Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Xác định tài sản của vợ chồng, một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.01 MB, 109 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HỒNG HẢI

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA

v ợ

CHổNG

MỘT
• SỐ VẤN ĐỂ VỀ LÝ LUẬN VÀ THựC TIÊN




Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã sỗ : 50507

LUẬN
■ VĂN THẠC
• s ĩ LUẬT
• HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



TS. Đinh Trung Tụng
THƯ VIỆN
TRƯỜNG OAI HỌC LUẬT HÀ NÔI
PHỎNG DOC-'
HÀ NỘI - 2002


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai
công bố trong các công trình khác.

Tác giả luận văn


MỤC LỤC

ran
1

PHẦN MỞ ĐẦU
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ TÀI SẢN CỦA

vợ CHỔNG

4


Khái niệm tài sản và tài sản của vọ chồng

4

Khái niệm tài sản

4

Khái niệm tài sản của vợ chồng

7

Tài sản của vợ chồng trong pháp Luật HN&GĐ của

10

một sô nước trên thc giói
Tài sẩn của vợ chồng được xác định trên cơ sở hôn ước -

10

C hế độ tài sản ước định
Tài sản của vợ chồng được xác định theo các căn cứ luật

13

định - C hế độ tài sản pháp định
Chế đô tài sản cộng đồng

14


Chế độ phân sản

16

Khái quát về tài sản của vợ chồng trong pháp luật

17

HN&GĐ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ trước Cách

17

mạng tháng Tám năm 1945
Tài sản của vợ chồne trong c ổ luật Việt Nam

17

Tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ thời kỳ

20

Pháp thuộc
Tài sản của vợ chồìlệ trong pháp luật HN&GĐ từ sau Cách

23

mạng tháng Tám năm ỉ 945 đèn nay
Tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ thời kỳ tiến

hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân (1945 - 1954)

23


1.3.2.2.

Tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của chế độ

24

Cộng hoà Ngụy quyền miền Nam Việt Nam (1954 - 1975)
1.3.2.3.

Tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ ở miền Bắc

28

XHCN giai đoạn 1954 - 1975 và của nước CHXHCN Việt
Nam từ năm 1976 đến nay
Chương 2

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA v ợ CHỔNG THEO PHÁP LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH

( 9

Xác định tài sản chung của vợ chồng

33


2.7.7.

Căn cí( xác định tài sản chung củavợ chồng

34

2 . 1. 1. 1.

Thời điểm phát sinh tài sản chung

34

2 . 1. 1. 2 .

Nguồn gốc tài sản chung

2.].1.3.

/

37

Xác định tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp tài • \43 )

^ sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân
C h ế độ tài sản chung

47


2 . 1. 2 . 1.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất

47

2 . 1. 2 . 2 .

Tài sản chung của vợ chồng phải được đăng ký theo quy

50

'Tỷ 2.1.2.

định của pháp luật

2 .2 .

Xác định tài sản riêng của vợ, chồngv

52

2.2.7.

Căn cứ xác định tài sản riêng

53

2 . 2 . 1. 1 .


Tài sản của vợ, chồng có trước khi kết hôn

53

2 . 2 . 1. 2 .

Tài sản của vợ, chồng được thừa kế, được tặng cho riêng

54

trong thời kỳ hôn nhân
2 . 2 . 1. 3 .

Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân

54

2 . 2 . 1. 4 .

Tài sản vợ chồng được chia trong trường hợp chia tài sản

56

chung khi hôn nhân còn tồn tại
2.2.1.5.

Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài

56


sán riêng của vợ, chồng tronơ thời kỳ hôn nhân
2 .2 .2 .

C h ế đọ tài sán liêng của vợ, chồng

59


Nghĩa vụ tài sản của vợ chồng

61

Căn cứ xác định nghĩa vụ tài sản của vợ chồnq

62

Nghĩa vụ tài sẩn chung của vợ chồnẹ

64

Nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồnẹ

67

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA

vợ CHỔNG TRONG THỤC TlỄN

XÉT XỬ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


Xác định tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử

69

Nhận xét chung

69

Một số vấn đề về xác định tài sản cãa vợ chồng trong thực

73

tiễn xét xử
Công nhận sự thoả thuận của vợ chồng

74

Xác định thời điểm và nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ

76

chổng
Định giá tài sản của vợ chồng

78

Xác định nghĩa vụ tài sản của vợ chồng

80


Tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất

86

Một sỗ kiến nghị nhằm hoàn thiện chẽ định tài sản

87

của vợ chồng
Nhữnq kiến nghị nhằm cụ thể hoá các quy định của Luật

87

HN&GĐ về tài sán của vợ chồng
Những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Toà

92

án trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến lài sản
của vợ chồng
Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng ch ế định

94

tài sản của vợ chồng trong đời sống xã hội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ Luật Dân sự

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

DLBK

Bộ Dân luật Bắc Kỳ

DLGYNK

Bộ Dân luật Giản yếu Nam Kỳ

DLTK

Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật

HĐTPTANDTC

Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình


Luật HN&GĐ

Luật hôn nhân và gia đình

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP

Nghị định số 70/2001/NĐ- CP ngày 3/10/200L
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
hôn nhân và gia đình

Nghị định số 77/2001/NĐ-CP

Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết ve đăng ký
kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10
của Quốc hội khóa X về thi hành Luật hôn
nhân và gia đình

Nghị quyết số 02/2000/NQ

Nghị

HĐTP

23/12/2000 của Hội đổng Thẩm phán Toà án

quyết

số


02/2000/NQ-IĨĐTP ngày

nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Nghị quyết số 35/2000/QH10

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000
của Quốc hội khoá X hướng dẫn thi hành Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Toà án nhân dân

