Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Xác định cha, mẹ, con một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.65 MB, 103 trang )


BỘ T ư P H Á P

BỘ G IÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠ O
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỀN THị LAN

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ THựC TlỂN
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mả số: 50507
THƯ VỈ ỆN
TRƯỞNG ĐẠI HỌ&LỦÂT hà n ô i
PHÒNG GV Ặ

LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA H Ọ C : TS.

*



ĐINH TRUNG TỤNG

H À NỘI - 2 0 0 2



L Ờ I CA M ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học m à tôi đ ã
thực hiện một cách nghiêm túc, đ ộc lập dưới sự hướng dẫn trực tiếp
của Tiến s ĩ luật học Đinh Trung Tụng. Trong quá trình nghiên cứu,
tôi có tham khảo một s ố tài liệu nhất định. Luận văn không hê có sự
sao chép bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học nào, những
trường hợp có sử dụng tài liệu trích dẫn đều có giải thích vê nguồn
trích dẫn.
Tôi xin chịu trách nhiệm v ề lời cam đoan của mình!

TÁ C GIẢ

N G U YỄN T H Ị LA N


BẢ N G T Ừ V IẾ T T Ắ T

BLDS

Bộ Luật Dân sự

BLDS&TM

Bộ Luật Dân sự và Thương mại

BLD SBK

Bộ Luật Dân sự Bắc kỳ


BLGL

Bộ Luật Gia Long

BLHĐ

Bộ Luật Hổng Đức

DLSG

Dân luật Sài Gòn

DTNĐ

Nghị định của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa
học (Dự thảo)

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

HVTKHL

Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật

LGĐ59

Luật Gia đình


NĐ83

Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ
về đăng ký hộ tịch

S L 15/64

:

Sắc luật số 15/64

SL97

:

Sắc lệnh số 97 ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa sửa đổi một số qui lệ và chế định trong Dân
luật

ƯBND

:

ủy ban nhân dân


M ỤC LỤ C

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON

5

Khái niệm và ý nghĩa xác định cha, mẹ, con

5

Khái niệm xác định cha, mẹ, con

5

Ý nghĩa xác định cha, mẹ, con

5

Xác định cha, mẹ, con qua các hình thái hôn nhân gia đình trong
lịch sử

8

Chế độ quần hôn

8

Gia đình đối ngẫu

10


Gia đình một vợ một chồng cổ điển

12

Sơ lược lịch sử phát triển về xác định cha, mẹ, con trong pháp luật
Việt nam

13

Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Phong
kiến

13

Xác định cha, mẹ, trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

15

Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ từ Cách
mạng Tháng 8/1945 đến nay

22

Chương 2
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

35

Các trường hợp xác định cha, mẹ, con


35

Xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp

35

Xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp

45

Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con theo phương
pháp khoa học

48

Thủ tục xác định cha, mẹ. con

59

Thủ tục hành chính

60

Thủ tục tư pháp

63


Chương 3

THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON VÀ MỘT s ố KIẾN NGHỊ

68

3.1.

Thực tiễn xác địnhcha, mẹ, con

68

3.1.1.

Nhận xét chung

68

3.1.2.

Một số trường hợpcụ thểxác định cha, mẹ, con

73

3.2.

Một số kiến nghị

87

PHẦN KẾT LUẬN


94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


1

PHẦN M Ở ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Xác định cha, mẹ, con là xác định mối quan hệ huyết hệ tự nhiên, mối quan hệ
giữa hai thế hệ vốn rất thiêng liêng và nhạy cảm.
Việc xác định mối quan hệ này đã được đặc biệt coi trọng ngay từ buổi hồng
hoang của xã hội loài người. Với sự phát triển không ngừng của xã hội loài người thì
mục đích của việc xác định cha, mẹ, con cũng có sự thay đổi, phụ thuộc vào từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định ở từng chế độ kinh tế khác nhau. Từ khi có
Nhà nước và pháp luật thì xác định cha, mẹ, con luôn là một chế định quan trọng và
cơ bản, chi phối và liên quan đến các chế định khác trong các quan hệ dân sự,
HN&GĐ....
Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, Việt
Nam luôn là nước đề cao các quyền cơ bản của con người đặc biệt là của trẻ em.
Vấn đề xác định cha, mẹ, con nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong mối quan hệ này, đó là cha, mẹ và con, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em
bởi sự khác biệt về giới và khả năng nhận thức... Như văn kiện của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: "Chăm sóc và bảo
vệ sức khoẻ bà mẹ, ưẻ em, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của
người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” [35, tr.126].
Xác định cha, mẹ, con nhằm làm ổn định mối quan hệ gia đình, giúp cho các

thành viên trong gia đình cùng chia sẻ và gánh vác những công việc chung. Bởi gia
đình là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân, đảm bảo những điều kiện an toàn
cho sự phát triển của trẻ em.
Trong giai đoạn hiện nay, các mối quan hệ gia đình ngày càng được quan tâm
và đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc xác định cha, mẹ, con không còn
mang nguyên ý nghĩa truyền thống nữa, bởi sự tác động của các điều kiện kinh tế xã
hội...dẫn tới trên thực tế vẫn còn nhiều sự vi phạm pháp luật từ đó dẫn tới nhiều hậu
quả tiêu cực khác như tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, sự thiếu ưách nhiệm đối với gia
đình, con cái... Ngoài ra do sự phát triển của khoa học kỹ thuật nên trên thực tế đã
xuất hiện vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học, có thể có sự can thiệp của


2

người thứ ba, mang thai hộ... Chính vì vậy việc xác định cha, mẹ, con càng trở nên
khó khăn và phức tạp.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã có bước phát triển mới hoàn thiện hơn so với pháp
luật thời kỳ trước, tuy nhiên cũng còn nhiều vấn đề gây tranh cãi và từ đó dẫn tới
việc áp dụng không thống nhất trên thực tế...
Xuất phát từ những lý do trên cả về lý luận và thực tiễn, tôi đã quyết định chọn
đề tài: "Xác định cha, mẹ, con - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn " làm luận văn
tốt nghiệp cao học luật. Với mong muốn làm sáng tỏ hơn chế định xác định cha, mẹ,
con từ đó tìm ra hướng hoàn thiện mới.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI
Xác định cha, mẹ, con là một chế định pháp lý cơ bản và quan trọng có ý nghĩa
trong việc xác định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, đề cao trách
nhiệm của mỗi cá nhân với gia đình và xã hội.
Từ trước tới nay vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách toàn diện chuyên
sâu, hiện nay, vấn đề này được nghiên cứu và đề cập đến trong Giáo trình Luật
HN&GĐ Trường Đại học Luật Hà Nội, tuy nhiên cũng chỉ dừng ở mức độ khái

quát, sơ lược, có tính định hướng cho sinh viên tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi. Vừa qua
cũng có một vài cuộc hội thảo khoa học hay một số bài viết được đăng trên báo, tạp
chí về vấn đề này ở dưới nhiều góc độ khác nhau hoặc một vài sinh viên chuyên
ngành luật lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cử nhân luật.
Trong sự phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật hiện nay đã đặt ra cho các
nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhiều vấn đề xung quanh việc xác định
cha, mẹ, con, bởi trong thực tiễn đã nảy sinh những vấn đề mà pháp luật chưa điều
chỉnh kịp thời.
Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, với mục
đích tìm tòi và khám phá để hoàn thiện pháp luật, điều chỉnh kịp thời những vấn đề
mới nảy sinh.
3. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI
- Luận văn nhằm làm sáng tỏ:
+ Những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc xác định cha, mẹ, con và ý
nghĩa của vấn đề này dưới góc độ xã hội và pháp lý.


