm sau:
- Quyền thừa kế là phương thức kế thừa quyền sở hữu tài sản của một
người sau khi chết để lại (tài sản và quyền sở hữu tài sản đó được chuyển giao
cho người thừa kế hợp pháp theo một trong các hình thức thừa kế) do pháp
luật đã quy định. Và theo đó, quyền thừa kế là một trong những căn cứ xác lập
quyền sở hữu đối với tài sản của người được thừa kế hợp pháp;
- Quyền thừa kế chỉ có hiệu lực sau khi người để lại di sản chết và tài
sản của ngựời đó vẫn còn;
- Quyền sở hữu tài sản chi phối trực tiếp đến quyền thừa kế.

Những đặc điểm của mối liên hệ giữa quyền sở hữu và quyền thừa kế
không những phản ánh bản chất giai cấp, mà còn phản ánh hình thức sở hữu
của cá nhân do chế định sở hữu điều chỉnh. Như vậy, quyền sở hữu và quyền
thừa kế đều thuộc phạm trù pháp lý và có cùng bản chất cơ bản là:
- Quyền sở hữu và quyền thừa kế đều là công cụ duy trì và bảo vộ chế
độ tư hữu về tài sản;
- Quyền sở hữu và quyền thừa kế đều phản ánh trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của chế độ xã hội có giai cấp.
Do có sự quan niệm khác nhau về gia đình, lễ giáo, văn hóa truyền thống,
đạo đức..., quyền thừa kế cũng được pháp luật của mỗi quốc gia quy định khác


14

nhau. Thậm chí, trong cùng một chế độ - xã hội của một nhà nước, ở mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau, thì quyền thừa kế cũng được quy định khác nhau cho
phù hợp với sự phát triển đó. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đó.
Trong các triều đại phong kiến trước đây ở Việt Nam, pháp luật thừa
kế đã được hình thành và được dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Nhìn chung,
pháp luật trong thời kỳ phong kiến đều nhằm mục đích duy trì, bảo vệ những
truyền thống chế độ gia đình phụ quyền và hiếu nghĩa của con cháu trong
dòng tộc. Những quan niệm về gia đình, lễ giáo, tín ngưỡng và chuẩn mực đạo
đức đương thời đã có sự tác động mạnh mẽ lên các quan hệ xã hội, trong đó có
quyền sở hữu và quyền thừa kế. Gia đình của người Việt Nam thời phong kiến
theo truyền thống là gia đình phụ hệ, do vậy khối tài sản do các thành viên
trong một gia đình tạo ra không những để bảo đảm cuộc sống hàng ngày, mà
còn có thể tích lũy và khối tài sản đó được dịch chuyển cho các thế hệ sau
(cùng huyết thống) khi thế hệ trước qua đời. Sự mất bình đẳng trong quan hệ
thừa kế phong kiến đã diễn ra do mục đích bảo tồn những quan niộm về chuẩn
mực đạo đức như thờ cúng tổ tiên, quyển và nghĩa vụ của người con trưởng và

người cháu đích tôn trong nội tộc... Địa vị của người vợ trong gia đình không
những bị pháp luật phong kiến trói buộc theo thuyết "tam tòng", mà còn bị các
quan hệ nội tộc phía người chồng làm cho mờ nhạt. Quyền thừa kế của người
vợ góa trong gia đinh phong kiến chưa khi nào được ngang bằng với các con,
các cháu và những người thân thích khác thuộc nội tộc bên nhà chồng.
Khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (ngày 2-9-1945), chế
độ phong kiến ở Việt Nam bị sụp đổ cùng với chế độ thực dân Pháp, những
quan niệm lạc hậu về gia đình và chế độ phụ quyền cũng dần dần bị xóa bỏ.
Quyền bình đẳng về sở hữu và trong lĩnh vực thừa kế dưới chế độ mới đã được
pháp luật bảo vệ theo nguyên tắc: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện" và đã được GỤ thể hóa bằng quy định pháp luật: "Trong lúc sinh
thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin


15

chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản
chung" [51, Đ. 11]. Kể từ năm 1945 đến nay, pháp luật thừa kế ở nước ta đã
có giai đoạn còn thiếu vắng những văn bản pháp luật điều chỉnh kịp thời quan
hệ thừa kế; nhưng nhìn chung quyền thừa kế của cá nhân vẫn được thực hiện
theo những định hướng nhất quán như:
- Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình cho người khác sau khi chết;
- Cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật;
- Cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình, cá nhân có quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật (trường hợp cá nhân không để lại di chúc...).
Căn cứ vào nội dung pháp luật thừa kế của nước ta từ năm 1945 đến
nay, các nhà khoa học luật đều cho rằng, quyền thừa kế được hiểu dưới hai
phương diện sau:

