' . s 'IẠ'Í> Oiií ‘ VẲ è ộ*»•-. Ị :í AO
' n u 'M,:; TẠM ỵ ị ỉ O A HỌC ' X
'
.
■■
.v'
*Ã$ -V 1- '■••-, ;V: ■*.- ■*• ,'v .
ỵ
'Hrt
M ệ :Ĩắ
.
|ệ ỉ|
ik iị
\v J í v . -ĩ
;,ỷ
i i
■
•,
.
■ ,•
sl
• •íẬ
l ' -•
-
•
*\ ■* X;/*£Ỷ..■1V..v:
;?■
•’
%
- "■;
--
-
:
-
.
‘
•
■
.
’
'
„
.
■
-
■
'.
„
•
*
--
/
-
.v
- .V '
......
-
■
'
. . .
' "
r
*
. Ỉ M ,íỉ'TiẾ--;v'.€['? r 'i ■t
. -
p
tó. í->-
' ••’>;7/'•••
_
. .V* ^ 'V
--
'
. '
•
~
íẲ
j
ỉộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VẪN QUỐC GIA
VIỆN NGHIÊN CỨU NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TRẦN THÁI DƯƠNG
CHÚC NÍN6 KINH TỂ cù* NHỈ Nlltic
CỘNG
HÒAXÃ HỘI
■
■ CHÚ NGHĨA VIỆT
■ NAM
Chuyên ngành: Lí luận nhà nước và pháp luật
M ã số: 50501
LUẬN
ÁN TIẾN Sĩ LUẬT
HỌC
•
•
•
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
THƯ VI ỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LỦẤĩ BẢ NÔI
PHÒNG DỌC '-Ẩ Ậ & . 5
HÀ NỘI - 2002
LỜI CAM ĐOAN
Đày là công trình nghiên cứu của cá nhàn tôi.
Những tư liệu lịch sử cũng như các số liệu thống kê trong luận án là
trung thực.
Kết quả nghiên cứu của luận án này chưa từng đươc còng bố ở bất kì
công trình khoa học của tác giả nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
Bìa phụ
Tr
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết cừạ đề tài
2. Tình hình nghiê^cứu đề tài
3.
4.
5.
6.
7.
Mục đích vă'frhạnWĩ nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu đê tài
Điểm mới về khoa học của luận án
Giá trị của luận án
Cơ cấu của luận án
Chương 1
KHÁI QUÁT VỂ CHỨC NĂNG KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC CÔNG HOÀ XHCN VIỆT NAM
1.1. Cơ sở xác định chức năng kinh tế của Nhà nước
1.1.1. Những quan niệm về vai trò kinh tê'của nhà nước
trên thế giới
1.1.2. Vai trò kirih tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việỉ
Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
1.1.3. Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.2. Khái niệm chunơ về chức năng kinh tế của Nhà nước
1.2.1. Khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước
1.2.2. Giới hạn chức năng kinh tế của Nhà nước
1.2.3. Nội dung, phương thức thực hiện chức năng kinh tế
của Nhà nước
Chương 2
NHỮNG NỘI DƯNG, PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN
VÀ THỰC TRẠNG CHỨC NĂNG KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCN VIỆT NAM
2.1. Nhà nước điều chỉnh hoat động kinh tế bằng pháp luật
và các công cụ quản ỉí vĩ mô khác
2.1.1. Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ
mô
2.1.2. Nhà nước kế hoạch ho á nền kinh tế quốc dán
1
9
5
6
7
8
15
2«
27
oọ
3ỏ
42
51
52
62
2.1.3. Nhà nước sử dumo các cômo cu. tài chính,’ tiền tê, tín
dụng
67
2.1.4. Nhà nước quản ií kinh ĩ ế v ĩ m ò bằng pháp luật
/3
2.2. Nhà nước thực hiện chức nâng quản lí đối với kinh tế
nhà nước
2.2.1. Phạm vi và vai trò của kinh tế nhà nước
9?
2.2.2. Nội dung quản lí nhà nước đối với kinh tế nhà nước
96
2.2.3. Phương thức quản lí nhà nước đối với kinh tế nhà
103
nước
2.3. Nhà nước thực hiện chức năng kinh tế thỏng qua tổ chức 104
và hoạt động của bộ máy nhà nước
2.3.1. Tính chất chung của bộ máy nhà nước trong nền kinh
tê'thị trường định hướng XHCN
2.3.2. Nội dung thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
108
trong quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
2.3.3. Phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
119
nước trong quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
2.4. Thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay
123
2.4.1. Khái quất chung về thành tựu
2.4.2. Những tồn tại và bất cập
126
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại và bất cập
133
Chương 3
HOÀN THIỆN CHỨC NĂNG KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCN VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước 140
3.1.1. Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN
3.1.2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế
3.2. Phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà
nước
141
146
148
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí
vĩ mô khác của Nhà nước
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lí đối với kinh tế nhà nước
169
3.2.3. Hoàn thiện tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy
nhà nước; nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước trong quản lí kinh tế
172
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
179
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nav, nhận thức chung của các quốc gia về nền kinh tế thị trườní
hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp, trong đó có vai trò to lớn của nhà nước
Nhưng để đi đến nhận thức đó, con người đã phải trải qua bao bước phát triểr
thăng trầm. Có thực tế là nhà nước trong lịch sử và ở mỗi quốc gia thì lại khác
nhau, vì thế vai trò kinh tế của các nhà nước ở các nền văn hoá cũng khác
nhau. Việc tìm kiếm những mô hình hợp lí để thể hiện vai trò đích thực củi
nhà nước trong nền kinh tế luôn luôn là vấn đề của các thời đại, các dân tộc Vỉ
cho đến nay, đây vẫn là đề tài còn được tranh luận.
