1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi : Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện Phú Ninh
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng học văn miêu tả cho học sinh lớp 4 qua phân môn Tập làm văn”
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học :
2018-2019; học kì I năm học 2019-2020
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Sáng kiến “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng học văn miêu tả
cho học sinh lớp 4 qua phân môn Tập làm văn” là sáng kiến đưa ra một số
biện pháp, giải pháp mang tính khả thi và thực hiện có hiệu quả ở thực tế trong
công tác giảng dạy trong trường Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng học văn
miêu tả cho học sinh lớp 4 qua phân môn Tập làm văn. Cụ thể như sau:
4.1.Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
a.Thuận lợi:
* Về phía học sinh:
- Đa số học sinh được sự quan tâm chăm sóc của gia đình, được giáo dục
trong môi trường lành mạnh, trong xã hội phát triển, tiến bộ. Học sinh có động
cơ học tập đúng đắn và luôn muốn tìm tòi khám phá thế giới muôn màu muôn
vẻ ở xung quanh.
- Trẻ em rất giàu khả năng sáng tạo, trong tư duy các em đều có những sở
trường riêng. Ở lứa tuổi học sinh lớp 4, trẻ em thích tỏ ra mình là một người lớn
và say mê học hỏi, ham hiểu biết. Hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng. Trẻ em
thường thể hiện nét ngộ nghĩnh và cảm nhận thế giới xung quanh theo từng cách
riêng với trí tưởng tượng không giống nhau.
* Về phía giáo viên:
- Tài liệu giảng dạy, thiết kế bài học phong phú, phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Quan tâm và hiểu tâm lý từng học sinh trong lớp, nắm được sức
học từng em để từ đó giáo viên có hướng rèn luyện đúng đắn, tạo hứng thú học
văn miêu tả.
- Trang thiết bị dạy học đảm bảo việc ứng dụng công nghệ thông tin.
2
- Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng
môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng thông qua một số
chuyên đề mà nhà trường đã tổ chức.
- Bản thân có nhiều năm công tác trong nghề nên có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy.
- Học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước.
- Nắm được nội dung, cấu trúc chương trình phân môn Tập làm văn ở
khối lớp đang giảng dạy .
- Tham khảo nhiều sách, báo và những bài tập làm văn hay để làm kho tư
liệu cho học sinh.
b.Khó khăn:
- Phân môn Tập làm văn là phân môn khó dạy so với các môn học khác,
giáo viên dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng
tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Việc cung cấp vốn
sống, vốn hiểu biết cho các em qua các phân môn của Tiếng Việt và các môn
học khác chưa được chú trọng. Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học
sinh Tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý nhận thức các sự vật còn
hạn chế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa thật sự phát triển, nên việc học tập ở
phân môn Tập làm văn gặp nhiều khó khăn .
- Đối với học sinh trường Tiểu học Nguyễn Duy Hiệu, tuy là một trường
nằm ở trung tâm thị trấn Phú Thịnh nhưng điều kiện học tập của một số học sinh
gặp nhiều khó khăn, bố mẹ của các em thường đi làm ăn xa gửi con cho ông bà
chăm sóc. Học sinh chưa nhạy bén trong va chạm, vốn sống và vốn từ của các
em chưa thật sự phong phú.
- Tư duy khái quát chưa cao, học sinh thường chú trọng đi sâu vào chi tiết
cụ thể mà chưa có khả năng tổng hợp vấn đề cần diễn đạt .
- Bên cạnh đó, còn một vài phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm
đến việc học tập của con mình, còn trông chờ, ỷ lại, giao toàn bộ cho giáo viên
chủ nhiệm làm ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động giảng dạy của giáo viên.
c.Thực trạng
- Mục tiêu của phân môn: Qua phân môn nhằm trang bị cho học sinh
những kiến thức và kĩ năng làm văn. Góp phần cùng môn học khác mở rộng vốn
sống, tư duy lôgic, bồi dưỡng cảm xúc, thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho
học sinh.
- Thực tế cho thấy nội dung chương trình của sách giáo khoa mới khác
nhiều so với chương trình cũ nên người giáo viên cần nắm bắt được phương
3
pháp dạy bộ môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng để
dạy có hiệu quả. Hơn nữa chương trình sách giáo khoa mới được biên soạn trên
quan điểm giao tiếp, nghĩa là học sinh được luyện nói trong quá trình giao tiếp.