+ Về phương diện khách quan, quyền thừa kế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh trình tự, điều kiện, hình thức chuyển dịch tài sản,
quyền tài sản (gồm cả quyền sử dụng đất) của một người đã chết cho những
người còn sống, đồng thời bảo vệ quyền của người để lại tài sản và quyền của
người hưởng thừa kế di sản.
Mặc dù theo các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
pháp luật thừa kế của nước ta có những quy định khác nhau, nhưng pháp luật
thừa kế của nước ta từ năm 1945 đến nay đã phản ánh bản chất của Nhà nước
dân chủ nhân dân (Nhà nước của dân, do dân và vì dân). Các quy định pháp
luật thừa kế của nước ta không những bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc
thể hiện ý chí của mình, mà còn kết hợp hài hòa vói những truyền thống tốt
đẹp trong nhân dân được thể hiện trong quan hệ gia đình, trong dòng tộc và
quan niệm về đạo đức mang nội dung mới. Tất cả những đặc điểm đó được thể
hiện tập trung trong Phần thứ tư BLDS.


16

Cùng với việc tôn trọng ý chí của cá nhân người có tài sản trong việc
lập di chúc để định đoạt tài sản của họ sau khi họ chết, chế định thừa kế trong
BLDS còn ghi nhận quyền của vợ chổng trong việc lập di chúc để định đoạt tài
sản chung của họ và các quy định có liên quan đến di chúc chung đó, như vấn
đề về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung và hiệu lực pháp luật
của di chúc chung của vợ chồng [6, Đ. 666; Đ. 667; Đ. 671]. Đây là điểm mới
trong chế định thừa kế mà BLDS quy định so với chế định thừa kế quy định
trong PLTK và cũng là điểm khác biệt của pháp luật thừa kế Việt Nam so với
pháp luật thừa kế của các nước khác. Nó phản ánh đầy đủ quyền bình đẳng
của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân XHCN mà Luật Hôn nhân và Gia đình
(Luật HN & GĐ) nước ta đã quy định.
Ngoài việc mở rộng quyền lập di chúc để cá nhân định đoạt tài sản của

mình sau khi chết, thừa kế theo quan hộ huyết thống vẫn được duy trì và theo
đó số người thuộc diện thừa kế theo pháp luật cũng được mở rộng theo từng
thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ PLTK, pháp luật đã thừa
nhận hàng thừa kế thứ ba, những tư tưởng bảo vệ quyền thừa kế của những
người có quan hệ huyết thống theo quan niệm đích tử, đích tôn, đồng tông,
đổng tộc... không còn được ưu tiên tuyệt đối như trong pháp luật thừa kế dưới
thời thực dân, phong kiến trước đây. Pháp luật thừa kế của chế độ mới đã kết
hợp hài hòa việc bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ huyết thống,
quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản trong việc xác
định người thừa kế theo diện và các hàng thừa kế. Quan hệ hôn nhân và quan
hệ nuôi dưỡng được đặt ngang hàng với quan hệ huyết thống trong việc xác
định các hàng thừa kế trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Đây là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta
so với các quy định thừa kế dưới chế độ thực dân, phong kiến, theo đó quyền
thừa kế của vợ (hoặc chồng) của người quá cố chỉ được xét đến khi không có
những người thuộc quan hệ huyết thống nội tộc với người để lại di sản.


Dưới chế độ mới, quan hệ hôn nhân được coi trọng theo nguyên tấc vợ
chồng bình đẳng trong việc để lại di sản và quyền thừa kế tài sản của nhau khi
một bên chết trước. Người vợ góa hoặc người chồng góa có quyền thừa kế
theo pháp luật cùng hàng với cha, mẹ và các con của người để lại di sản. Đây
là một nét khác biệt cơ bản của pháp luật thừa kế Việt Nam so với pháp luật
thừa kế của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Theo pháp luật thừa kế
của một số nước như Nhật Bản, Thái Lan, Cộng hòa Pháp..., người vợ góa,
người chồng góa, cha, mẹ của người để lại di sản không được ở cùng một hàng
thừa kế theo pháp luật với các con, các cháu của người có tài sản để lại, mà chỉ
thuộc hàng thừa kế sau các con, các cháu của người có tài sản để lại.
Quyền thừa kế về phương diện khách quan còn được thể hiện ở việc
pháp luật bảo đảm cho công dân có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản