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI

Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường có định
hướng XHCN. Sự đổi mới tích cực trong đời sống kinh tế, xã hội đã làm cho các
quan hệ HN&GĐ có những thay đổi sâu sắc, đồng thời cũng chịu những tác
động tiêu cực. Một trong các thay đổi sâu sắc nhất, là việc thực hiện chức năng
kinh tế trong gia đình. Hiện nay, việc vợ chồng tham gia rộng rãi vào các giao
dịch dân sự, kinh tế đã trở thành một tất yếu khách quan, với mục đích không chỉ
nhằm đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của gia đình mà còn nhằm làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội. Kết quả là, đời sống vật chất, tinh thần của vợ,
chồng, của gia đình được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, các tranh chấp liên quan
đến tài sản của vợ chồng cũng vì thế ngày càng phức tạp và gay gắt, trở Ihành
một hiện tượng xã hội dành được sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nước và
nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội khoá X thông
qua ngày 9/6/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2001 với nhiều qui định mới so với
Luật HN&GĐ năm 1986, trong đó có các qui định về tài sản của vợ chồng; tạo
cơ sở lý luận mới cho việc nghiên cứu khoa học Luật HN&GĐ nói chung và chế
định tài sản của vợ chồng nói riêng.
Trong những năm qua, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến chế định tài sản của vợ chồng. Ở mức độ nhất định, đã làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cơ bản về tài sản của vợ chồng, tạo ra một cái nhìn khá đầy
đủ về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tế chưa có một công trình nghiên cứu độc lập
về tài sản của vợ chồng theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000. Bên cạnh đó,
írong thực tiễn xét xử của Toà án các cấp, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan
khác nhau, việc áp dụng các qui định về tài sản của vợ chồng vẫn còn nhiều khó
khăn, vướng mắc và thiếu sót. Thực trạng nêu trên cho thấy, sự cần thiết phải có
một công trình nghiên cứu sâu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Đây cũng là lý do
để tác giả chọn và nghiên cứu đề tài: “Xác định tài sản của vợ chồng - Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn”.


2

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN c ứ u CỦA ĐỂ TÀI

Thông qua việc phân tích các căn cứ xác định tài sản của vợ chồng trong
Luật HN&GĐ và thực tiễn nghiên cứu, áp dụng chế định này trong những năm
gần đây, luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng chế
định tài sản của vợ chồng, đưa ra những kết luận và kiến nghị nhằm hoàn thiện
chế định này, góp phần đưa Luật HN&GĐ năm 2000 thực sự đi vào thực tiễn đời
sống xã hội.
3. PH ẠM VI NGHIÊN c ú u CỦA ĐỂ TÀI

Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cụ thể sau:
- Những vấn đề lý luận liên quan đến tài sản của vợ chồng theo qui định
của pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành;
- Việc xác định tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử của TAND các
cấp trong những năm gần đây;
- Đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định về
tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ hiện hành.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u CỦA ĐỂ TÀI

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về HN&GĐ.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng chủ yếu, xuyên suốt đểlàm sáng tỏ
những nội dung trong phạm vi nghiên cứu của đề tài;
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để kháiquát hoá các nội dung
nghiên cứu một cách có hệ thống, ngắn gọn, súc tích.

- Phương pháp so sánh: Được sử dụng so sánh qui định của pháp luật về tài
sản của vợ chồng trong lịch sử và giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của
một số nước trên thế giới.
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng để cung cấp các số liệu có liên quan
đến xác định tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử.
5. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u VÀ NHŨNG ĐIỂM m ớ i c ủ a l u ậ n v ã n

Trong những năm qua, chế định tài sản của vợ chồng đã được nghiên cứu
trong một số giáo trình giảng dạy thuộc các chuyên ngành Luật HN&GĐ và


3

Luật dân sự (Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, Giáo trình Luật dân sự Việt
Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002; Giáo trình Luật HN&GĐ Việt
Nam của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2001...) hoặc được nghiên
cứu trong một số sách chuyên khảo, một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật
học, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Toà án nhân dân, báo Pháp
luật...Nhưng nhìn chung, các công trình nói trên mới chỉ đề cập tài sản của vợ
chồng trong chế độ tài sản của vợ chồng nói chung hoặc nghiên cứu trong phạm
vi các qui định của Luật HN&GĐ năm 1986, chưa có công trình nào nghiên cứu
riêng về tài sản của vợ chồng theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000 như là
một công trình độc lập. Vì vậy, luận văn này với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra
nhũng điểm mới của việc nghiên cứu như sau:
- Tiếp cận tài sản của vợ chồng trên hai phương diện: Tài sản thuộc quyền
và tài sản thuộc nghĩa vụ theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000;
- Phân tích thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ
chồng, qua đó chỉ ra được những vấn đề cần phát huy, những vấn đề cần khắc
phục kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án;
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị cần thực hiện trong thòi gian tới để

khắc phục những nguyên nhân chủ quan và khách quan làm giảm hiệu quả áp
dụng chế định tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000.
6. KẾT CÃU LUẬN VẪN

Luận văn được kết cấu thành 3 chương, với 8 mục lớn và 40 tiểu mục, được
trình bày trong khuôn khổ 99 trang giấy khổ A4, cụ thể:
Phần mở đầu
Chương 1: Khái quát chung về tài sản của vợ chồng
Chương 2: Tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ hiện hành
Chương 3: Xác định tài sản của vợ chồng trong thực tiễn xét xử và một số
kiến nghị
Kết luận