3

+ Phát hiện kịp thời những qui định chưa cụ thể, chi tiết hoặc không phù hợp
cũng như tìm ra những bất cập trong thực tiễn giải quyết.
+ Nghiên cứu và đưa ra một vài ý kiến giúp cho việc hoàn thiện pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả điều chỉnh, đảm bảo sự ổn định của gia đình và xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Nghiên cứu pháp luật Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại trong sự kết hợp với
thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề xác đinh cha, mẹ, con. Việc nghiên cứu không
chỉ giới hạn trong Luật HN&GĐ năm 2000 mà còn được đề cập tới một số văn bản
pháp luật khác có qui định về vấn đề này, cũng như pháp luật của một số nước trên
thế gới để luận văn có chiều sâu hơn và hấp dẫn hơn. Tuy nhiên chúng tôi không
nghiên cứu những qui định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước

ngoài.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI
Để giải quyết những vấn đề cơ bản trong phạm vi nghiên cứu của mình, tôi đã
sử dụng cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu sau:
+ Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở gắn liền giữa lý luận
và thực tiễn để làm sáng tổ vấn đề.
+ Phương pháp nghiên cứu là dựa ưên những phương pháp như phương pháp
phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh...
5. NHŨNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VÃN
Dưới góc độ khoa học, luận văn cần có sự đánh giá của các nhà nghiên cứu
quan tâm đến vấn đề này thì mới đảm bảo tính khách quan. Tuy vậy, với tư cách là
tác giả, chúng tôi mạnh dạn coi đây là một công trình nghiên cứu tương đối chuyên
sâu về vấn đề xác định cha, mẹ, con. Luận văn đề cập đến các vấn đề sau:
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển về xác định cha, mẹ, con trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, có sự đánh giá về tính hợp lý và không hợp lý của vấn đề
này qua từng giai đoạn cụ thể với mối liên hệ thực tế.
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật hiện hành về xác định cha, mẹ, con để
nêu bật được sự kế thừa và phát triển so với các thời kỳ trước, có so sánh với pháp
luật một số nước khác. Tìm ra những điều còn bất cập cần phải qui định cụ thể cho
phù hợp với tình hình hiện nay.


4

-

Trình bày kết quả qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này,

đổng thời đề cập đến một số các trường hợp giải quyết cụ thể về xác định cha, mẹ,

con, từ đó có nhận xét và đánh giá. Cuối cùng đưa ra những kiến nghị về xây dựng,
hoàn thiện pháp luật và bồi dưỡng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và học tập
của các sinh viên luật ở các Trường đại học, cũng như có một giá trị nhất định để
tham khảo trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật.
6. Cơ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được bố cục như sau:
+ Phần mở đầu
+ Chương 1: Khái quát chung về xác định cha, mẹ, con
+ Chương 2: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật hiện hành
+ Chương 3: Thực tiễn xác định cha, mẹ, con và một số kiến nghị
+ Phần kết luận


5

Chương 1
K H Á I Q U Á T CHUNG V Ể XÁ C ĐỊNH CH A , M Ẹ, CON

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON
1.1.1. Khái niệm xác định cha, mẹ, con
Dưới góc độ sinh học, quan hệ cha, mẹ, con là mối quan hệ huyết hệ tự nhiên.
Việc xác định cha, mẹ, con chính là sự nghiên cứu, tìm kiếm mối quan hệ di truyền,
huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau, v ề mặt tự nhiên, khi một người phụ nữ
quan hệ sinh lý vói một người đàn ông dẫn đến mang thai và khi người phụ nữ đó
sinh ra một đứa trẻ thì chính sự kiện sinh đẻ là sự kiện trực tiếp xác định mối quan
hệ mẹ con và tiếp theo là sự suy đoán ngưòi đàn ông đã quan hệ sinh lý với người
mẹ đứa trẻ sẽ là cha của đứa trẻ đó. Tuy nhiên, về mặt xã hội vốn đã rất phức tạp thì
việc xác định đúng mối quan hệ cha, mẹ và con tưởng chừng như dễ dàng nhưng
thực tế là rất khó khăn bởi con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội và đặc biệt

những mối quan hệ về tình cảm lại vô cùng tế nhị, hơn nữa do sự phát triển của khoa
học kỹ thuật đã làm thay đổi quan niệm truyền thống về xác định mối quan hệ huyết
thống này.
Dưới góc độ luật học, với mục đích tạo ra một hành lang pháp lý tạo nên sự ổn
định tương đối cho mối quan hệ cha mẹ và con, pháp luật Việt nam đã qui định khá
cụ thể, hợp lý vấn đề này. Luật HN&GĐ năm 2000 đã xây dựng vấn đề này thành
một chế định đó là chế định xác định cha, mẹ, con và một số các văn bản pháp luật
có liên quan cũng qui định khá chi tiết về trình tự, thủ tục xác định mối quan hệ này.
Do vậy, xét dưới góc độ luật học, thì xác định cha, mẹ, con là một chế định
pháp lý bao gồm các qui phạm pháp luật qui định về căn cứ pháp lý, thủ tục pháp lý
xác định cha, mẹ, con - Cơ sở để hình thành ở các chủ thể các quyền và nghĩa vụ
theo luật định.
1.1.2. Ý nghĩa xác định cha, mẹ, con
Mối quan hệ cha mẹ và con là mối quan hệ giữa hai thế hệ, trong tấí cả các
mối quan hệ gia đình thì có thể nói mối quan hệ này là cơ bản, quan trọng, thiêng
liêng nhất. Do vậy việc xác định cha, mẹ, con là một vấn đề mang tính thực tiễn và
cấp thiết, chứa đựng nhiều ý nghĩa về mặt xã hội và pháp lý.