ở Việt Nam, từ khi thành lập Nhà nước dàn chủ nhân dân đầu tiên sai
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước, luôn luôn chú.trọnc
công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong các cuộc khánc
chiến chống giặc ngoại xâm giành độc lập đầy hi sinh gian khổ, những thàrứ
tựu về kinh tế lúc bấy giờ cũng đã góp phần đắc lực cho những thắng lợi vĩ đạ
của dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ V!
đến nay, Đảng luôn luôn đánh giá cao vai trò to lớn, tích cực, chủ động củỉ
Nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Nhưng quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nềr
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là quá trình rất khó khăn Vc
phức tạp. Qua đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và xu thế
phát triển là không thể đảo ngược được nhưng nguy cơ, thách thức vẫn còn rấ
lớn. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định những đinh hướng cơ bản cho SỊ
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong chặng đường tiếp theo Ví
trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hoá đường lối chính trị của Đảng thành pháỊ
luật để quản lí kinh tế - xã hội. Tuy thế, đường lối của Đảng không thể tha)
thế cho pháp luật và quá trình thể chế hoá cũng không phải là sự "luật hoá'
1
một cách giản đon mà cần phải căn cứ và thấu suốt nhữnơ quan điểm lí luận
về bản chất, chức năng của nhà nước và pháp luật trong các mối quan hệ đa
dạng, nhiều chiều của sự vận động, biến đổi không ngừng của đời sống kinh tể
- xã hội. Qua đây có thể thấy hiện nay vấn đề chức năng của nhà nước nói
chung và chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nói
riêng đang là vấn đề mang tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.
Với nhận thức như trên, tôi quvết đinh chọn vấn đề chức năng kinh tế của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến
sĩ luật học của mình với mong muốn đóng góp một phần vào tiếng nói chung
trong quá trình nhận thức và hoạch đinh các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân
theo đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ xưa đến nay, quản lí nhà nước về kinh tế là vấn đề đã được chú ý
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế học chính trị, triết học,
luật học... Thời cổ đại, nhiều người đã cố gắng lí giải vai trò kinh tế của nhà
nước thể hiện qua các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp, La Mã, Trung
Quốc cổ đại như Arixtot, Platon, Mạnh Tử, Khổng Tử... Khi chủ nghĩa tư bản
phát triển đến giai đoạn cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, nhiều lí
thuyết kinh tế học chính trị đã đi sâu tìm hiểu cơ chế tác dụng của nhà nước
với nền kinh tế, tìm hiểu những giới hạn vai trò quản lí kinh tế của nhà nước
như lí thuyết của A. Smith về nền kinh tế tự do, lí thuyết của J. Keynes về nền
kinh tế có sự điều tiết của nhà nước và lí thuyết của A. Smuelson về nền kinh
tế hỗn hợp...
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các tác phẩm kinh điển như:
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ rư hữu, của nhà nước và pháp luật” (Ph.
Ăngghen); 'Tuyên ngôn của đảng cộng sản” (C. Mác - Ph. Ảngghen); “Chống
Đuyrinh” (Ph. Ăngghen); “Tư bản" (C. Mác); "Nhà nước và cách
m ạno”
(V ]
Lênin)... đã đem lại cho nhân loại những tri thức khoa học về bản chất kinh t<
- xã hội, bản chất giai cấp của nhà nước, mối liên hệ giữa nhà nước với kinh t<
cũng như các phương thức tác động của nhà nước đến các quan hệ kinh tế nó
chung. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lí luận v;
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệ]
xây dựng và quản lí nền kinh tế XHCN.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung saní
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công tác nghiên cứu những vấn để 1
luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước trons nền kinh tế thị trường đã đượ<
chú trọng ở nhiều nước trên thế giói, ở Việt Nam, trong những năm gần đâ'
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của cá nhàn hay tập thể tiếp cận vấn đc
quản lí nhà nước về kinh tế ở nhữns góc độ khác nhau, với các quan điểm khí
phong phú. Chẳng hạn như các đề tài sau: "Cơ chế thị trường và vai trò cỉu
nhà nước trong nền kinh tê'Việt Nam" - đề tài khoa học cấp nhà nước mang S(
hiệu KX 03.04; "Cơ chê thị trường và vai trò của nhà nước trong quản lí kỉnì
tế ở nước ta hiện nay" - đề tài do GS.TS. Lương Xuân Quỳ làm chủ nhiệm; Đ<
tài "Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt N am " của TS. Lé
Đăng Doanh; Đề tài: "Khung pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường'
do Bộ tư pháp làm chủ trì... Một số công trình chuyên khảo của các nhà kho;
học có uy tín như: "Nhà nước và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới của chúm
ta" của GS.TS. Đào Trí ú c do Nxb. KHXH ấn hành năm 1997; "Quản lí nhc
nước về kinh tế" (giáo trình sau đại học) của Trường đại học kinh tế quốc dâr
do Nxb. KHKT ấn hành năm 1999.
Đổng thời, nhiều nhà nghiên cứu luật học như GS.TSKH. Đào Trí úc, cc
PGS.TS. Trần Trọng Hưu; GS.TS. Hoàng Văn Hảo; PGS.TS. Nguyễn Đăm
Dung; PGS.TS. Lê Minh Thông; TS. Dương Đăng Huệ; TS. Hoàng Thế Liên
"sì
PGS.TS. Lê Hổng Hạnh; PGS.TS. Nguyễn Như Phát; PGS.TS. Trần Đình HảoTS. Phạm Hữu Nghị; TS. Nguyễn Minh Mẫn; PGS.TS. Lê Minh Tâm; PGS.TS
Trần Ngọc Đường; PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng; PGS.TS. Bùi Xuân Đức; TS. Lê
Hữu Thể; TS. Phan Trung Lý; TS. Phạm Hồng Thái; TS. Trịnh Đức Thảo; TS.