4

Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN CỦA vợ CHồNG

1.1. KHÁI NIỆM TÀI SẢN VÀ TÀI SẢN CỦA v ợ CHỔNG

1.1.1. Khái niệm tài sản
Trong khoa học luật dân sự, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu và là
khách thể của phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, vì vậy, tài sản luôn chiếm
một vị trí quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của
các nước trên thế giới. Tuy nhiên, tài sản là một thuật ngữ phức tạp được hiểu
theo nhiều quan niệm khác nhau, ở Việt Nam, thuật ngữ tài sản có thể được hiểu
trên hai quan niệm: thông thường và phương diện pháp lý. Tài sản hiểu theo
quan niệm thông thường là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc

tiêu dùng [37, tr 853]. Theo nghĩa hẹp này, tài sản chỉ là một bộ phận của thế
giới vật chất - vật cụ thể, được con người sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc
tiêu dùng. Do đó, nếu đặt trong thực tiễn đa dạng và phong phú của các giao lưu
dân sự thì quan niệm này không phù hợp. Trong thực tiễn giao lưu dân sự hiện
nay, tài sản không còn được hiểu đơn thuần ở dạng thức vật chất cụ thể như quan
niệm thông thường, nó đã được biểu thị ở các dạng thức khác như tiền, giấy tờ trị
giá được bằng tiền, hoặc quyền tài sản... Thực tế đó, đã yêu cầu các nhà làm luật
phải đưa ra khái niệm về tài sản đầy đủ, cụ thể hơn với yêu cầu cơ bản nhất đặt
ra đối với tài sản là tài sản đó phái được trị giá được bằng tiền và được đưa vào
giao lưu dân sự. Trên phương diện pháp lý, tài sản được hiểu theo nghĩa rộng
dưới nhiều dạng thức khác nhau, Điều 172 BLDS nước CHXHCN Việt Nam đã
qui định tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ
trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.
* Vật có thực
Trong tự nhiên và xã hội, vật hiểu theo nghĩa “cái cỏ hình khối, tồn tại
íronq không qian, có th ể nhận biết được" [37, tr 1068] tồn tại ở nhiều dạng và
hình thức khác nhau, nhưng một vật chỉ trở thành tài sản tham gia giao lưu dân


5

sự khi chúng là vật có thực. Vật có thực trước hết ỉà một bộ phận của thế giới vật
chất, có thể là vật tự nhiên (khoáng sản, đất đai, rừng, động vật hoang dã...) hoặc
do con người sản xuất, chế tạo ra (nhà ở, nông sản do trồng trọt hoặc chăn nuôi,
tàu thuyền, ô tô, xe máy...). Những vật này phải đem lại lợi ích cho con người,
được con người sử dụng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng
và có thể đưa vào ỉàm đối tượng của quan hệ dân sự. Ở góc độ này, vật có thực
được hiểu là của cải được con người sử dụng. Bản thân khái niệm “của cải” luôn
biến đổi và tự hoàn thiện theo quan niệm của con người về giá trị vật chất. Dưới
thời chế độ chiếm hữu nô lệ, của cải gắn liền với ruộng đất, gia súc, mùa màng...

và cả nô lệ, nhưng dưới xã hội hiện đại của cải không thể bao gồm nô lệ, đồng
thời lại xuất hiện những tài sản đặc biệt như phần mềm tin học, năng lượng hạt
nhân...
Ngoài hai thuộc tính ỉà một bộ phận của thế giới vật chất và có ích cho con
người, vật có thực phải là vật mà con người có thể chiếm giữ được. Tức là có thể
thuộc về riêng một người nào đó, một chủ thể nào đó trong quan hệ pháp luật
dân sự. Đây là một điều kiện quan trọng, trên thực tế rất nhiều vật trong thế giới
vật chất có ích cho con người, nhưng không phải là tài sản trong giao lưu dân sự
vì con người chưa chiếm giữ được những vật đó. Ví dụ, con người luôn sử dụng
không khí nhưng nếu là không khí nói chung thì chưa thể coi đó là tài sản,
nhưng khi thông qua sản xuất công nghiệp, con người đã nén Ô-xi vào bình phục
vụ cho y học, sản xuất hoá chất... Ô xi đã trở thành tài sản trong quan hệ pháp
luật dân sự.
* Tiền
Tiền hiểu theo nghĩa vật có thực ỉà “vậr đúc bằng kim loại hay in bằng giấy
do ngân hànẹ nhát hành, dùng làm đơn vị tiền tệ” [37, tr 950]. Dưới góc độ kinh
tế học, tiền là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hoá và là phương tiện lưu
thông trong giao lưu dân sự. Với giá trị và vai trò như vậy, tiền được xác định là
tài sản đặc biệt và quí; đồng thời, tiền không đơn thuần ỉà tài sản, mà còn có tư
cách đại diện cho chủ quyền của mỗi quốc gia, mỗi chế độ nhà nước, bởi vì
chính Nhà nước là người bảo đảm sự cân bằng giữa tiền và trị giá của vật. Với tư


6

cách đại diện cho chủ quyền của một quốc gia, người có tiền (chủ sở hữu) không
thể có toàn quyền định đoạt, mà phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của Nhà
nước [39, tr 89]. Ví dụ: Trong một số giao dịch dân sự pháp luật yêu cầu thanh
toán bằng tiền Đồng Việt Nam, nếu dùng tiền của nước ngoài (ngoại tệ) hợp
đồng đó là vô hiệu