6

+ Về mặt xã hội: Như chúng ta đã biết gia đình là một thiết chế xã hội cơ sở
đóng vai trò quan trọng đối với xã hội. Khi thực hiện các chức năng cơ bản, gia đình
đã gánh vác trách nhiệm nặng nề là tạo ra của cải vật chất và tinh thần để chăm sóc,
nuôi dưỡng các thành viên của mình. Mặt khác, gia đình còn là một trong những nơi
truyền thụ văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác nhằm giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa cao quí của đất nước - Đó là những tài sản vô giá, là cơ sở vững
chắc để hình thành nhân cách tốt cho thế hệ trẻ - Những chủ nhân tương lai của đất
nước. Do đó, việc xác định cha, mẹ, con sẽ là cơ sở để đảm bảo cho việc nâng cao ý
thức trách nhiệm đối với gia đình giữa các thế hệ và đặc biệt là tạo điều kiện cho các

quyền cơ bản của trẻ em được tôn trọng, thực hiện. Những đứa trẻ sinh ra đương
nhiên chúng phải được trở thành thành viên của gia đình, được quan tâm đúng mức
đến cuộc sống vật chất và tinh thần, đáp ứng được những nguyện vọng chính đáng từ
đời sống xã hội.
Việc xác định cha, mẹ, con là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích gia đình và xã hội
bởi không một tổ chức từ thiện nào, không một làng trẻ mồ côi nào có thể thay thế
được gia đình - Cái nôi thân thương của mỗi con người, là tổ ấm mang lại hanh phúc
cho mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ cho đến suốt cuộc đời mình, mỗi cá nhân sẽ tìm
thấy ở gia đình sư đùm bọc về vât chất, tinh thần, tiếp thu sự giáo dưỡng về mọi
mặt..., gia đình đảm bảo những điều kiện an toàn cho sự phát triển của trẻ em.
Việc xác định cha, mẹ, con trong mọi trường hợp đã góp phần xoá bỏ tư tưởng
lạc hậu, phân biệt đối xử giữa các con, đem lại cuộc sống bình thường cho mọi đứa
trẻ.
Trong thòi đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đặc biệt
là thành tựu của y học hiện đại đã tác động không nhỏ đến đời sống gia đình, điều
này đã làm đảo lộn những quan niệm truyền thống về việc xác định một người cha,
người mẹ và đứa con. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con được nhìn từ các khía canh
khác nhau như về tâm lý, tình cảm, đạo đức, pháp lý cũng có sự khác biệt. Chính vì
vậy, việc xác định cha, mẹ, con được dựa trên những tiêu chuẩn, những cơ sở hợp lý
sẽ góp phần làm ổn định các mối quan hệ xã hội vốn đã rất phức tạp trong đời sống
xã hội. Đổng thời cũng giúp cho công tác quản lý dân số và hộ tịch của Nhà nước
được tốt hơn.
+ Về mặt pháp lý:
Việc xác định cha, mẹ, con được qui định trong pháp luật Việt Nam là phù họp


7

với luật pháp quốc tế, đặc biệt là phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Đối
tượng cần được bảo vệ trước nhất là trẻ em:

Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự
phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là trẻ em, cần có sự bảo
vệ và giúp đỡ cần thiết để có thể đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của
mình trong cộng đổng.
Công nhận rằng, để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ
em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không
khí yêu thương và thông cảm [8, tr.549].
Đặc biệt “trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có
quyền ngay từ khi ra đời, có họ tên, có quốc tịch và trong một chừng mực có thể,
quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc” [8, tr.553].
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển,
vấn đề xác định cha, mẹ, con, đặc biệt là vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp sinh con theo phương pháp khoa học sẽ mang tính toàn cầu trong một tương lai
không xa, do vậy sự phù hợp về vấn đề xác định cha, mẹ, con giữa pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế là cơ sở pháp lý cho những giải pháp về các vấn đề có liên
quan.
Xác định cha, mẹ, con là một chế định của Luật HN&GĐ năm 2000, phù hợp
với Hiến pháp (1992) và BLDS (1995) điều này thể hiện sự thống nhất đổng bộ
trong việc xây dựng pháp luật, đặc biệt đã thể hiện được tầm quan ưọng của chế
định xác định cha, mẹ, con cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Việc xác định cha, mẹ, con là sự cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản của luật
HN&GĐ năm 2000:
4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã
hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ...
5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con,
con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài
giá thú.
6. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các
bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quí của người mẹ ( Điều 2)
Như vậy, việc xác định cha, mẹ, con đã bảo vệ được quyền lợi của các thành

viên trong gia đình một cách bình đẳng phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, củng


8

cố các mối quan hệ gia đình.
Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở để các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con theo qui định của pháp luật. Mật khác việc xác định
cha, mẹ, con không chỉ liên quan đến mối quan hệ giữa hai thế hệ mà còn liên quan
đến các mối quan hệ với các thành viên khác trong gia đình, do vậy đó còn là cơ sở
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khác trong gia đình, và còn liên
quan đến các chế định pháp lý khác. Chẳng hạn, xác định được quan hệ cha mẹ và
con thì sẽ xác định được những mối quan hệ thân thuộc khác như anh chị em, ông
bà và cháu... từ đó liên quan tới các chế định như kết hôn, ly hôn, cấp dưỡng...
Việc xác định cha, mẹ, con sẽ tạo ra những căn cứ pháp lý để cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ này như giải
quyết các án kiện về ly hôn, chia tài sản thừa kế, thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, huỷ
việc kết hôn trái pháp luật....
1.2.

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON QUA CÁC HÌNH THÁI HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

TRONG LỊCH s ử
Gia đình là một thiết chế xã hội cơ sở, tồn tại rất bền vững và lâu đời. Trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định thì tổ chức và kết cấu gia đình do điều kiện kinh tế
xã hội quyết định.
Khi nghiên cứu các hình thái hôn nhân gia đình trong lịch sử, Chủ nghĩa MácLê Nin đã chỉ ra ba hình thái hôn nhân chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển
chính của nhân loại:
“Ở thời đại Mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại Dã man, có chế độ hôn
nhân cặp đôi; ở thời đại Văn minh, có chế độ một vợ một chổng được bổ xung bằng

tệ ngoại tình và nạn mại dâm”[22, tr.119]. Xuyên suốt quá trình lịch sử xã hội, qua
các hình thái hôn nhân gia đình, việc xác định cha, mẹ, con ngày càng được xác
định rõ ràng hơn.
1.2.1. Chế độ quần hôn
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước”
Ảngghen đã chỉ rõ: Ở thời kỳ tiền sử của xã hội loài người, khi con người vừa mới
thóat thai từ loài vật, chưa có quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ giữa người đàn
ông và người đàn bà gọi là quan hệ tính giao và không có sự chọn lọc ngôi thứ thích