thừa kế, không phân biệt giới tính, già trẻ, có năng lực hành vi dân sự hay
không có năng lực hành vi dân sự (nếu cùng hàng thừa kế thì đều được hưởng
kỷ phần di sản ngang nhau).
Pháp luật thừa kế của Nhà nước ta luôn chứ trọng bảo vệ quyền thừa kế
hợp pháp của công dân trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Kể từ
năm 1945 đến nay, pháp luật thừa kế ở nước ta không ngừng được bổ sung, sửa
đổi và ngày một hoàn thiện về nội dung và phù hợp vói nhũng đòi hỏi của xã hội.
+ Theo phương diện chủ quan, thì quyền thừa kế được hiểu là quyền
dân sự cơ bản của mỗi công dân được pháp luật bảo vệ. Theo phương diện này
thì mọi công dân đều có quyền như nhau trong việc để lại tài sản của mình
cho những người thừa kế và đều có quyền như nhau trong việc nhận di sản
thừa kế do người khác để lại. Tuy nhiên, quyền thừa kế của công dân do pháp
luật quy định chỉ là khả năng khách quan để công dân thực hiộn quyền để lại
di sản và hưởng di sản thừa kế phù hợp với những qui định của pháp luật. Hay
nói cách khác, pháp luật qui định về quyền thừa kế là mở ra một khả năng


18

hợp với những chuẩn mực do pháp luật cho phép. Quyền thừa kế được bảo
đảm khi một người được xác định có quyền thừa kế hợp pháp hoặc theo di
chúc hoặc theo pháp luật, nhưng trên thực tế, quyền của người thừa kế hoặc
không được thực hiện đầy đủ hoặc không thực hiện được do di sản không còn
đầy đủ hay hoàn toàn không còn để chia cho những người thừa kế...
Phân tích từ góc độ quyền để lại tài sản của công dân sau khi chết,
nhận thấy pháp luật của hầu hết các nước và của nước ta đều cho phép người
có tài sản thực hiện quyền này bằng hai phương thức, hoặc họ lập di chúc,
hoặc không lập di chúc.
Quyền định đoạt tài sản bằng di chúc của cá nhân được pháp luật ưu
tiên bảo vệ thực hiện. Khi cá nhân thực hiện quyền thừa kế cùa mình bằng

việc lập di chúc, thì quyền định đoạt ý chí của người lập di chúc phải phù hợp
với pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Theo qui định của pháp luật thừa kế ở nước ta từ năm 1945 đến nay, cá
nhân có quyền định đoạt tài sản của mình bằng việc lập di chúc để lại tài sản cho
những người thừa kế theo ý chí của họ. ý chí của người định đoạt tài sản bằng di
chúc được pháp luật bảo hộ, nhưng không phải được bảo hộ một cách tuyệt đối.
Bằng việc quy định và bảo vệ quyền của những người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc (bao gồm cha, mẹ, vợ, chồng, các con vị thành niên của
người để lại di sản và các con tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao
động), pháp luật nước ta đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo của pháp luật XHCN,
không thể chấp nhận việc người lập di chúc tự do định đoạt tài sản của họ mà
truất quyền thừa kế của nhũng người mà theo quy định của pháp luật họ phải được
người lập di chúc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật HN & GĐ.
Phân tích từ góc độ quyền của người hưởng di sản cũng thấy những
đặc thù riêng của pháp luật thừa kế ở nước ta từ năm 1945 đến nay. Quyền của
người hưởng di sản được bảo đảm khi "ngưòi thừa kế là cá nhân phải là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết" [6, Đ. 638].


19

Quyền thừa kế của công dân còn được pháp luật bảo vệ trong những
trường hợp riêng biệt khác như thừa kế thế vị, thừa kế giữa con riêng với cha
kế, mẹ kế... khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định.
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật đều có quyền hưởng di
sản và quyền từ chối hưởng di sản. Người thừa kế hưởng di sản là những người
có quyền và nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế và trong phạm vi giá trị di
sản thừa kế. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản theo thời hạn, hình
thức pháp luật đã qui định [6, Đ. 645].

Trước đây, theo qui định của PLTK, người thừa kế không những có
quyền từ chối hưởng di sản, mà còn có thể nhường quyền hưởng di sản cho
người thừa kế khác [46, Đ. 31].
Qui định của PLTK về vấn đề này đã làm phức tạp hóa quan hộ thừa
kế và không tránh khỏi sự suy đoán chủ quan của cơ quan bảo vệ pháp luật khi
giải quyết các vụ việc có liên quan. BLDS đã loại bỏ qui định nhường kỷ phần
di sản giữa những người thừa kế với nhau.
Quyền định đoạt của người thừa kế được pháp luật bảo hộ trong việc từ
chối hưởng di sản, nếu việc từ chối đó không nhằm mục đích trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ tài sản của người đó đối với người khác [6, Đ. 645].
Quyền thừa kế của công dân không những chịu sự hạn chế như đã phân
tích ở trên, mà còn bị pháp luật loại trừ trong những trường hợp nhất định. Pháp
luật thừa kế Việt Nam qui định những người thừa kế (kể cả thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật) không được hưởng di sản do đã có hành vi trái
pháp luật mà hành vi đó là nguyên nhân làm triệt tiêu quyền thừa kế. Những
người bị pháp luật tước quyền thừa kế chỉ được thừa kế trong trường hợp người
để lại di sản đã biết hành vi trái pháp luật của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng
di sản theo di chúc [6, Đ. 646]. Quyền thừa kế còn bị triệt tiêu trong trường
hợp những người có quyền thừa kế của nhau cùng chết vào một thời điểm.
Tóm lại, quyền thừa kế của công dân được hiểu theo hai phương diện
khách quan và chủ quan là hai phương diện có tính thống nhất, phương diện