Chu Hổng Thanh; TS. Phạm Duy Nghĩa; TS. Nguyễn Am Hiểu v.v. đã có
những bài viết, công trình nghiên cứu vấn đề quản lí nhà nước về kinh tế được
công bố trên các tập sách chuyên khảo, các tạp chí như Tạp chí cộng sản, Tạp
chí luật học, Tạp chí nhà nước và pháp luật, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp
chí quản lí nhà nước...
Ngoài ra còn phải kể đến một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về kinh
tế học, luật học cũng nghiên cứu vấn đề quản lí nhà nước về kinh tế ở những
khía cạnh khác nhau như luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Minh Thông
tại Đại học tổng hợp Matxcơva năm 1991, luân án tiến sĩ luật học của tác giả
Chu Hổng Thanh tại Học viện chính trị quốc gia Hổ Chí Minh năm 1993, luận
án tiến sĩ kinh tế học của tác giả Nguyễn Văn Hợp tại Trường đại học kinh tế
quốc dân Hà Nội năm 1996, luận văn thac sĩ luât học của tác giả Nguyễn Thị
Việt Hương tại Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật năm 1996, luận văn
thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Vy tại Viện nghiên cứu nhà nước và
pháp luật năm 1998...
Tình hình nghiên cứu như trên cho thấy sự nỗ lực rất lớn và liên tục của
giới lí luận từ xưa đến nay ở cả trong và ngoài nước với vấn đề quản lí nhà
nước về kinh tế là vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học như triết học,
kinh tế học, luật học... Qua đó, các học giả đã đưa ra được những cách luận
giải rất phong phú và có sức thuyết phục đối với vấn đề này. Nầưng dù sao thì
việc nhận thức lí luận vẫn chưa thể dừng lại và nhiều vấn đề thực tiễn quản lí
nhà nước về kinh tế ở Việt Nam hiện đang cần phải được lí giải sâu sắc hơn để
có thể đưa ra được những định hướng phù hợp hem. Như vậy, ở đây lại có thêm
thưc
nhất là lí luân
• tranơ
. c? của hệ• thống
«w- lí luân,
.
. về chức nănơ
c? kinh tế của Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam dường như chưa được quan tâm đúng mức là sự minh chứng cho tính cấp thiết của đề tài này.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên
cứu cơ sở lí luận
C7
. và thưc tiễn về chức năng
o
kinh tế và việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cách tiếp cận đặc thù của luận án này là theo tiến trình lịch sử, trên quan
điểm lí luận về nhà nước và pháp luật cũng như hiện thực đời sống xã hội để
đi sâu nghiên cứu khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam với những giới hạn theo các mối liên hệ chủ yếu của nó.
Đồng thời, từ góc độ công cụ quản lí, luận án tập trung làm rõ những nội
dung, phương thức thực hiện và thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước
Cộng’ hoà XMCN Việt Nam-trong mối liên hệ so sánh giữa nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện nay với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
trước đây.
Luận án không đi sâu vào khoa học kinh tế, chính trị và khoa học quản lí
để đề cập phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước mà chỉ
tập trung vào các vấn đề lí luận cơ bản về hệ thống pháp luật, về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, đổi mới cơ chế quản lí đối với kinh tế nhà
nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong quản lí kinh tế
dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Các phương pháp được sử dụng trong luận án này gồm: Phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng
hợp trừu tượng và kết hợp các phương pháp ấy.
5. Điểm mới về khoa học của luận án
Với tính cách là luận án tiến sĩ luật học đầu tiên ở trong nước về vấn đề
chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trên cơ sở kế
thừa những tri thức khoa học chung cũng như những kết quả nghiên cứu của
giới luật học, từ góc độ tiếp cận riêng, luận án có một số điểm mới sau:
- Góp phần vào việc phát triển lí luận về chức năng của nhà nước, trong
đó tập trung vào chức năng kinh tế của Nhà nước Cộnghoà XHCN Việt Nam,
phân tích giới hạn của nó trong các mối liên hệ với các vếu tố cũng như các
chức năng khác của nhà nước.
- Góp phần nghiên cứu sâu một số vấn đề lí luận và thực tiễn cấp bách
đối với Việt Nam hiện nay như vấn đề về hệ thống pháp luật và các công cụ
quản lí kinh tế vĩ mô của Nhà nước; vấn đề quản lí nhà nước đối với kinh tế
nhà nước cũng như vấn đề về cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nêu một số đề xuất cá nhân có tính định hướng lí luận cho việc hoàn
thiện chức năng kinh tế của Nhà nước tập trung chủ yếu vào các vấn đề như
hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng bộ máy nhà nước và tăng cường năng
lực đội ngũ cán bộ, công chức trong quản lí kinh tế.
6. Giá trị của luận án
Luận án có thể được dùng để tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên
cứa và giảng dạy luật học, nhất là vấn đề về chức năng của Nhà nước, chức
năng kinh tế của Nhà nước.