9

thuộc. Có nghĩa là mọi người đàn bà đều thuộc về mọi người đàn ông và ngược lại.
Do vậy không thể xác định được ai là cha của đứa trẻ. Rồi sau đó do xã hội ngày
càng phát triển thì các hình thái hôn nhân gia đình cũng xuất hiện và bắt đầu có sự
ngăn cấm quan hệ tính giao.
Trong chế độ quần hôn có hai hình thái hôn nhân gia đình:
+ Gia đình huyết tộc
Đây là giai đoạn đầu tiên của gia đình, các tập đoàn hôn nhân được phân theo
thế hệ: Cha mẹ là một nhóm quan hệ hôn nhân; con cái là một nhóm quan hệ hôn
nhân. Như vậy trong hình thái gia đình này đã có sự ngăn cấm quan hệ tính giao
theo hệ dọc: Giữa cha mẹ và các con, giữa ông bà và các cháu...Còn những người
trong cùng thế hệ thì vẫn có thể quan hệ tính giao với nhau, là vợ chồng của nhau.
C.Mác đã viết: “Trong thời đại nguyên thuỷ chị em gái đồng thòi là vợ, và lúc đó là
hợp với đạo đức”. Trong hình thái gia đình này khi những đứa trẻ ra đời, chúng sẽ
gọi tất cả những người cùng thế hệ mẹ là mẹ, là cha, và chúng là anh chị em của
nhau. Nhưng chúng vẫn phân biệt được người nào là mẹ đẻ của mình, còn không thể
xác định được rõ ràng quan hệ cha con vì có sự chung chạ vợ chổng.
+ Gia đình Punaluan
Hình thái gia đình này đã đưa vào một bước tiến mới là huỷ bỏ quan hệ tính

giao giữa anh chị em với nhau. Đầu tiên là anh chị em ruột, rồi tiếp theo là anh chị
em về bàng hệ (anh chị em họ), có nghĩa là những người đàn ông và đàn bà vẫn có
thể quan hệ tính giao, lấy nhiều vợ nhiều chồng nhưng phải trừ ra chị em gái và anh
em trai của mình. Như vậy, trong hình thái gia đình này vẫn có sự chung chạ vợ
chồng, do đó khi những đứa trẻ ra đời chúng gọi tất cả những chị em gái của mẹ
mình là mẹ nhưng không còn gọi các anh em trai của mẹ là cha nữa, cũng như các
con của các chị em gái và các anh em trai của nhau chỉ gọi là anh chị em họ của
nhau mà thôi.
Con cái của các dì tôi vẫn là con của cả mẹ tôi, và cũng vậy con của chú
bác tôi đều là con của cha tôi và tất cả là những anh chị em của tôi; nh­
ưng con cái của các cậu tôi thì bây giờ đều là cháu trai và cháu gái của
mẹ tôi còn con các cô tôi đều là cháu trai và cháu gái của cha tôi và tất cả
đều là anh chị em họ của tôi. Thật vậy, ưong khi những người chổng của
các dì tôi vẫn còn là chồng của mẹ tôi, và những người vợ của chú bác tôi
vẫn còn là vợ của cha tôi. (Đây là cách tính trong quan hệ thân tộc mà


10

chế độ ở Châu Mỹ đã biểu thị) [22, tr.71-72].
Qua đó, chúng ta thấy rằng trong gia đình Punaluan thì diện những người được
xác định là cha mẹ của một đứa trẻ được thu hẹp hơn so với gia đình huyết tộc,
nhưng vẫn không thể xác định chính xác quan hệ cha con.
Tóm lại, trong chế độ quần hôn không thể xác định một người cha về mặt
huyết thống cho một đứa trẻ mà chỉ có thể xác định chính xác người mẹ huyết thống
của nó.
Trong tất cả mọi hình thức gia đình dưới chế độ quần hôn ngưòi ta không
thể biết một cách chắc chắn ai là cha của một đứa trẻ, nhưng ngưòi ta biết
không sai ai là mẹ của nó. Tuy người mẹ đó gọi tất cả trẻ con trong gia
đình chung là con và có những bổn phẩn làm mẹ đối vói chúng, nhưng trong

số những trẻ con khác, người ấy vẫn phân biệt đứa con nào là con của mình.
Cho nên chắc chắn rằng ở chỗ nào mà có chế độ quần hôn thì dòng dõi chỉ
có thể xác định được về bên mẹ mà thôi, và do đó chỉ có nữ hệ là được
thừa nhận [22, tr.74].
“Việc chỉ thừa nhận có mẫu hệ. và các quan hệ thừa kế tài sản đã nảy sinh ra
cùng với thời gian từ tình hình đó, Ba-Cô-Phen gọi là mẫu quyền” [22, tr.74].
Như vây, người mẹ là người duy nhất chắc chắn sinh ra đứa trẻ đã được tôn
kính và kính trọng đến cao độ. Gia đình Punaluan có thể là căn cứ để suy ra “Thị tộc
mẫu quyền”: “Thị tộc, nghĩa là thành một nhóm người cố định gồm những người
cùng huyết thống về đằng mẹ và không có quyền lấy nhau” [22, tr.75].
1.2.2. Gia đình đối ngẫu (Gia đình cặp đôi):
Tại hình thái gia đình này tồn tại hình thức kết hôn từng cặp, có thể trong một
thời gian ngắn hoặc kéo dài trong chế độ quần hôn. Khi “Thị tộc ngày càng phát
triển và những đẳng cấp “anh em trai” và “chị em gái” không còn có thể lấy nhau
được nữa ngày càng nhiều, thì những kiểu kết hôn đã thành tập quán như vậy nhất
định là càng thêm vững chắc.” [22, tr.81] “Chế độ quần hôn ngày càng không thể
thực hiện được; chế độ ấy đã bị gia đình cặp đôi thay thế” [22, tr.81]. Sự phát triển
từ chế độ quần hôn sang gia đình đối ngẫu là do qui luật đào thải tự nhiên quyết
định. Ở gia đình này đã bắt đầu xác định được cha cho một đứa trẻ, đây là bước phát
triển mới so với chế độ quần hôn. Tại sao lại có thể xác định được người cha đích
thực cho đứa trẻ khi mà gia đình đối ngẫu bản thân nó rất yếu ớt, tổn tại lỏng lẻo và