* Giấy tờ trị giá được bằng tiền
Giấy tờ trị giá được bằng tiền được hiểu là: “Giấy tờ có giá trị tương đương
như tiền mà các chủ tlĩể dùng đ ể thanh toán trong giao dịch dân sự ' [33, tr 63].
Như vậy, một giấy tờ chỉ trở thành tài sản khi đảm bảo được hai thuộc tính: Trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự. Nếu so sánh với
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền là phương tiện thanh toán tiện lợi và có hiệu
quả hơn nên ngày càng được sử dụng rộng rãi, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế thị trường. Trong thực tế hiện nay, đang lưu hành phổ biến các loại giấy tờ trị
giá được bằng tiền sau: thẻ tín dụng, sổ tiết kiệm, giấy uỷ nhiệm chi, trái phiếu,
séc, cổ phiếu... mà trong đó có xác định rõ giá trị của nó tương đương với một
khoản tiền nhất định, ví dụ: sổ tiết kiệm trị giá 50 triệu đồng, cổ phiếu có mệnh
giá 1 triệu đồng.... Cũng có loại vừa xác định giá trị của nó tương đương với một
khoản tiền nhất định, vừa xác định quyền phát sinh kèm theo nó, như quyền
hưởng lãi suất ngân hàng (sổ tiết kiệm), quyền hưởng lợi tức (cổ phiếu). Những
giấy tờ trị giá được bằng tiền được coi là tài sản khi nó được bảo đảm bằng chính
tài sản hay khoản tiền được xác định trong đó và được sử dụng như tiền nếu pháp
luật có qui định, như: thẻ tín dụng, tín phiếu thanh toán... Việc sử dụng các loại
giấy tờ trị giá được bằng tiền phải tuân theo qui chế pháp lý và thủ tục đặc biệt
của cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, theo pháp luật Việt Nam, cơ quan đó là
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
* Quyền tài sản
Quyền lài sản hiểu theo tinh thần của Điều 188 BLDS là: “Quyền của chủ
thể dối với tài sản, trị giá được bằng liền và có th ể chuyển giao trong giao lưu
dân .v//’[33, tr 107]. Quyền tài sản trước hết là quyền sở hữu, ngoài ra còn có các
quyền liên quan đến tài sản hoặc được hưởng lợi từ tài sản (quyền được hưởng


7

lợi tức của cổ phiếu, lãi suất tiết kiệm của sổ tiết kiệm, quyền đòi nợ, quyền cho

thuê tài sản...), quyền hưởng lợi từ thành quả lao động sáng tạo (quyền hưởng
nhuận bút của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, quyền nhận thù
lao của chủ văn bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, chủ của giấy chứng
nhận kiểu dáng cồng nghiệp...), những quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng...
Ngoài ra, một quyền tài sản mang tính chất đặc thù trong pháp luật Việt Nam so
với pháp luật dân sự của nước khác, đó là quyền sử dụng đất hợp pháp. Quyền sử
dụng đất cũng được coi là tài sản, vì nó bao hàm các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế. Tuy nhiên, không như các quyền tài sản
khác, đất là loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu của Nhà nước, do đó quyền này chỉ
trở thành đối tượng của giao dịch dân sự trong trường hợp nhất định và trong
phạm vi mà pháp luật qui định.
Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tài sản trong giao lưu
dân sự như sau: ‘T à i sản là vật, lợi ích vật chất khác thuộc quyền của chủ th ể ’
[33, tr 114]

1.1.2. Khái niệm tài sản của vợ chổng
Trên cơ sở phân tích khái niệm tài sản trong pháp luật dân sự, tài sản của vợ
chồng trong pháp luật HN&GĐ có thể được hiểu là: Vật và những lợi ích vật
chất khác thuộc quyền của vợ chồng, bao gồm vật có thực, tiên, giâỳ lờ trị giá
được bằng tiền hoặc quyền về tài sản. Tuy nhiên, khái niệm tài sản nêu trên mới
chỉ bao hàm tài sản thuộc quyền sở hữu mà không bao gôm tài sản nợ thuộc
nghĩa vụ tài sản của vợ chồng. Vợ, chồng ngoài tư cách là chủ thể của quan hệ
HN&GĐ còn là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, họ có thể xác
lập các quyền về tài sản nhưng đổng thời cũng phải chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ tài sản được phát sinh. Những nghĩa vụ tài sản đó là nghĩa vụ chung
hay là nghĩa vụ riêng của một bên vợ, chồng và việc thực nghĩa vụ về tài sản
được bảo đảm bằng tài sản chung hay bằng tài sản riêng luôn là vấn đề đặt ra
trong thực tế cuộc sống và trong thực tiễn pháp lý. Như vậy, việc phát sinh và
thực hiện các nghĩa vụ tài sản có ảnh hưởng rất lớn đến tài sản thuộc quyền sở
hữu của vợ chổng. Do đó, nói đến tài sán của vợ chông mù chỉ đề cặp đến vật và



8

nhũng lợi ích vật chất khác thuộc quyền mà không đề cập đến các tài sản nợ mà
vợ, chồng phải có nghĩa vụ thanh toán cho người thứ ba là không đầy đủ.
Việc qui định tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ là một yêu cầu
khách quan, nhằm cụ thể hoá các qui định về sở hữu trong BLDS và chế độ tài
sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000. Căn cứ xác định tài sản của vợ
chồng vì thế không mang tính chủ quan của nhà làm luật, mà nó được gắn liền
sự vận động phát triển của gia đình, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các giá
trị truyền thống đạo đức, phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng... của người
Việt Nam; đảm bảo vừa đáp ứng được ý nghĩa về chính trị, pháp lý, vừa có ý
nghĩa về mặt xã hội.
Quyền sở hữu của vợ chồng là đối tượng tôn trọng và bảo vệ của pháp luật
nói chung và pháp luật HN&GĐ nói liêng, với điều kiện hàng đầu-quyền sở hữu
đó phải hợp pháp. Nghĩa là, quyền sở hữu của vợ chồng phải được xác lập trên
cơ sở những căn cứ do pháp luật qui định, nhằm mục đích xác định tính hợp
pháp, hình thức sở hữu của tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và
trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở đó, Nhà nước xây dựng cơ chế pháp lý bảo
đảm việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung và tài sản riêng của vợ,
chồng. Đồng thời, giúp Nhà nước quản lý và điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến tài sản của vợ chổng, đưa chúng vào quĩ đạo chung mà Nhà nước đề ra,
đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ và hài hoà các lợi ích, nhằm xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Qui định tài sản của vợ chồng cũng tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng thực hiện
sự dân chủ và bình đẳng trong các quan hệ về tài sản. Nó qui định và tạo điều
kiện, khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm đối với gia đình của mình, cùng sát
cánh bên nhau, đồng tâm hiệp lực xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia
đình. Vợ chồng cùng nhau thoả thuận bình đẳng, lựa chọn những hình thức quản

lý, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp nhất để xây dựng và củng cố gia đình, vì
cuộc sống hạnh phúc của mỗi người, vì sự tiến bộ của mỗi thành viên trong gia
đình. Đồng thời, đảm bảo các tiền đề vật chất cho tính độc lập của vợ, chồng,
giúp họ không chỉ thực hiện tốt vai trò của nsười vợ, người chồng trong gia đình,
mà còn thực hiện tốt vai trò của người công dân - thành viên của xã hội.