Qua thực tế giảng dạy lớp 4, tôi thấy chất lượng học tập làm văn viết của học
sinh chưa cao. Chỉ một số ít học sinh viết văn có bộc lộ trí tuệ và cảm xúc. Còn
phần lớn các bài văn miêu tả của các em có bố cục chưa cân đối, mang tính liệt
kê các chi tiết, bộ phận đơn giản. Trình tự miêu tả chưa hợp lí, chọn lọc các chi
tiết chưa tiêu biểu, thiếu hình ảnh, diễn đạt chưa mạch lạc. Đặc biệt là học sinh
chưa nói, viết theo cảm nghĩ của mình. Qua tiến hành khảo sát lớp 4A đầu năm
học với đề bài: “Viết đoạn văn ngắn từ 8 đến 10 câu tả một con vật em thích.”
kết quả như sau:
*Đầu năm học: 2018 – 2019
Thời gian TSHS
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Đầu năm
28
T
H
C
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5
17,8 %
15
53,6%
8
28,6%
d. Nguyên nhân những tồn tại trên:
Với tình hình hiện nay ở trường tôi, việc dạy và học Tập làm văn đang là
một vấn đề nan giải. Học sinh không có hứng thú với việc viết văn; giáo viên rất
ngại khi chọn một tiết Tập làm văn để dạy thao giảng, vì ít nhận được sự hợp tác
từ học sinh.
Qua điều tra tại lớp học, tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên là:
*Nguyên nhân khách quan:
+ Về mục tiêu của phân môn Tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói
riêng, theo tôi chưa có sự đồng nhất. Cụ thể:
Ở lớp 2, 3 các em mới chỉ nhận biết đoạn văn và ý chính của đoạn, lớp 4 các
em bắt đầu nhận biết ba phần và lập dàn ý cho bài văn kể chuyện và miêu tả. Lên
đến lớp 5 các em mới phải hoàn thành bài làm văn tả người, tả cảnh. Thế nhưng
trong quá trình học ở lớp 3, 4, 5 các em đã phải viết được bài văn hoàn chỉnh.
* Nguyên nhân chủ quan:
+ Học sinh quá nghèo vốn từ Tiếng Việt.
+ Việc học văn miêu tả của đại đa số học sinh còn bị hạn chế rất nhiều kể
từ việc nắm vững và vận dụng các kiểu bài miêu tả tới bố cục, hành văn, dùng
từ, đặt câu đến lỗi chính tả.
+ Hình thức tổ chức tiết dạy của giáo viên chưa phong phú, chưa thu hút
được sự tập trung của học sinh.
4
+ Phần lớn các em là con em thuần nông nên điều kiện học tập của các em
rất hạn chế. Khuyết điểm lớn nhất là bệnh công thức, khuôn khổ, máy móc,
thiếu chân thực trong văn miêu tả. Làm văn miêu tả học sinh thường hay mượn
tình ý của người khác, thường là một bài văn mẫu nào đó. Nói cách khác, học
sinh thường sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu, đoạn văn mẫu nào đó, khi làm
bài các em sao chép ra và biến thành bài văn của mình. Các em miêu tả còn hời
hợt, chung chung, không có một sắc thái riêng biệt về đối tượng miêu tả.
4.2. Nội dung đã cải tiến sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
của giải pháp đã biết:
Việc dạy các môn học nói chung và dạy môn Tiếng Việt nói riêng ở bậc
Tiểu học đang hướng tới mục tiêu chung của giáo dục. Mỗi phân môn, mỗi tiết
học của môn Tiếng Việt đều hướng đến mục đích phát triển các kĩ năng “nghe,
nói, đọc, viết” cho học sinh mà phân môn Tập làm văn là một trong những phân
môn quan trọng của bộ môn Tiếng Việt (phân môn thực hành tổng hợp). Bởi nó
vận dụng tất cả những hiểu biết về nhận thức, kĩ năng của phân môn, đòi hỏi học
sinh phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc để thực hiện các yêu cầu bài học. Đặc
biệt dạy văn miêu tả là cần thiết giúp trẻ sản sinh ra những văn bản có cảm xúc
chân thực khi nói và viết.
Nhưng với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 4 việc hình thành và
phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng, được thực hiện
ở tất cả các môn học và nổi bật nhất là ở môn Tiếng Việt. Do đó, việc dạy Tập
làm vãn ở Tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh nãng lực sử dụng tiếng mẹ
ðẻ, tạo ðiều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các
môn học khác. Chính những vãn bản viết các em có ðýợc từ phân môn Tập làm
vãn ðã thể hiện những hiểu biết về thực tế, những kĩ nãng sử dụng Tiếng Việt mà
các em ðýợc học ở môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng
và các môn học khác.
Mục tiêu của việc dạy học Tập làm văn ở lớp 4 là: Cung cấp, hướng dẫn
cho học sinh biết lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có
đủ 3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc; biết nói, viết câu có
dùng phép so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách
diễn đạt, cách trình bày.
Tuy nhiên trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy một điều là học sinh
chưa làm được bài văn miêu tả hoàn chỉnh.Vì vậy, tôi cố gắng tìm tòi, học hỏi để
có được những tiết dạy làm văn thật tốt nhằm giúp học sinh có những bài văn
5
của chính các em. Chính vì thế mà tôi đã tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm để
rút ra cho mình những kinh nghiệm tốt nhất trong quá trình giảng dạy phân môn
Tập làm văn ở Tiểu học.
4.3. Các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp:
a. Đối với giáo viên:
a.1. Điều tra phân loại học sinh
Giáo viên điều tra phân loại học sinh, nắm chắc từng đối tượng học sinh:
học sinh hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành. Nắm chắc được đối tượng
học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp
dạy học giúp vun xới, phát triển năng lực học văn của học sinh có năng khiếu.