11

chỉ là một đơn vị hôn phối chứ chưa là một đơn vị kinh tế độc lập, nền kinh tế vẫn là
nền kinh tế cộng sản nguyên thuỷ, không thể phá vỡ được thị tộc?
Chúng ta có thể lý giải rằng, trong thời kỳ này đang tồn tại chế độ “Thị tộc
mẫu quyền”, do vậy người phụ nữ có quyền hành hơn so với nam giới, hơn nữa, do
xã hội ngày càng phát triển thì những người phụ nữ muốn được hiến thân chỉ với

một người đàn ông và coi đó là sự giải phóng. Họ cảm thấy thật nhục nhã khi phải
cùng lúc chung sống với nhiều người đàn ông, và họ có quyền để thực hiện được
điều đó. Do vậy chế độ quần hôn đã dần dần bị xoá bỏ. Sự tồn tại gia đình đối ngẫu
là do công của người đàn bà mà không thể do công của người đàn ông được, bởi
như Ảngghen đã viết:
Các điều kiện sinh hoạt kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời phá huỷ
chế độ cộng sản cổ xưa và mật độ dân số ngày càng tăng, thì những quan
hệ tính giao cổ truyền mất hết tính chất ngây thơ nguyên thuỷ của nó và
càng tỏ ra là nhục nhã và nặng nề đối với đàn bà nên họ mong muốn
ngày càng nồng nhiệt đạt được quyền giữ trinh tiết, kết hôn nhất thời hay
lâu dài với chỉ một người đàn ông coi đó là được giải phóng. Bước tiến đó
không thể nào lại do người đàn ông mà có cả, chỉ vì cho đến tận ngày nay
không bao giờ đàn ông có ý muốn từ bỏ cái thú của chế độ quần hôn thực
sự cả”[22, tr. 89].
Và:
Trong giai đoạn này, một người đàn ông sống với một người đàn bà, song
việc có nhiều vợ và việc không chung tình khi có dịp vẫn là quyền của
người đàn ông mặc dù trường hợp nhiều vợ là rất hiếm do những nguyên
nhân kinh tế; nhưng thông thường thì phụ nữ lại phải triệt để chung tình
trong thòi gian chung sống với chổng, và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng
trị một cách tàn ác. Tuy nhiên, mối liên hệ hôn nhân vẫn có thể bị bên
này hoặc bên kia cắt đứt một cách dễ dàng và cũng như ữước kia, con cái
chỉ thuộc về người mẹ [22, tr.81 - 82].
Như vậy, trong gia đình đối ngẫu đã xác định được đầy đủ mối quan hệ huyết
thống giữa cha mẹ và con “ Hôn nhân cặp đôi đã đưa vào gia đình một yếu tố mới,
bên cạnh người mẹ đẻ, chế độ đó đã đặt người bố đẻ, người bố thật có lẽ còn thật
hơn nhiều so với những người “bố” thời nay” [22, tr.94]


12


1.2.3. Gia đình một vợ một chồng cổ điển
Do tình hình xã hội ngày càng có những biến đổi quan trọng đặc biệt là về
kinh tế, bắt đầu có sự phân công lao động xã hội, năng suất lao động ngày càng cao
và xuất hiện của cải dư thừa, đầu tiên của cải đó thuộc về thị tộc và rồi chế độ tư hữu
bắt đầu xuất hiện, dần dần gia đình đối ngẫu cũng chiếm lấy của cải dư thừa đó và
địa vị của người chồng bắt đầu được thay đổi do họ là người chủ yếu làm ra tài sản.
Người chồng đã lợi dụng địa vị quan trọng của mình để thay đổi trật tự kế thừa (theo
phong tục cũ thì con cái theo huyết thống về đằng mẹ và được thừa kế theo đằng
mẹ), điều này đánh một đòn rất mạnh vào chế độ thị tộc mẫu quyền và làm tan rã thị
tộc “Thế là, dòng dõi tính theo đằng mẹ và quyền kế thừa mẹ bị xoá bỏ, dòng dõi
tính theo đằng cha và quyền kế thừa cha được xác lập” [22, tr.94].
Trong giai đoạn này còn xuất hiện một hình thái gia đình trung gian là “Gia
đình gia trưởng":
Hình thái gia đình đó đánh dấu bước chuyển từ chế độ hôn nhân cặp đôi
sang chế độ hôn nhân một vợ một chổng. Để bảo đảm sự trung thành của
người vợ, do đó, bảo đảm việc con cái đích thật là do người cha đẻ ra,
người vợ buộc phải phục tùng quyền lực tuyệt đối của người chổng; nếu
người chồng có giết vợ chăng nữa thì cũng chỉ là thực hành quyển của
mình mà thôi [22, tr.96].
Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia đình đối ngẫu “Gia đình ấy dựa
trên quyền thống trị của người chổng, nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải
có cha đẻ rõ ràng không còn ai tranh cãi được và dòng dõi đó là cần thiết, vì những
đứa con đó sau này sẽ có quyền thừa hưởng tài sản của cha với tư cách là người kế
thừa trực tiếp” [22, ư.101].
Gia đình một vợ một chổng là một đơn vị kinh tế độc lập, tồn tại vững chắc,
khác với gia đình đối ngẫu là quan hệ vợ chổng chặt chẽ hơn nhiều và người chổng
có quyền hành hơn nhiều so với người vợ, thường chỉ có người chồng mới có quyền
cắt đứt mối quan hệ đó, chế độ một vợ một chổng không hề cản trở sự công khai hay
bí mật có nhiều vợ của người đàn ông, có nghĩa là chỉ một vợ một chổng về phía

người vợ mà không phải về phía người chồng. Vói bản chất như vậy cho nên đã làm
cho chế độ một vợ một chổng hoàn toàn mâu thuẫn và giả tạo
Chế độ một vợ một chổng là hình thức gia đình đầu tiên không dựa trên


13

những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, - tức là
trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thuỷ
và tự phát. Sự thống trị của người chổng trong gia đình, sự sinh đẻ con cái
và những đứa con này chỉ có thể là con của người chổng và được quyền
thừa hưởng tài sản của người ấy, - đấy là mục đích đặc biệt của chế độ
một vợ một chổng [22, tr.105 - 106].
Tóm lại, chế độ một vợ một chồng đặc biệt quan tâm đến việc sinh con đẻ cái
và thừa kế tài sản, đã xác định chính xác người cha, người mẹ đích thực cho đứa trẻ
mặc dù hôn nhân của cha mẹ thường do kinh tế quyết định “Chế độ đó quyết không
phải là kết quả của tình yêu cá nhân” [22, tr.105].
Chế độ một vợ một chồng ra đời cùng với sự ra đời của chế độ tư hữu và Nhà
nước. Trong xã hội có giai cấp thì quan hệ hôn nhân và gia đình bị chi phối bởi ý
chí của giai cấp thống trị, giai cấp thống trị thông qua Nhà nước, bằng pháp luật
điều chỉnh quan hệ HN&GĐ phát triển phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Qua nghiên cứu các hình thái hôn nhân gia đình trong lịch sử chúng ta thấy
rằng vấn đề xác định cha, mẹ, con dần dần được cụ thể và chính xác hơn.
Trong xã hội hiên đại ngày nay thì tình yêu nam nữ là cơ sở để xây dựng hôn
nhân bởi “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo đức, thì cũng
chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì mói hợp đạo đức mà thôi”[22,
tr.131].
Đó chính là cơ sở để đảm bảo mọi quyền lợi của các thành viên trong gia đình
vì khi xác định quan hệ cha mẹ và con còn bao hàm cả việc gắn bó trách nhiệm của
các chủ thể với nhau, trách nhiệm đối với xã hội.