9

J à i sản của vợ chồng còn đóng vai trò rất lớn trong việc đảm bảo thực hiện
chứờ kỉnh tế của gia đình. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã và đang tạo
môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi, để các gia đình và cá nhân phát huy
hết khả năng làm giàu cho mình và cho toàn xã hội. Với sự khuyến khích đó,
xuất phát từ lợi ích của gia đình hoặc vì lợi ích riêng của mình, vợ chồng đã tham
gia tích cực vào các giao dịch dân sự hoặc kinh tế, từ đó làm phát sinh các quyền
lợi và nghĩa vụ về tài sản. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường,
nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi pháp luật phải giải quyết. Qui định tài
sản của vợ chồng là cơ sở để phân định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong
việc tham gia các giao dịch về tài sản; đồng thời, cũng xác định rõ trách nhiệm
và khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong các giao dịch đó.
Mặt khác, khi vợ, chồng thiết lập các quan hệ dân sự, kinh tế bằng tài sản
của mình, tất yếu sẽ liên quan đến quyền lợi của những người thứ ba. Những
người này khi có quan hệ về tài sản với vợ chồng, họ cần phải biết giao dịch mà
họ tiến hành liên quan đến tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ,
chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó như thế nào?. Qua đó,
người thứ ba biết giao dịch được bảo đảm thực hiện bàng tài sản nào và ở mức độ
bao nhiêu?. Đó là tiền đề quan trọng tạo môi trường pháp lý thuận lợi, ổn định
cho vợ chồng thiết lập các quan hệ dân sự và kinh tế, góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần trong gia đình, qua đó cũng góp phần làm ổn định các
quan hệ ngoài xã hội và đảm bảo quyền lợi của những người khác.

Qui định tài sản của vợ chồng còn có ý nghĩa trong giải quyết các tranh
chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Với bản chất cộng đồng, cuộc hôn nhân
nào cũng nhằm xoá đi những chênh lệch, khác nhau và cả những ranh giới giữa
vợ và chồng. Khi gia đình hạnh phúc, vấn đề tài sản chung, tài sản riêng thường
không đặt ra. Vợ chồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản trong gia đình,
bao gồm cả tài sản riêng của một bên. Nhưng khi quan hệ vợ chồng phát sinh
những mâu thuẫn gay gắt, thì vấn đề được nhắc nhiều nhất, vì nó ảnh hưởng đến
quyền lợi của nhau nhiều nhất, đó là vấn đề tài sản. Khi cần thiết phải phân chia
tài sản, chế định tài sán của vc chồng là căn cứ pháp ]ý dể Toà án xác định tài


10

sản nào là của chung hai vợ chồng, từ đó, xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi
người trong đó; phân biệt tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng, để chia về
cho người đó, hoặc chia cho những người thừa kế của họ, nhằm đảm bảo tính
cồng bằng về quyền lợi của vợ, chồng khi hôn nhân không còn tồn tại.
1.2.

TÀI SẢN CỦA VỢ CHỔNG TRONG PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ

GIA ĐÌNH CỦA MỘT s ố NƯỚC TRÊN THÊ GIỚI

Tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ của các nước trên thế giới
được qui định gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền
thống, phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người dân... Do đó, giữa
các nước khác nhau thường có những qui định khác biệt về tài sản của vợ chồng!
Tuy nhiên, về cơ bản tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: Sự
thoả thuận bằng vãn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các qui
định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định).

1.2.1.

Tài sản của vơ chổng đươc xác định dưa trên cơ sở hôn ước -

Chê độ tài sản ước định
Hôn ước (hôn khế) là sự thoả thuận bằng văn bản (hợp đồng) do vợ chổng
lập trước khi kết hôn để qui định chế độ tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ
hôn nhân [17, tr 110]. Nội dung của hôn ước thường xác định tài sản của vợ
chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó cũng như trong việc
thực hiện các giao dịch giữa họ với người thứ ba.
Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất phát từ
quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo họ, hôn nhân thực
chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác với các loại hợp đồng dân
sự thông thường khác ở tính chất “long trọng” trong thiết lập (việc kết hôn phải
được đăng kv tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi
thức đặc biệt được qui định trong pháp luật) và trong việc chấm dứt (hôn nhân
chỉ chấm dứt khi có sự kiện chết, có tuyên bố của Toà án một bén vợ, chồng đã