6
Luận án cũng có thể giúp cho việc nhận thức lí luận và thực tiễn đất nước
để xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, xây dựng bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, ba chương, phần kết luận, phần phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Khái quát vế chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam
Chương 2: Những nội dung, phương thức thực hiện và thực trạng chức
năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước Công hoà XHCN
Việt Nam
Chương 1
KHÁI QUÁT VỂ CHỨC NĂNG KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCN VIỆT NAM
1.1. C ơ SỞ XÁC ĐỊNH CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
1.1.1. Những quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước trèn thế giới
Từ thời cổ đại và trung đại, các nhà nước trên thế giới đã đóng vai trò
nhất định trên lĩnh vực kinh tế phù hợp với yêu cầu của mỗi mô hình kinh tế xã hội tương ứng nhưng nhìn chung, tính chất và mức độ can thiệp của nhà
nước vào các quan hệ kinh tế ở các thời đại này chỉ ở dạng sơ khai và chủ yếu
thiên vể quản lí nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc. Thời bấy giờ, nền
kinh tế hàng hoá cũng đã ra đời ở nhiều nước nhưng do tính xã hội hoá chưa
cao nên vấn đề điều tiết, chỉ huy từ một trung tâm chưa thật sự trở thành nhu
cầu Bức thiết của các-quan hệ kinh tế.
Trong lịch sử cận - hiện đại, vai trò kinh tế của các nhà nước trên thế giới
được thể hiện đặc biệt rõ nét và có thể được nhận thức từ thực tiễn và lí luận
của nền kinh tế TBCN cũng như nền kinh tế XHCN.
/ CNTB phát triển từ giai đoạn tích luỹ nguvên thuỷ, từ CNTB tự do cạnh
tranh đến CNTB độc quyền rồi CNTB độc quyền nhà nước với nhiều biến thể
phong phú, đa dạng và được phản ánh qua nhiều học thuyết kinh tế - chính trị
khác nhau như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa tự do kinh tế cổ điển, chủ
nghĩa Keynes đến chủ nghĩa thể chế mới với lí thuyết về nền kinh tế hỗn hợp...
Trong thời kì tích lũy nguyên thủy, chủ nghĩa trọng thương là cơ sở lí luận cho
sự phát triển của CNTB lúc này. Người ta cho rằng nhà nước phải can thiệp
vào nền kinh tế, trực tiếp hướng dẫn, điều tiết lưu thông tiền tệ, cấm xuất khẩu
vàng, bạc; phải giữ độc quyền ngoại thương. Ngoài ra, nhà nước cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, thậm
chí nhà nước can thiệp vào kinh tế bằng sức mạnh quân sự v.v..[56, tr.9] Chủ
8
nghĩa trọng thương là lí thuyết chứng minh về vai trò "bà đỡ" của nhà nước tư
sản cho sự ra đời của nền kinh tế TBCN.
Khi CNTB tích lũy được đủ số vốn cần thiết thì vấn đề trọng tâm của
CNTB là quyển tự do kinh doanh nên A. Smith đã đề cao tư tưởng tự do kinh
tế thông qua biểu tượng "bàn tay vô hĩnh", chống lại sự can thiệp của nhà
nước vào các quan hệ kinh tế. Theo A. Smith thì nhà nước không can thiệp vào
kinh tế mà chỉ có vai trò bảo vệ quyền sở hữu tư bản, bảo đảm an ninh đối nội,
đối ngoại đồng thời, chính sách kinh tế tốt nhất mà xã hội và nhà nước cần có
là chính sách tự do cạnh tranh.[32, tr.68]
CNTB chuyển sang giai đoạn độc quyền thì L. Walras (1848 - 1923) nhà kinh tế học chính trị người Thụy Sỹ với lí thuyết “cân bằng tổng quát” đã
phát triển tư tưởng "bàn tay vô hình" của A. Smith về tự do kinh tế. [69] về vai
trò của nhà nước đối với nền kinh tế, A.c. Pigou quan niệm rằng để tăng thu
nhập quốc dân, tăng phúc lợi kinh tế, nhà nước cần có các biện pháp can thiệp
cần thiết và trong điều kiện độc quvén càng cần tới sự can thiệp của nhà nước.
Như vậy với A.c. Pigou, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã manh nha tư
tưởng về nhà nước đóng vai trò can thiệp vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô.
Đến giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước, lí thuyết về nền kinh tế TBCN
có sự điều tiết của nhà nước đã ra đời với sự sáng lập của J. M. Keynes (1883 1946) - nhà kinh tế học chính trị người Anh. [27] Keynes quan niệm sở dĩ có
khủng hoảng, thất nghiệp... là do chính sách lỗi thời, bảo thủ hay thiếu sự can
thiệp của nhà nước, ông cho rằng nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế mới
tạo ra được sự cân bằng. Vì thế, J.M. Keynes chủ trương thông qua đơn đặt
hàng, hệ thống mua của nhà nước, trợ cấp về tài chính, tín dụng do ngân sách
nhà nước bảo đảm để tạo sự ổn định về lợi nhuận và đầu tư cho tư bản độc
quyền. Nhà nước cần nắm những công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng như tài
chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; ông chủ trương tăng khối lượng tiền tệ
vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích nhà kinh doanh mở rộnơ
quy mô vay vốn, mở rộng đầu tư tư bản; chủ trương dùng biện pháp "lạm phát
có kiểm soát" để kích thích thị trường...[56, tr.284]
Tuy thế, lí thuyết về nền kinh tế có sự can thiệp của nhà nước do J.M.