1.3.

Sơ LƯỢC LỊCH s ử PHÁT TRIỂN VỂ

x á c đ ịn h c h a , m ẹ , c o n t r o n g

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.3.1. Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Phong kiến
Dưới các Triều đại phong kiến Việt Nam, về pháp luật nổi bật là hai Bộ luật
trong giai đoạn từ thế kỷ X V đến thế kỷ XVIII. Đó là Bộ Quốc triều Hình luật (còn
gọi là Bộ Luật Hổng Đức) được ban hành dưới thời Lê và Bộ Hoàng Việt luật lệ (còn
gọi là Bộ Luật Gia Long) được ban hành dưới thời nhà Nguyễn.
Các văn bản pháp luật thời kỳ này đều nhằm củng cố, bảo vệ trật tự xã hội
phong kiến, chế độ gia đình gia trưởng và các nguyên tắc đạo đức phong kiến.... Đặc
biệt là những mối quan hệ xã hội cơ bản nhất là vua tôi, cha con, chồng vợ.


14

Xét một cách cụ thể thì trong các văn bản pháp luật thời kỳ này không đề cập
đến vấn đề xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, dựa trên tinh thần những nội dung
pháp lý cơ bản thì chúng tôi thấy rằng:
Mối quan hệ cha mẹ và con là một trong những mối quan hệ quan trọng cơ bản
nhất, được điều chỉnh theo hướng đạo lý gia đình Nho giáo. Hôn nhân phong kiến
luôn gắn vói việc sinh con đẻ cái và những đứa con sinh ra từ quan hệ hôn nhân đó
đương nhiên trở thành thành viên của gia đình và chúng là người duy trì nòi giống,
sự kế tục này là theo phụ hệ (đằng cha). Từ đó chúng đương nhiên hưởng một số
quyền và nghĩa vụ nhất định. Mối quan hệ cha mẹ và con cái theo quan niệm đạo
đức và pháp lý là tuyệt đối định đoạt và tuyệt đối phục tùng, đã có học giả mô tả bản
chất của gia đình Việt Nam là gia đình phụ quyền.

Như vậy, ngay từ khi sinh ra đứa trẻ đã được xác định ngay cha mẹ cho mình.
Ngay lập tức đứa trẻ được mang họ cha. Việc xác định này hầu như là chắc chắn
chính xác bởi phong tục tập quán, đạo đức truyền thống và những qui tắc luật định.
Bộ Luật Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long đề cao quyền gia trưởng của người
đàn ông (người cha, người chồng) trong gia đình, đảm bảo sự phục tùng tuyệt đối
của người phụ nữ. Vì vậy, trong rất nhiều các chương, điều đã đặt ra cơ chế bảo vệ
cho những mối quan hệ gia đình phát triển theo một chiều hướng nhất định. Chẳng
hạn để đảm bảo cho đứa con sinh ra đích thực là con của người chồng, BLHĐ đã qui
định những hình phạt nặng nề đối với tội thông gian của người vợ, như Điều 401 BLHĐ đã qui định vợ cả hoặc vợ lẽ thông gian đều bị phạt tội lưu hoặc tử, điền sản
của họ phải chuyển sang cho ngưòi chồng. Trong BLGL cũng không đề cập trực tiếp
đến vấn đề xác định quan hệ cha mẹ và con (theo cách gọi cũ là tử hệ) nên khi vấn
đề được đặt ra thì chỉ có Điều 322 qui định về tội thông gian là giải quyết vấn đề
này một cách gián tiếp: Đó là phạt người vợ thông gian và ngưòi gian phu 100
trượng, cho phép người chổng được tự ý gả bán vợ cho người khác, nếu sự thông
gian dẫn đến có con thì đứa con sẽ được xác định là con của hai người thông gian
với nhau và người gian phu phải nuôi dưỡng đứa trẻ nếu bị bắt quả tang, hoặc do
người vợ nuôi dưỡng nếu lỗi của người này được chứng minh. Việc thông gian, dâm
đãng của người vợ là duyên cớ để người chồng ly hôn.
Hơn nữa, theo tập quán thời bấy giờ thì những người phụ nữ không đoan chính,
có con ngoài giá thú rất bị kỳ thị và bị trừng trị rất tàn ác như cạo đầu bôi vôi, thả bè
trôi sông, đuổi ra khỏi làng...Và như vậy thì thân phận của những đứa trẻ ngoài giá


15

thú cũng không được xác định rõ ràng về nguồn gốc của mình, bởi trong xã hội,
trong các Bộ luật thể hiện rất rõ sự phân biệt đối xử giữa các con mà thực tế điều đó
còn liên quan đến danh dự uy tín và đặc biệt là các quyền lợi về kinh tế của các chủ
thể có liên quan. Ngoài ra, theo cách truyền thống thì có thể dùng giọt máu của đứa
trẻ đó và của từng người đàn ông (có thể bao gồm cả người chồng của mẹ đứa trẻ) bị

nghi ngờ nhỏ vào một bát nước nếu hai giọt máu hoà quện với nhau thì ngưòi đàn
ông đó là cha của đứa trẻ (xét về mặt khoa học thì điều đó không thể mang lại một
kết quả chính xác).
Tóm lại, trong thời kỳ phong kiến thì pháp luật Việt Nam chưa qui định cụ thể
vấn để xác định cha, mẹ, con, đây là một hạn chế. Tuy nhiên, xét về điều kiện hoàn
cảnh xã hội lúc bấy giờ do những tư tưởng phong kiến và đạo đức Nho giáo ăn sầu
vào tiềm thức của mỗi người, đặc biệt là người phụ nữ luôn chịu sự an phận “chính
chuyên chỉ có một chổng” nên con cái sinh ra trong thời kỳ giá thú là có người cha
đích thực của mình.
1.3.2. Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, đất nước ta bị chia thành ba kỳ:
- Bắc kỳ
- Trung kỳ
- Nam kỳ
Cùng với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp đã cho xây dựng và áp dụng ở
mỗi kỳ một BLDS riêng.
- Bộ Dân luật Giản Yếu được công bố ngày 10/03/1883, áp dụng ở các tỉnh
Nam kỳ và ba Thành phô' lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và Hải Phòng. Đây là Bộ luật
được ban hành dựa trên sự sao chép máy móc từ Bộ Luật Dân sự Napoleon (1804)
của Pháp, do vậy không phù hợp với phong tục tập quán và hoàn cảnh xã hội Việt
Nam.
- Bộ Dân luật Bắc kỳ được Thống sứ Bắc kỳ ban hành ngày 30/03/1931 và
được thi hành trên toàn Bắc kỳ từ ngày 01/07/1931.
BDLBK cũng có sự học hỏi theo các nguyên tắc của BLDS Pháp nhưng phần
nào đã phản ánh được các tục lệ truyền thống của Việt Nam.
- Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật được ban hành từng quyển một từ ngày
13/06/1936 đến ngày 28/02/1939 được áp dụng ở các tỉnh Trung kỳ. Bộ ỉuật này có