11

chết hoặc khi có bản án hoặc quyết của Toà án về ly hôn có hiệu pháp luật, tất cả
các trường hợp chấm dứt này phải tiến hành theo những thủ tục hành chính hoặc
thủ tục tố tụng tại Toà án được pháp luật qui định). Bên cạnh đó, nhà làm luật ở
các nước phương tây cũng đề cao quyền tự do cá nhân, quyền tự định đoạt đối
với tài sản của vợ, chồng. Với quan niệm trên, tự do lập hôn ước đã trở thành
một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi qui định chế độ tài sản của vợ chồng
trong pháp luật về HN&GĐ ở hầu hết các nước phương Tây.
Theo nguyên tắc trên, trước khi kết hôn vợ chổng hoàn toàn có quyền tự do
lập hôn ước để qui định chế độ tài sản của họ. Họ muốn lựa chọn chế độ tài sản

nào cũng được, pháp luật chỉ can thiệp và qui định chế độ tài sản của vợ chồng
khi họ không lập hôn ước. Điều 755 và Điều 756 Bộ Luật Dân sự Nhật Bản,
Điều 1465 Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan, Điều 1387 Bộ Luật Dân sự
Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965)... đều qui định: Vợ chồng có
thể tự do lập hôn ước, miễn là những thoả thuận trong hôn ước không trái với
thuần phong mỹ tục hoặc không trái với các qui định của pháp luật về điều kiện
thừa nhận tính hợp pháp của hôn ước.
Như vậy, tài sản của vợ chồng không nhất thiết do pháp luật qui định mà do
chính bản thân vợ chồng tự thoả thuận tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là
tài sản riêng. Vợ chồng có thể thoả thuận trên cơ sở lựa chọn theo một chế độ tài
sản được qui định trong pháp luật hoặc họ có thể chọn một chế độ tài sản riêng
biệt, hoàn toàn độc lập với chế độ tài sản theo qui định của pháp luật.
Các thoả thuận của vợ chồng trong hôn ước mang tính ổn định cao. v ề
nguyên tắc, sau khi kết hôn việc thực hiện hôn ước là “bất di bất dịch”, Điều
1395 Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804 qui định: Hôn ước không thể thay đổi sau
khi đã kết hôn. Tuy nhiên, nguyên tắc hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ
hôn nhân có một hạn chế cơ bản là nó có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt
đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ, chồng hay của người thứ ba có quan hộ
giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn lầm một chế độ tài sản hoàn toàn
không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp, thu


12

nhập; hoặc, chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn có Ihể chỉ phù hợp ở giai đoạn
đầu, còn sau đó các qui định trong chế độ tài sản đã lựa chọn lại cản trở việc
thực hiện các quyền, nghĩa vụ họ, cũng như lợi ích của gia đình. Để khắc phục
hạn chế trên, hiện nay, pháp luật một số nước đã thừa nhận, các thoả thuận trong
hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân với những điều kiện pháp lý
chặt chẽ, Điều 1397 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570 ngày

13/7/1965, Luật số 8 9 -1 8 ngày 13/1/1989) qui định:
Sau hai năm áp dụng ch ế độ tài sản tronq hôn nhân theo íhoả thuận
hoặc theo Luật định, hai vợ chồng có thể, vì lợi ích của gia đình, xin
sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn ch ế độ tài sản trong hôn nhân bằng
một chứng thư cố chứng thực cửa công chứng viên và được Toà án nơi
cư trú phê chuẩn [20, tr 369].
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản không qui định cụ thể về vấn đề này, nhưng theo
Điều 758, 759: Tài sản thuộc sở hữu chung có thể được thay đổi hoặc phân chia
trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận hoặc trong trường hợp vợ, chồng quản
lý tài sản của nhau, nhưng người đó thực hiện quản lý tài sản không tốt và người
kia đã yêu cầu Toà án HN&GĐ tước bỏ việc quản lý nói trên. Việc thay đổi hoặc
phân chia tài sản chung không được sử dụng để chống lại người thừa kế hợp
pháp của chồng hoặc vợ, trừ khi việc này đã được đăng ký. Như vậy, theo pháp
luật Nhật Bản, những căn cứ xác định tài sản của vợ chồng được qui định trong
hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản giữa vợ và chồng.
Với việc thừa nhận các thoả thuận trong hôn ước có thể thay đổi trong thời
kỳ hôn nhân, pháp luật đã tạo cho vợ chồng quyền chủ động hơn trong việc qui
định chế độ tài sản của mình. Tuy nhiên, điều đó vẫn không thể khắc phục được
một hạn chế cơ bản của chế độ tài sản ước định là quá chú trọng đến lợi ích cá
nhân của vợ, chồng, lợi ích của gia đình bị xem nhẹ, hoặc lợi ích của gia đình
được xem xét theo ý thức chủ quan “thuần tuỷ” của vợ chồng, dẫn đến mâu
thuẫn bán chất của hôn nhân là tính chất cộng đồng và bản chất của gia đình là


13

“bổn phận và trách nhiệm”. Do vậy, chế độ tài sản này thường không được pháp
luật HN&GĐ các nước XHCN (trong đó có Việt Nam) ghi nhận.
1.2.2. Tài sản của vơ chống đươc xác định theo các căn cứ Luât định

- Chẽ đô tài sản pháp định
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản trong đó pháp luật qui định cụ
thể về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản đó, cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa vợ chồng với
người thứ ba.
Chế độ tài sản pháp định là một giải pháp được nhà làm luật ở tất cả các
nước ghi nhận trong pháp luật HN&GĐ. Có nước qui định chế độ tài sản pháp
định mang tính chất thay thế trong trường hợp vợ chồng không có thoả thuận
bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản áp dụng
cho họ (phổ biến trong pháp luật về HN&GĐ ở các nước phương Tây như Pháp,
Nhật Bản, Canađa, Australia, Thái Lan...), Điều 1400 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà
Pháp qui định: “Chê độ cộng ãổìịg lủi sản dược thiếl lập khi không có hôn ước
hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo ch ế độ cộng đồng tài sân” [20, tr 371];
có nước qui định chế độ tài sản pháp định như là căn cứ duy nhất để xác định tài
sản của vợ chồng (phổ biến trong pháp luật HN&GĐ các nước XHCN như Việt
Nam, Trung Quốc, Liên xô cũ, Cu Ba...), Điều 29 Luật gia đình Cộng hoà Cuba
qui định:
C hế độ tài sản của vợ chồng là chê'độ tài sản chung theo qui định của
Bộ luật này. C hế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc kết hôn được
chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống chung...; ch ế độ tài
sản này chấm dín khỉ quan hệ hôn nhân chấm díct không kể vì lý do gì.
Chế độ tài sản pháp định được qui định ở nhiều hình thức khác nhau, nhưng
tựu chung lại thường dưới hai hình thức: Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng
đồng (chế độ tài sản cộng đồng) và chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân sản (chế
độ phân sản)