20

này chi phối phương diện kia và có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nếu thiếu
một trong hai phương diện thì quyền thừa kế của công dân không thể bảo đảm
thực hiện được, mà trong trường hợp cụ thể quyền thừa kế có thể bị xâm
phạm. Quyền thừa kế của công dân do pháp luật quy định và chỉ có thể thực
hiện được khi có sự kiện chết của cá nhân, có di sản thừa kế, những người thừa'

kế có quyền hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật thể hiện ý chí nhận di sản.
Với những phân tích trên đây, có thể xác định rằng: Quyền thừa kế là
một phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử
phát triển kinh tế xã hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất
hiện và phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài
sản (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến xã hội hiện đại ngày nay). Với tư cách là
một phạm trù pháp luật, thừa kế chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở
hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho những người còn sống theo điều
kiện, hình thức, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
1.1.4. Khái niệm thừa kế theo pháp luật
Pháp luật thừa kế của Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của các nước
trên thế giói đều qui định hai hình thức thừa kế, đó là thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật. Việc chuyển dịch di sản cho những người thừa kế theo di chúc
là dựa trên cơ sở ý chí định đoạt của người lập di chúc khi còn sống. Di chúc có
thể được pháp luật thừa nhận hay không thừa nhận hoặc chỉ thừa nhận một
phần... phụ thuộc những điều kiên có hiệu lực của di chúc do pháp luật qui định.
Vào thời La Mã cổ đại, pháp luật cũng qui định hai hình thức thừa kế
theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc được thực hiện
trong trường hợp người chết có để lại di chúc định đoạt tài sản hợp pháp. Một
di chũc vào thời La Mã chỉ được coi là hợp pháp nếu thỏa mãn điều kiện: Chủ
thể lập di chúc và ý chí tự do tự nguyện của chủ thể, nội dung và hình thức của
di chúc phù hợp với qui định của pháp luật La Mã thời bấy giờ (thế kỷ thứ VI
trước Công nguyên đến thế kỷ thứ VI - v n sau Công nguyên).


21

Tuy luật La Mã qui định hai hình thức thừa kế, nhưng lại tuyệt đối hóa
sự độc lập của các hình thức đó với nhau, không thể áp dụng cả hai hình thức
thừa kế đó để chia khối di sản của người chết để lại, có nghĩa là pháp luật La

Mã không cho phép một phần di sản chia theo di chúc, một phần di sản chia
theo pháp luật [30, tr. 169-170].
Trong thời kỳ hiện đại, pháp luật thừa kế cùa các nước trên thế giới
cũng như của Việt Nam đều quy định và cho phép áp dụng hai hình thức thừa
kế để chia di sản trong trường hợp cụ thể, nghĩa là được đồng thời áp dụng
trong việc phân chia di sản thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Nnư vậy,
việc áp dụng hai hình thức thừa kế có thể xảy ra trong các trường hợp sau đây:
- Hoặc di sản được chia hoàn toàn theo di chúc;
- Hoặc di sản được chia hoàn toàn theo pháp luật;
- Hoặc di sản đồng thời được chia theo di chúc và theo pháp luật.

\

Pháp luật thừa kế của nước ta từ năm 1945 đến nayđều qui định hai
hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Nghiên cứu pháp luật nước ta và pháp luật của một số nước khác đểu
thấy có những điểm chung và những điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức
thừa kế này. Dưới đây là bảng so sánh những khác biệt đó.
STT
1

Nội dung so sánh

Thừa kế theo di chúc

Ý chí của người để Định đoạt bằng di chúc
lại tài sản

Thừa kế theo pháp luật
Định đoạt đương nhiên theo

pháp luật

Bất kỳ ai (hoặc cá nhân hoặc Cá nhân thuộc diện thừa kế mà
tổ chức) được chỉ định bằng pháp luật quy định
di chúc

2

Người hưởng di sản

3

Tùy thuộc vào việc phân định Những người cùng một hàng
Kỷ phần di sản được
di sản của người lập di chúc thừa kế, thì được hưởng kỷ
chia
phần di sản ngang nhau


×