16


sự sao chép lại BDLBK và có sự sửa đổi một số điều, khoản.
Cả ba BLDS trên đều qui định rất cụ thể các chế định về HN&GĐ trong đó đã
dành hẳn một thiên riêng với nhiều chương, điều để xác định cha, mẹ, con. Bởi ở các
Bộ luật này qui định về vấn đề xác định cha, mẹ, con có những nét tương đồng, do
vậy chúng tôi chỉ chủ yếu tập trung khai thác và nghiên cứu vấn đề này trong
BDLBK- Bộ luật mà chúng tôi cho rằng tiêu biểu nhất cho giai đoạn này.
BDLBK đã qui định vấn đề xác định cha, mẹ, con tại Quyển thứ nhất, Thiên
thứ sáu, gồm năm chương.
* Các nội dung cơ bản về xác định cha, mẹ, con:
+ Khái niệm
Trong Bộ luật này đã đưa ra hai khái niệm là “con chính” và “con hoang”:
- Con chính là con do có giá thú mà sinh ra, khái niệm này được đề cập đến
ngay ữong tiêu đề của Chương thứ nhất. Trong HVTKHL cũng đưa ra khái niệm
này như sau: “ Con chính nghĩa là con do người mẹ có giá thú chánh thức mà sinh
ra” [13, tr.52]
- Con hoang “Tức là con do cha mẹ nó không có giá thú hợp phép mà sinh ra”
[1, tr.33]. Còn HVTKHL thì lại dùng khái niệm “ con biệt tình” và định nghĩa:
“Những con không do giá thú chính thức mà sinh ra nghĩa là con biệt tình”[13,
tr.56]. Như vậy, khái niệm “con hoang" và khái niệm “con biệt tình" là như nhau.
Qua khái niệm trên chúng ta thấy rằng các Bộ Dân luật thời kỳ này đã lấy “giá
thú” làm tiêu chuẩn để phân biệt con chính và con hoang. Vậy “giá thú” là gì?
Đây là một từ Hán Việt, theo cách giải thích của một số học giả trước đây thì
danh từ giá thú gồm có chữ “giá” nghĩa là lấy chồng và chữ “thú” có nghĩa là lấy vợ,
do vậy danh từ giá thú bao hàm cả trường hợp con ữai lấy vợ và con gái lấy chồng.
Còn theo quan niệm cổ của Việt Nam thì “giá thú” là sự phối hợp giữa một người
đàn ông và một người đàn bà với mục đích lập gia đình, sinh con để nối dõi, thờ
phụng tổ tiên và phải được luật pháp công nhận. “Giá thú” là nền tảng cơ bản của
gia đình chính thức bởi gia đình chính thức được thành lập là do “giá thú” và con cái
do cha mẹ có giá thú sinh ra là con chính thức. Từ đó suy luận rằng nếu không có

một gia đình chính thức mà đứa trẻ được sinh ra thì đứa ừẻ đó là con hoang (hay con
biệt tình).
Việc qui định và phân biệt các khái niệm này là một sự phát triển trong kỹ
thuật lập pháp và là bước phát triển hoàn thiện hơn so với pháp luật thời kỳ trước.


17
THƯ VIỄN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

NÓI

+ Xác định quan hệ cha con chính thức PHÒNG GV
Trong các Bộ Dân luật thời kỳ này chỉ đề cập đến việc xác định quan hệ cha
con chính thức mà không xác định quan hệ mẹ con bởi theo quan niệm truyền thống
thì quan hệ giữa mẹ và con đương nhiên được xác lập từ sự sinh đẻ của người mẹ.
Còn quan hệ cha con thì phải suy đoán từ việc người mẹ đó có giá thú hay
không.
Điều 151 - BDLBK qui định: “Phàm thụ thai trong thời kỳ giá thú thì cha đứa
con sinh ra là người chồng”. Điều 148 - HVTKHL cũng qui định tương tự: “Phàm
một đứa con nào do một người đàn bà có chính đáng hôn thú bất cứ vợ chính hay vợ
thứ, thụ thai trong thời kỳ vợ chồng đoàn tụ mà sinh ra, thời chồng người đàn bà ấy
tức là cha đứa con ấy. Đứa con ấy là đứa con chính.”. Theo cách hiểu thông thường
thì “thụ thai” là bắt đầu có thai, như vậy về nguyên tắc trong các Bộ luật này chỉ
thừa nhận là con chính thức khi được người mẹ bắt đầu thai nghén trong thời kỳ giá
thú. Điều này cũng rất dễ lý giải vì trong thời kỳ này vẫn còn ảnh hưởng nặng nề
của tư tưởng phong kiến, hôn nhân do cha mẹ sắp đặt, nam nữ thụ thụ bất thân... Do
vậy thường khi người phụ nữ kết hôn rồi mới bắt đầu thụ thai và sinh con và đương
nhiên là con của người chổng người mẹ.
Để đảm bảo đứa con đó đích thực là con của người chổng của người me thì

pháp luật đã qui định khoảng thời gian nhất định để được gọi là thụ thai trong thời
kỳ giá thú: “Tức là kể từ sau khi đã làm lễ cưới cách ngoại một trăm tám mươi ngày
sinh con, hay là kể từ sau khi đã tiêu hôn mà trong khoảng ba trăm ngày sinh con”
(Điều 151 - BDLBK).
Điều đó có nghĩa là chỉ những đứa trẻ được sinh ra sau 180 ngày kể từ ngày lập
giá thú hoặc trong thời gian 300 ngày kể từ khi giá thú đoạn tiêu mói được gọi là
con được thụ thai trong thời kỳ giá thú.
Tại sao nhà làm luật thời kỳ này lại lấy khoảng thời gian là sau 180 ngày kể từ
khi lập giá thú và trong khoảng 300 ngày sau khi chấm dứt giá thú? Bỏi theo cách
hiểu truyền thống thì đây là khoảng thời gian mang thai tối thiểu và tối đa để sinh ra
một đứa con của người phụ nữ.
Như vậy, về nguyên tắc nếu đứa con sinh ra trước 180 ngày kể từ khi lập hôn
thú hoặc sau 300 ngày kể từ khi giá thú đoạn tiêu thì người cha có quyền khỏi tố
khước từ phụ hệ và đứa trẻ đó không đương nhiên là con chính của người chồng.
Đối với trưòĩig hợp sinh con sau 300 ngày kể từ khi chấm dứt giá thú thì