14

1.2.2.1. Chế độ tài sản cộng đồng


Việc thừa nhận chế độ tài sản cộng đồng là xuất phát từ quan điểm lợi ích
của vợ chồng phải chịu sự chi phối bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân và lợi
ích chung của gia đình. Do đó, chế độ tài sản cộng đồng có đặc điểm cơ bản là
trong quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng luôn tồn tại khối tài sản chung và các
nghĩa vụ tài sản được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, chế
độ tài sản này không tồn tại dưới một hình thức duy nhất mà được qui định dưới
nhiều hình khác nhau, trong đó chủ yếu ở ba hình thức sau:
* Chê độ cộng đồng tạo sản
Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm, tài sản chung của vợ chồng chỉ
được xác định đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn
nhân; những tài sản khác không phân biệt động sản hay bất động sản mà vợ,
chồng có được trước khi kết hôn, hay được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng.
Đây là giải pháp được qui định phổ biến trong pháp luật về HN&GĐ của
nhiều nước: Luật gia đình Cộng hoà Cu Ba (Điều 30 và 32), Luật gia đình Bun
ga ri (Điều 13), Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp (Từ Điều 140] đến Điều 1408),
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản (Điều 762), Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan
(Điều 1471 và Điều 1474)... đều ghi nhận chế độ tài sản cộng đồng này. Điều 13
Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa qui định: ‘T ài sản
của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân ìà tài sản chung của vợ chồng,
ngoài ra, mỗi bên có th ể có tài sản riêng ngoài qui định trên’’'’ [38, tr 54]. Điều
1401 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp cũng qui định: Tài sản cộng đồng gồm
những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người
trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ
những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ [20, tr
371].
Việc chế độ cộng đồng tạo sản được thừa nhận rộng rãi ở các nước là do
chê độ tài sán cộng đổng này rất phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi nước. Một



15

mật, nó không làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng - nền tảng cơ bản
của quan hệ HN&GĐ, mặt khác chế độ tài sản này còn tạo điều kiện thuận lợi
cho vợ, chồng có thể chủ động trong

việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng

của mình, ngăn chặn các trường hợp kết hôn với mục đích không lành mạnh,
việc kết hôn chỉ nhằm vào khối tài sản

đã sẵn có của bên kia.

* Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản
Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản cũng thừa nhận trong hôn nhân bao
gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng như trong chế độ cộng đồng
tạo sản. Tuy nhiên, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản lại xác định tài sản của
vợ chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất động
sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có
trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng
mua lại bằng tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với bất động
sán có trước khi kết hôn và bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Việc qui định chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là xuất phát từ quan
điểm của nhà làm luật một số nước cho rằng: Vợ, chồng phải để dành cho mình
làm của riêng những tài sản chính của mình và theo các nhà làm luật đó là bất
động sản (Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804, sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 của
Chế độ Sài Gòn cũ...). Vậy nên, chế độ tài sản cộng đồng này chỉ phù hợp với
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội lấy bất động sản là tiêu chí xác định thành

phần chính yếu và chắc chắn của tài sản trong gia đình [6, tr 128-129]. Trong
điều kiện phát triển kinh tế ở mức công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao hiện nay,
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dựa trên sự phân tách
động sản và bất dộng sản đã mất đi sự công bằng trong gia đình và đã không
đảm bảo được mục đích đề ra ban đầu của nhà làm luật, vì lúc này tài sản chính
yếu không phải là bất động sản mà thường là những tài sản thuộc về động sản,
quyền tài sản hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền (cổ phiếu, chứng khoán...).
Do đó, nhiều nước trước đây thừa nhận chế độ cộng đồng động sản và tạo sản


16

nay đã tìm một chế độ tài sản cộng đồng khác thay thế để phù hợp với thực tiễn
hơn. Ví dụ: Luật số 65-570 ngày 13/7/1965 của Cộng hoà Pháp đã qui định chế
độ cộng đồng tạo sản thay cho chế độ cộng đồng động sản và tạo sản được qui
định trong Bộ Luật Dân sự năm 1804.
* Chê độ cộng đổng toàn sản
Khác với hai chế độ tài sản cộng đồng trên, chế độ cộng đồng toàn sản
không thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng mà chỉ thừa nhận quyền sở
hữu chung, theo đó toàn bộ tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân
đều thuộc khối tài sản chung. Qui định đó xuất phát từ quan niệm nhu cầu
chung, lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả tài sản vợ, chồng có trước và
trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền có tài sản riêng
không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia đình. Với đặc điểm trên,
chế độ cộng đồng toàn sản chỉ phù hợp với quan hệ HN&GĐ trong xã hội truyền
thống. Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, khi quyền tự do cá
nhân luôn được đề cao, chẽ độ cộng đồng toàn sản đã bộc lộ những hạn chê cơ
bản, vì không đảm bảo quyền tự định đoạt của người có tài sản, đặc biệt khi tài
sản đó do vợ, chồng làm ra trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được

tặng cho riêng; nó cũng không đảm bảo được sự độc lập của vợ, chồng do họ
không có tài sản riêng để tham gia các quan hệ xã hội khác ngoài quan hệ gia
đình; mặt khác, việc chế độ cộng đồng toàn sản được áp dụng trong giai đoạn
hiện nay có thể khuyến khích cho các quan hệ hôn nhân thực dụng. Vì vậy, các
nước thường không lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng này
1.2.2.2. Chế độ phân sản

Chế độ phân sản là một hình thức của chế độ tài sản pháp định, trong đó
giữa vợ chổng không tồn tại chế độ tài sản chung, mà mỗi bên vợ, chồng có
quyền sở hữu riêng đối với những tài sản do mình làm ra trước và trong thời kỳ
hôn nhân, pháp luật chỉ qui định nghĩa vụ của vợ, chồng về đóng góp vào chi
tiêu chung cua gia đình.