Keynes nêu ra vẫn không đủ sức lí giải hàng loạt các hiện tượng kinh tế chính trị mới của CNTB mà sự ra đời và lũng đoạn của các công tv xuyên
quốc gia là một trong những ví dụ điển hình. CNTB lại tiếp tục rơi vào khủng
hoảng và để tìm giải pháp mới cho CNTB, chủ nghĩa tự do kinh tế mới đã ra
đời. Nội dung cơ bản của tư tưởng này là thực hiện cơ chế thị trường có sự
điểu tiết của nhà nước nhưng chỉ ở mức độ nhất định theo phương thức“thị
trường nhiều hơn, nhà nước ít hơn” hay “nhà nước tối thiểu”. Chủ nghĩa tự do
kinh tế mới được thể hiện tập trung ở một số trường phái như trọng tiền hiện
đại, trọng cung, kinh tế vĩ mô dự kiến hợp lí, kinh tế thị trường xã hội... Lí
—-«
cỵ
thuyết kinh tế thị trường xã hội để cao nguyên tắc cạnh tranh, khẳng định
không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường xã hội nhưng cạnh
tranh chỉ có hiệu quả khi có sự bảo hộ và hỗ trợ của nhà nước. Lí thuyết kinh
tế thị trường xã hội cũng vạch rõ những nguy cơ đe dọa cạnh tranh từ phía nhà
nước là nhà nước có thể hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh, trong khi đó, bảo
vệ cạnh tranh lại là trách nhiệm của nhà nước. Theo lí thuyết về nền kinh tế thị
trường xã hội thì có hai quy tắc cho sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
là: Thứ nhất, chỉ can thiệp khi cần và ở mức độ hợp lí (nguyên tắc hỗ trợ); Thứ
hai, sự can thiệp phải tương hợp với thị trường.[56, tr.284] Khác với lí thuyết
về nền kinh tế thị trường của người Đức, trường phái thể chế mới ở Mỹ lại đề
cao tư tưởng về sự can thiệu của nhà nước vào nền kinh tế. J.K. Galbraith quan
niệm chinh sách buông thả tự do từ lâu đã không thích hợp và tuyên bố rằng
quản lí, điều tiết, kế hoạch mới là nhu cầu bức xúc của thời đại. Ngày nay, nhà
nước và hệ thống công nghiệp ngày càns hoá thành một thể như là hiện tượng
cộng sinh của hệ thống kế hoạch và quan chức nhà nước. [32, tr.231]
10
Mặc dù vậy, chủ nghĩa tự do kinh tế mới cũng chưa phải là lời eiải hoàn
mĩ vì với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, càng ngày người ta càng
nhận thấy vai trò của nhà nước không còn như trước nữa. Từ những năm 60 70 của thế kỉ XX, ở Mỹ đã hình thành trườns phái chính hiện đại (còn gọi là
chủ nghĩa thể chế hiện đại) mà lí thuyết về nền kinh tế hổn hợp là tư tưởng
trung tâm của trường phái ấy. P.A. Samuelson, đại diện của trường phái chính
hiện đại cho rằng: "Cả thị trường và nhà nước đều cần thiết cho nền kinh tế
vận hành lành mạnh. Thiếu cả hai điều này thì hoạt động của nền kinh tế hiện
đại chẳng khác gì vỗ tay bảng một bàn tay”.[45, tr.94] Trong quan niệm của
P.A. Samuelson, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế mà trong đó
người tiêu dùng và nhà kinh doanh tác động lản nhau qua thị trường để xác
định 3 vấn đề trọng tâm là "cái gì"; "như thế nào"; và "cho ai".[45, tr.63] Trên
thị trường, giá cả là tín hiệu của xã hội, sự biến động của giá cả làm cho trạng
thái cân bằng cung cầu thường xuyên biến đổi.' Nhưng "bàn tay vô hình" nhiều
khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm, đó là những khuyết tật của nền
kinh tế thị trường như ô nhiễm môi trường mà doanh nghiệp không phải trả
giá; độc quyền, khủng hoảng, thất nghiệp; sự phân phối thu nhập bất bình
đẳng. "Bàn tay hữu hình" gồm thuế, chi tiêu của nhà nước và luật lệ. Nhà nước
có các chức năng chính là thiết lập khuôn khổ pháp luật hay các quy tắc "trò
chơi" kinh tế mà doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà nước đều phải tuân
theo; sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường có hiệu quả; đảm
bảo nguyên tắc công bằng trong nền kinh tế thị trường; ổn định kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế thị trường luôn đứng trước vấn đề nan giải ở tầm vĩ mô là duy trì
đều trong thời gian dài tự do kinh doanh, lạm phát thấp và việc làm đầy đủ nên
nhà nước phải đưa ra được quyết định hợp lí ở phạm vi này. Nếu A. Smith gọi
các quy luật kinh tế là “bàn tay vò hình’’ thì theo tư tưởng của p. A.