18

đương nhiên không thể là con của người chổng:
“Phàm khi tiêu hôn đã cách ngoại ba trăm ngày mới sinh con, thì có thể chối
cãi không cho đứa con ấy là con chính của chổng cũ. Lại khi có đơn xin ly hôn, đã
có mệnh lệnh toà án cho phép hai vợ chổng ra ở riêng, mà kể từ lúc có mệnh lệnh ấy
đã cách ngoại 300 ngày mới sinh con, thì cũng thể” (Điều 154 - BDLBK).
Tuy nhiên, đối với những đứa con sinh ra trước 180 ngày kể từ khi lập giá thú
cũng là con của người chồng nếu người chồng không khởikiện, ngoài rapháp luật
cũng qui định hai trường hợp mà người chồng đương nhiên phảinhận con sinh ra
trước 180 ngày kể từ khi lập giá thú là con chính, đó là:
“ 1, Trước khi lập giá thú đã biết ngưòi đàn bà có thai;
2,


Đã chứng kiến việc khai sinh và đã ký vào chứng thư khai sinh, hay là

trong chứng thư ấy đã biên lời khai rằng không biết ký tên” (Điều 152 - BDLBK).
Điều này đã cho phép thêm một trường hợp nữa để được xác định là con chính thức
khi đứa trẻ được người mẹ thụ thai trước thời kỳ giá thú và sinh ra trong thời kỳ giá
thú và được người cha mặc nhiên thừa nhận, chứ con chính không chỉ là được người
mẹ thụ thai trong thời kỳ giá thú,
Như vậy, pháp luật đã qui định trong những trường hợp nào thì đứa trẻ được
xác đinh là con chính thức của người chồng. Và từ đó có thể chứng minh tư cách
con chính thức bằng chứng thư khai sinh. Trong những trường hợp đặc biệt có thể
chứng minh bằng các phương pháp luật đinh khác nhau là có quan hệ cha con trên
thực tế mà pháp luật thời bấy giờ gọi là “ chứng đích tình con chính” khi vẫn mang
họ cha, có quan hệ cha con như cấp dưỡng, giáo dục, được họ hàng gia đình và xã
hội thừa nhận. (Điều 160, 161,162 - BDLBK).
+ Khước từ quan hệ cha con chính thức
- Quyền khước từ:
Người cha có quyền khởi kiện không nhận đứa con do được thụ thai trong thời
kỳ giá thú:
Nếu người chổng không nhận con thì người chổng phải có chứng cứ chứng
minh rằng mình không thể là cha của đứa trẻ, như vậy nghĩa vụ chứng minh thuộc
về ngưòi chồng. Và người chồng có thể chứng minh bằng các chứng cứ sau:
Trong khoảng thời gian từ 300 ngày đến 180 ngày trước khi sinh đứa con thì
người chồng không thể ở chung với vợ mình được do xa cách hoặc do nguyên nhân
ngẫu nhiên khác (Điều 152 - BDLBK).


19

Sự phạm gian của người vợ đã có đủ chứng cứ và xét trên thực tế thì người

chồng không thể là cha của đứa trẻ “Chỉ vì một cớ vợ phạm tội thông gian mà chồng
kiện không nhận con thì chưa đủ lẽ. Tuy nhiên, nếu sự phạm gian đã có chứng cớ
rồi, mà xét tình trạng cũng rõ người chồng không phải là cha đứa bé, thì người
chổng cũng có thể kiện không nhận đứa bé ấy” (Điều 153 - BDLBK).
Ngoài ra, pháp luật còn qui định người đổng thừa kế với đứa trẻ hoặc người bị
đứa trẻ tranh chấp quyền thừa kế có quyền yêu cầu xem xét lại quan hệ cha con
chính thức nếu người chổng của người mẹ bị chết hoặc không có khả năng nhận
thức (Điều 156 - BDLBK). Điều đó chứng tỏ rằng quyền yêu cầu xác định lại quan
hệ cha con trong pháp luật thời kỳ này rất rộng, theo suy luận thì có thể bao gồm
những người thuộc hàng thừa kế của người chồng đó (con cái, cha mẹ, ông bà, anh
chị em, họ hàng bên nội, vợ) theo thứ tự luật định.
Người chồng có quyền khởi kiện không nhận đứa con do được thụ thai trước
thòi kỳ giá thú, hoặc được sinh ra sau ba trăm ngày kể từ khi chấm dứt giá thú. Đây
là trường hợp người chồng dễ dàng phủ nhận đứa con đó không phải là con của
mình.
- Thời hạn khởi kiện:
Theo qui định tại Điều 155 - BDLBK thì thời hạn để khởi kiện không nhận con
của người chồng là một tháng kể từ khi đứa trẻ được sinh ra nhưng nếu người chồng
đi vắng thì thời hạn này là hai tháng kể từ khi về nhà. Còn nếu giấu diếm sự sinh đẻ
thì thòi hạn là hai tháng kể từ khi phát hiện ra sự giấu diếm đó.
Đối với các chủ thể được quyền khởi kiện khác thì thời hạn là ba tháng kể từ
ngày biết việc sinh đứa trẻ.
Trong trường hợp đặc biệt nếu đã hết thời hạn trên mà người khởi kiện chứng
minh được rằng mình bị mắc lừa nên đã nhận đứa trẻ là con thì thời hạn sẽ được tính
thêm hai tháng nữa kể từ ngày phát hiện ra sự mắc lừa ấy. ( Điều 157 - BDLBK).
Qua đó chúng ta thấy rằng việc qui định thời hạn khởi kiện này có ý nghĩa
nhất định, đó là làm ổn định quan hệ cha mẹ và con, nếu hết thời hạn luật định thì
quan hệ cha và con đó được tồn tại lâu dài và bền vững, tạo được một tâm lý ổn định
cho các thành viên trong gia đình, tuy nhiên quan hệ cha mẹ và con cái vốn rất nhạy
cảm và tế nhị do vậy việc qui định thời hạn khởi kiện này cũng còn nhiều vấn đề cần

tranh luận.
Nếu một đứa trẻ không được người cha nhìn nhận và bản án của Tòa án đã xác


×