17

Ngoài ra, chế độ phân sản còn có một biến thái là chế độ hồi môn. Chế độ
tài sản naỳ có nguồn gốc từ pháp luật La Mã cổ đại, theo đó, những tài sản thuộc
của hồi môn của người vợ sẽ giao cho người chồng để người này quản lý và sử
dụng. Như vậy, hoa lợi từ tài sản riêng của người chồng và từ của hồi môn của
người vợ thuộc về người chồng. Đặc điểm của chế độ hồi môn là tài sản hồi môn
không thể được chuyển nhượng. Không những người chồng không có quyền bán
tài sản hổi môn vì người chồng không phải là chủ sở hữu, người vợ cũng không
có quyền chấp thuận để người chồng bán. Cho dù có sự thoả thuận của cả hai vợ
chồng, tài sản hồi môn cũng không thể bán được. [6, tr 132]
Trong quá khứ, chế độ tài sản này được áp dụng trong Luật hôn nhân cổ
truyền ở Italia và ở Anh từ năm 1857. Hiện nay, hầu như các nước không thừa
nhận chế độ tài sản này, vì nó có quan niệm “thái quá'''' trong việc đảm bảo lợi
ích cá nhân của vợ, chồng, lợi ích của gia đình vì thế bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.3.


KHÁI QUÁT VỂ TÀI SẢN CỦA v ợ CHỔNG TRONG PHÁP LUẬT HÔN

NHẢN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH s ử

Cùng với tiến trình lịch sử, gia đình Việt Nam luôn được xác định là nền
tảng của xã hội. Do đó, gia đình đã sớm được tổ chức chặt chẽ và những qui định
pháp luật về nó qua từng giai đoạn phát triển của đất nước mang những nét
chung nhất của lịch sử và thời đại. Là một nội dung quan trọng của chế độ
HN&GĐ Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và tài sản của vợ
chồng nói riêng ngoài việc mang những đặc điểm chung của pháp luật HN&GĐ
các nước trên thế giới, còn mang các đặc điểm thể hiện sắc thái thuần túy dân tộc
Việt Nam.
1.3.1. Tài sản của vợ chồng trong pháp luât hôn nhân và gia đình
trước Cách m ang tháng Tám năm 1945
1.3.1.1. Tài sản của vợ chồng trong c ổ luật Việt Nani
Các qui định về HN&GĐ chiếm một vị trí quan trọng trong các qui định
của pháp luật dưới các triều đại phong kiến, đặc biệt trong hai Bộ luật: Bộ Quốc

.

thư

VìẹTn

trường ĐẠI HỌC LÚẬTHÀ NÔI
phòng DOC


18


triều Hình luật ban hành dưới triều Lê trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470 1497) và Bộ Hoàng Việt luật lệ ban hành dưới triều Nguyễn (1812). Tuy nhiên,
việc qui định về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và tài sản của vợ chồng
nói riêng trong hai Bộ luật này chưa được rõ ràng, mà mới chỉ dự liệu trong một
số trường hợp riêng rẽ, chưa qui định thành một chế định cụ thể. Bộ Quốc triều
Hình luật không có điều khoản nào đề cập đến vấn đề tài sản của vợ chồng khi
hôn nhân còn tồn tại, mà chỉ dự liệu một số trường hợp khi người chồng hay vợ
chết (từ Điều 374 đến Điều 376); còn Bộ Hoàng Việt luật lệ do chép nguyên văn
của Luật nhà Thanh nên không ghi lại một điều khoản nào về tài sản của vợ
chồng. Giải thích vấn đề này, có thể xuất phát từ quan niệm truyền thống của
người phương Đông vốn xem gia đình là cái gì thiêng liêng cao quí nặng về tinh
thần hơn vật chất, yếu tố tài sản vì thế không được lấy làm trọng trong các quan
hệ của gia đình. Mặt khác, theo tư tưởng nho giáo, tài sản trong gia đình đương
nhiên thuộc về người chồng, nên không cần thiết đặt ra vấn đề tài sản chung hay
tài sản riêng của vợ, chồng.
Song, qua nghiên cứu các qui định trong Quốc triều Hình luật và Hoàng
Việt luật lệ có thể thấy rằng: Chế độ tài sản của vợ chồng trong cổ luật Việt
Nam là chế độ cộng đồng pháp định. Đây là chế độ tài sản duy nhất được áp
dụng cho mọi quan hệ hôn nhân. Chế độ tài sản ước định (hôn ước) không được
thừa nhận cả trên phương diện tục lệ và pháp lý, là do việc thoả thuận chỉ đặt ra
khi hai bên có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau, nhưng người vợ trong pháp luật
phong kiến được coi là người “vớ năng lực về mặt pháp lý”, thì không thể có vị
thế bình đẳng để thoả thuận với người chồng. Mặt khác, theo truyền thống hôn
nhân là sự phối hợp tuyệt đối về mọi phương diện mà mục tiêu là để xây dựng
gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường. Nêu dự định hạn chế bằng một khế
ước đối với quyền của người chồng thì trái với quan niệm căn bản của hôn nhân
là sự tín nhiệm hoàn toàn giữa vợ chổng. Ngoài ra, chưa kể là nếu hạn chế quyền
của người chồng, thì người ngoài có thể hiểu lầm là người chồng đã khước từ
một phần những quyền hạn đó trong một hôn ước để cưới vợ con nhà giàu [6, tr
135].



×