Samuelson, sự điều chỉnh, can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường
có thể được ví là ;ibàn tay hữu hình” và "bàn tav hữu hình" cũng có những hạn
11
chế, phản tác dụng nếu nhà nước lựa chọn không đúng. Học thuyết về nền
kinh tế hỗn hợp phản ánh nhận thức mới của con người là cần phải biết kết
hợp tốt vai trò của cả hai yếu tố là nhà nước và quy luật kinh tế khách quan
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nầưng đến nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ thì tư tưởng về sự can thiệp "tối thiểu" của nhà nước vào các quan
hệ kinh tế (laissez faừe) như trước đây không còn đủ liều lượng cần thiết nữa
và trường phái mới đã ra đời với tư tưởng là cần phải có chính quyền nhà nước
mạnh, với khả năng can thiệp sâu vào nền kinh tế. [8, tx. 103]
Bức tranh về lịch sử kinh tế thế giới hiện đại có mảng hiện thực xã hội và
lí thuyết quan trọng khác là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế XHCN, sự
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo lí tưởng XHCN. Chính điều này cũng phản ánh quá trình chuyển đổi sâu
sắc những vai trò của nhà nước XHCN đối với các quan hệ kinh tế. Học thuyết
của chủ nghĩa Mác - Lênin vạch rõ, trong xã hội XHCN, trên cơ sở chế độ
Công hữu về tư liệu sản xuất, nhà nước thực hiện chức năng tổ chức và quản lí
toàn bộ các khâu của quá trình tái sản xuất một cách có kế hoạch; thực hiện
nguyên tắc làm theo năng lực, phân phối theo lao động. Như vậy, theo mô
hình xã hội tương lai của chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhà nước XHCN có vai
trò kinh tế vô cùng to lớn, nhà nước XHCN không còn là nhà nước theo đúng
nguyên nghĩa truyền thống là bộ máy thống trị và áp bức của giai cấp đang
thống trị trong xã hội mà là “nửa” nhà nước [31, tr.110] - nhà nước XHCN
đóng vai trò tổ chức quản lí kinh tế - xã hội là vai trò đặc thù. V.I. Lênin là
người phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới trong điều kiện CNTB trở
thành CNTB độc quyền nhà nước. Khi Cách mạng tháng Mười thành công ở
nước Nga, Người nói: Bảy giờ, nhiệm vụ của chính quyền xô viết là phải quản
lí nước Nga. Lênin đã vận dụnơ sáng tạo những nguyên lí của đường lối cách
mạng XHCN phù hợp với điều kiện cụ thể của nước Nsa và đề ra chính sách
kinh tế mới (NEP) thay cho chính sách cộng sản thời chiến. NEP đã kết hợp
vai trò của các quá trình kinh tế hàng hoá khách quan với vai trò chủ động,
tích cực của chính quyền xô viết trong việc phát triển nền kinh tế phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, sau khi Lênin mất, NEP không còn
được thi hành và CNXH hiện thực đã phát triển theo hướng khác. Những
người thực hiện đường lối cách mạng XHCN theo chủ nghĩa Mác - Lênin đã
xây dựng mô hình kinh tế kế hoạcn hoá tập trung, thực chất là đã phủ nhận
hàng loạt các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật canh tranh; nhà nước hoá hầu hết các quan hệ
và hoạt động kinh tế, thực hiện chế độ bao cấp toàn diện.ìsau khi Liên Xô ra
đời (năm 1924) và sau Đại chiến thế giới lần thứ n , hệ thống các nước XHCN
được hình thành, trong hệ thống kinh tế thế giới có thêm nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung. Lúc này, quan điểm lí luận cứng nhắc về CNXH cho rằng trong
CNXH, nền kinh tế phải là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung (vào tay nhà
nước) bởi lẽ nhà nước XHCN là người đại diện cho sở hữu toàn dân, nắm giữ
hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Vì thế, nhà nước XHCN phải
trực tiếp gánh lấy sứ mạng tính toán và tổ chức thực hiện việc phân phối, từ
phân phối các nguồn lực sản xuất, quy đinh cơ cấu sản xuất đến phân phối
hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ cho từng cá nhân; trực tiếp quản lí mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh bằng kế hoạch và thông qua hàng loạt các chỉ tiêu
pháp lệnh. Suốt mấy thập kỉ, quan niệm về nền kinh tế XHCN với cơ chế kinh
tế kế hoạch hoá tập trung đã trở thành mẫu hình ngự trị ở các nước XHCN.
Cuối thế kỉ XX, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội,
các nước XHCN đã phải chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường... Dù với phương thức chuyển đổi khác nhau,
những bước đi và mức độ thành công khác nhau nhưng thực tế cho thấy những
kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát, phục hồi và bước đầu tăng trưởng kinh tế; các thể chế của
nền kinh tế thị trường đã dần dần hình thành và phát huy tác dụng tích cực
song song'với việc chuyển đổi hệ thống pháp luật và thiết chế nhà nước; từ nội
dung đến phương thức quản lí kinh tế của nhà nước ở các nước đã được
chuyển đổi. Tuy không phải tất cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đều giữ đinh hướng XHCN
nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở các
nước, có thể đúc rút được những vấn đề chung như sau: Một là không thể có
một mô thức đổng nhất và giản đơn cho mọi nước trong chuyển đổi. [62, tr.24]
Hai là nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải
cách, chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng của chính sách của nhà
nước cũng như sự điều tiết có hiệu quả của nhà nước mới có ý nghĩa quyết
định sự thành công của công cuộc chuyển đổi. [62, tr.49-50] Ba là quá trình
chuyển đổi_sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự đồng bộ không phải chỉ
trong các chính sách kỉnh tế mà còn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những
thiết chế nhà nước và hệ thống luật pháp.[38, tr.66]
Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước trên thế
giới như đã nêu trên, có thể thấy cuộc tìm kiếm mô hình kinh tế hợp lí và vai
trò đích thực của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ở các nước từ xưa đến nay
vẫn còn đang tiếp tục. Mỗi mô hình kinh tế cũng như mỗi lí thuyết kinh tế ở
các nước đều có những yếu tố hợp lí và có giá trị tham khảo nhất định, đặc
biệt là vấn đề vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại và vai
trò của nhà nước XHCN trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là những vấn đề có ý nghĩa to lớn đối
với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đó cũng chính là các cơ sở lí luận và thực
tiễn trong lịch sử quốc tế cho việc nhận thức vai trò kinh tế của Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam.
1.1.2.
Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
* Quá trình xác lập nền kinh tế k ế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam
Nhìn từ ngọn nguồn lịch sử thì ngay từ buổi đầu, chính quyền nhà nước
Việt Nam đã đóng vai trò tổ chức thực hiện việc mở mang, phát triển kinh tế
nông nghiệp, trị thủy, đắp đê ngăn lũ... Nghề trổng lúa là nghề gốc của đất
nước; ruộng đất và nông dân là hai yếu tố quyết đinh của nền kinh tế nông
nghiệp. VI thế, các triều đại phong kiến Việt Nam đều thi hành chính sách
trọng nông, chăm lo phát triển nền nông nghiệp, khắc phục những điểm bất lợi
của thiên nhiên, đẩy mạnh khai hoang, mở rộng đất canh tác... Đó là mặt tích
cực trong các chính sách kinh tế của nhà nước phong kiến Việt Nam mà mỗi
triều đại lại góp phần tô đậm thêm truyền thống văn minh lúa nước của dân
tộc.
ở Việt Nam, vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện rõ nét nhất dưới
chế độ dân chủ nhân dân được thiết lập từ thành quả của Cách mạng tháng
Tám năm 1945, đặc biệt là trong quá trình đổi mới đất nước từ năm 1986 đến
nay - quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhìn lại quá trình lịch sử hơn nửa thế kỉ
qua, có thể thấy vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ngày
càng to lớn và vai trò đó cũng vận động biến đổi theo mỗi bước phát triển của
đất nước đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam - Hiến pháp năm 1946 đã
khẳng định: "Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được đảm bảo" (Điều 12).
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, với Nghị quyết ngày 7/11/1946, Quốc hội đã
giao nhiệm vụ cho Chính phủ là nếu chưa có điều kiện thi hành hiến pháp thì
dựa vào các nguyên tắc của hiến pháp, ban hành các sắc luật để điều hành đất
15
nước.[23, tr.387] Trên thực tế, mặc dù trong; điều kiện kháne chiến đầy khó
khăn, gian khổ nhưng các sắc lệnh được ban hành trong thời kì này đã thể hiện
khá rõ chế độ quản lí của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đối với nền
kinh tế nhiều thành phần. Mặc dù, Hiến pháp năm 1946 không được thi hành
trên thực tế nhưng tinh thần và các nguyên tắc của nó đã thấm đượm trong các
chính sách do Chính phủ kháng chiến và Chủ tịch nước ban hành. Luật cải
cách ruộng đất năm 1953 đã đem lại ruộng đất cho người nông dân, ghi nhận
bước chuyển biến cách mạng vô cùng sâu sắc trong đời sống kinh tế chính trị
của đất nước. Ngoài việc quản lí thành phần kinh tế quốc doanh nhằm trực
tiếp cung cấp các nguồn lực cho sự nghiệp kháng chiến, Nhà nước còn động
viên khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát huy truyền thống yêu
nước thương; nòi ủng hộ vật chất và tinh thần một cách mạnh mẽ cho sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Có thể nói, đó là chế độ quản lí kinh tế dân
chủ. tôn trọng quyền tự do, bình đẳng, quyền tự chủ của các cá nhân, tổ chức
kinh tế-[13, tr.3] Nguvên tắc quản lí kinh tế của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ở thời kì này được thể hiện súc tích, cô đọng trong bốn điểm có tính
mấu chốt do Bác Hồ nêu ra là: 1. Công tư đều lợi; 2. Chủ thợ đều lợi; 3. Công
nông giúp nhau; 4. Lưu thông trong ngoài.[35, tr.221-222]
Đặc biệt, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bằng các văn bản pháp
luật. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã xác lập chế độ quản lí kinh tế
của Nhà nước đối với thành phần kinh tế quốc doanh, ở giai đoạn này, Chủ
tịch nước đã ban hành các văn bản pháp luật như sắc lệnh số 104/SL ngày
1/1/1948, Sắc lệnh số 09/SL ngày 25/2/1949 bổ sung sắc lệnh số 104/SL nêu
trên Các sắc lệnh này quv định doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu quốc
gia do Nhà nước quản lí; nhiệm vụ của xí nghiệp quốc gia là sản xuất ra các
sản ohẩm đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh
tế tnng nước, bảo vệ kinh tế và tăng thêm tài chính quốc gia; xí nghiệp có vốn
tự tiị và khôns thuộc ngàn sách hàng năm. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã
lố
ban hành Điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc doanh kèm theo Nghị định số
214/TTg ngày 31/10/1952 xác định vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh
quy định xí nghiệp quốc doanh là pháp nhân có trách nhiệm trước bộ chủ quản
về thực hiện kế hoạch và quản lí tài sản. Đổng thời, ngày 18/10/1953 Chủ tịch
nước cũng ban hành sắc lệnh òố 118/SL quy định về chế độ quản lí dản chủ
trong xí nghiệp quốc doanh.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải
phóng, Nhà nước bắt đầu thực hiện chế độ kế hoạch hoá toàn diện, chế độ
hạch toán kinh tế, hợp đổng kinh doanh (từ năm 1960 là hợp đồng kinh tế) và
khuyến khích vật chất trong các xí nghiệp quốc doanh. Việt Nam bước vào
thời kì vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam,
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, v ề chế độ kinh tế, với Hiến pháp
r.ăm 1959, lần đầu tiên ở Việt Nam, nền kinh tế XHCN chính thức được ghi
r.hận về mặt pháp lí. Hiến pháp năm 1959 quy định đường lối kinh tế của Nhà
r.ước trong giai đoạn này la biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế XHCN
với công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến;
xác định mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nhà nước là phát triển
sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; quy định
các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là sở hữu nhà nước, sở hữu hợp tác xã, sở hữu người lao động cá thể và
sb hữu nhà tư sản dân tộc; xác định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo
ừong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên; quy
định các đối tượng sở hữu toàn dân; Hiến pháp năm 1959 cũng quy định Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của người
nòng dân; bảo hộ quvền tư hữu về tư liệu sản xuất của người lao động thủ
ò n g riêng lẻ, của nhà tư sản dân tộc; bảo hộ quyền sở hữu của công dân về
cìa cải; thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các vật dụng riêng khác,
tảo hộ quyền thừa kế của công dân. về vaiịtrò quản ịí 'kin! ịệ cuỊ Nhà nước,
I .
'
i
THƯ VIỆN
trương đ ạ i h o c
phòng s ó c
^ [ ■ .L /lứ id ẩ ị
LỨÂĩ hà nô i
17
Hiến pháp năm 1959 khẳng định: "Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo
một k ế hoạch thống nhất"- (Điều 10 Hiến pháp 1959).
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, khi đã giành được độc lập trọn vẹn
và thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào thời kì phát triển mới - thời kì cả
nước cùng đi lên CNXH. Từ Hiến pháp năm 1980, nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung được khẳng định với sự độc tôn của thành phần kinh tế XHCN đổng
thời những quy định của Hiến pháp năm 1980 cũng được triển khai một cách
mạnh mẽ trong thực tế đời sống kinh tế - xã hội. Lúc này, vai trò kinh tế của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được xác định và đề cao là Nhà nước
quản lí nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch tập trung thống nhất; Nhà nước giữ
độc quyền vể ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế với nước ngoài; tiến hành
cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế TBCN ở thành thị và nông thôn;
Các cơ sở kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã kinh doanh theo phương hướng,
nhiệm vụ kế hoạch của nhà nước; Nhà nước tổ chức nền sản xuất xã hội theo
hướng sản xuất lớn XHCN. Như vậy, đến nhữns năm 80 của thế kỉ XX, vai trò
kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
đã được xác lập, củng cố và trở thành điển hình cho vai trò kinh tế của Nhà
nước trong mô hình kinh tế ấy.
*
Đặc trưng vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
trong nền kinh tế k ế hoạch hoá tập trung
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đặc trưng vai trò kinh tế của
Nhà nước được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Nhà nước đóng vai trò là nsười sở hữu duv nhất đối với hầu hết các tư
liệu sản xuất của xã hội như đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoáng
sản, các loại tư liệu sản xuất khác;
- Nhà nước đóng vai trò là nsười tổ chức trực tiếp hoạt động kinh tế từ
khâu cung ứng vật tư, nguyên liệu, điều hành sản xuất đến khâu phân phối sản
18
phẩm xã hội; Chính quyền không phàn biệt với đơn vị sản xuất: cán bộ, cônơ
chức nhà nước không phân biệt với nhà kinh doanh;
- Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh
và các mệnh lệnh hành chính;
- Nhà nước thực hiện vai trò quản lí nền kinh tế khép kín trong phạm vi
cất nước;
- Nhà nước bảo vệ trật tự kinh tế bằng biện pháp kỉ luật hành chính.
Nhìn chung, Nhà nước vừa là chủ sở hữu vừa là nhà điều hành trực tiếp
hoạt động kinh tế lại vừa là cơ quan công quyển đóng vai trò tổ chức, quản lí
nền kinh tế trong nội bộ quốc gia.
Từ cuối những năm 70 đến những năm 80 của thế kỉ XX, do việc tiếp tục
chy trì nền kinh tế hiện vật với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chế độ Nhà
rước bao cấp tràn lan nên nền kinh tế Việt Nam bị trì trệ. Trước những hậu
qiả nặng nề của các cuộc chiến tranh ác liệt và chính sách bao vây, cấm vận
cia chủ nghĩa đế quốc, sự bất cập của cơ chế quản lí kinh tế của Nhà nước đã
lè nguyên nhân trực tiếp làm cho khủng hoảns kinh tế - xã hội ở Việt Nam
n?ày một trầm trọng hơn và thật sự là lúc này Việt Nam đang phải đối mặt với
thử thách có tính lịch sử.
Với tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật khách quan để nhận rõ những
sã lầm, khuyết điểm, Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu quyết tâm đưa đất
nĩớc vượt ra khỏi khủng hoảng. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986,
Đảng cộng sản Việt Nam đóng vai trò là người khởi xướng và lãnh đạo công
CIỘC đổi mới, đưa đất nước bước vào giai đoạn cách mạng mới, trong đó xây
dtng và phát triển nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN được xác định là
nliệm vụ trọng tâm.
1.1.3.
Vai trò kinh tế của Nhà nước Công hoà XHCN Viêt Nam tronơ
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
*
Ouá trình chuyển đổi từ nền kinh tế k ế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Đổi mới ở Việt Nam được xác đinh trước hết là đổi mới chính sách và cơ
chế quản lí kinh tế một cách vững chắc làm cơ sở cho sự đổi mới hệ thống
chính trị. Thể chế hoá đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Hiến pháp năm
1992 vừa kế thừa truyền thống hiến pháp Việt Nam, tiếp tục khẳng định những
giá trị và thành quả của cách mạng XHCN đổng thời xác lập và củng cố vai
trò kinh tế mới của Nhà nước. So với thời kì bao cấp, vai trò kinh tế của Nhà
nước theo Hiến pháp 1992 đã chuyển đổi về căn bản. Từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, đơn thành phần chuvển sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt
động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, vai trò kinh tế của Nhà nước*
Cộng hoà XHCN Việt Nam cũng chuyển đổi là Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; Nhà nước thừa nhận
quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước; thống nhất quản lí kinh tế đối ngoại; khuyên
khích đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước; thống nhất quản lí kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp
quản lí nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và-lợi ích nhà nước; Nhà nước quy định chế độ sử dụng hợp lí tài nguyên,
bảo vệ môi trường, bảo hộ quvền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng,
thực hiện chính sách tiết kiệm.
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam diễn ra tuần tự từng bước: Bắt đầu từ nông nghiệp,
nòng thôn rồi mới đến cônơ nghiệp và dịch vụ ở các thành thị; từ ''khoán chui,
Làm lén, phá rào, tháo gỡ đến thể chếhoá hoạt động của thị trường”.[10, tr.25]
20