Đồng thời, giáo viên cũng có biện pháp phù hợp giúp học sinh chậm tiến biết
làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
a.2. Dạy học sinh quan sát để tìm ý cho bài miêu tả.
* Quan sát là sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật. Mắt cho ta cảm
giác về màu sắc (xanh, đỏ, vàng, da cam,…), hình dạng (cây cao hay cây thấp,
cái bàn hình vuông hay hình chữ nhật,...), hoạt động (con gà khi đi cổ thường
nghểnh cao, con vịt bước đi chậm chạp, lạch bạch,…). Dạy học sinh quan sát
chính là dạy cách sử dụng các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật.
* Quan sát làm bài văn miêu tả, cần tìm ra những đặc điểm riêng biệt của
từng đồ vật, con vật, cây cối.
Ví dụ: Quan sát cây bút chì của em. Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận
xét không phải chỉ màu sắc bên ngoài của bút chì mà còn cần nhận ra những
dòng chữ in trên bút chì, các đặc điểm khác mà chỉ riêng bút chì của em mới có.
Nhận xét về con gà trống nhà em, phải cố tìm ra đặc điểm miêu tả mào, bộ lông,
thân hình của nó, … có gì khác với con gà trống của nhà hàng xóm.
* Khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định hướng cách quan sát và quan sát
có phương pháp cho học sinh.
+ Lựa chọn trình tự quan sát :
- Trình tự không gian: Thường quan sát bao quát toàn bộ phận đến quan
sát từng bộ phận, quan sát từ trái sang phải hay từ trên xuống dưới, hay từ ngoài
vào trong.
- Trình tự thời gian: Quan sát cây cối, theo mùa, trong năm,…. Quan sát
con vật như quan sát sinh hoạt của con gà, con lợn theo thời gian trong ngày. Dù
quan sát theo trình tự nào cũng cần tập trung vào bộ phận chủ yếu và trọng tâm.
+ Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát.
6
- Thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Giáo viên cần hướng dẫn
học sinh tập trung sử dụng các giác quan khác để quan sát như : thính giác (tai),
khứu giác (mũi), xúc giác.
Ví dụ: Khi tả cây bút chì giáo viên có thể hỏi “Dùng tay sờ vào bút chì
em có cảm giác thế nào ?”.
* Hướng dẫn cách thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại.
- Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng dẫn các em trả lời
bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi tả hình ảnh.
a.3. Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả và lựa chọn từ
ngữ miêu tả.
Nếu học kiểu bài kể chuyện học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện
đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi
hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất
phong phú đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ”
được một cảnh một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống.
Vốn từ ngữ miêu tả có ý nghĩa quan trọng đối với việc làm văn miêu tả,
giúp học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả và lựa chọn từ ngữ khi miêu tả là vấn
đề cần quan tâm của giáo viên.
a.4. Tạo điều kiện để học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả.
- Biện pháp đầu tiên giúp các em tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả qua các bài
tập đọc. Nhiều bài tập đọc là bài văn miêu tả hay. Số lượng từ ngữ miêu tả ở các
bài đó phong phú, cách sử dụng sáng tạo. Dạy các bài Tập đọc, giáo viên cần chỉ
ra các từ ngữ miêu tả, có thể chọn trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay,
sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Cánh diều tuổi thơ” giáo viên cần chỉ cho học
sinh thấy những câu văn tác giả miêu tả cánh diều (tác giả đã quan sát cánh diều
bằng nhiều giác quan (mắt, tai) để miêu tả cánh diều một cách sinh động, hấp dẫn).
a.5. Hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ khi miêu tả.
- Có vốn từ nhưng phải biết dùng chúng đúng lúc, đúng chỗ. Muốn vậy
phải coi trọng việc lựa chọn từ ngữ. Khi diễn đạt kết quả quan sát cũng như khi
làm bài văn miêu tả. Mỗi chi tiết miêu tả thường chỉ có một từ ngữ, một hình
ảnh thích hợp do đó có tác dụng gợi hình, gợi cảm nhất. Có khi ngay từ đầu các
em đã nắm bắt được từ ngữ hay hình ảnh này đẹp. Nhưng thông thường việc xác
định từ ngữ, hình ảnh cần dùng cho một chi tiết miêu tả phải trải qua một quá
trình tìm tòi chọn lọc. Quá trình này sẽ quyết định tốc độ (nhanh hay chậm) và
chất lượng (tìm được đúng từ ngữ, hình ảnh cần hay không).
7
a.6. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc đối với học sinh.
Học sinh Tiểu học vùng thuận lợi như Phú Ninh thì có thể viết được những
bài văn miêu tả chỉ bằng quan sát qua sự vật thật, tranh ảnh, phim…
a.7. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý.
Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý
trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm
ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.
a.8. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu.
Gợi ý cho học sinh có năng khiếu làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả
lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại và cho học sinh phát biểu. Nhưng điểm
mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa cho từng em,
động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ.
a.9. Cá thể hóa hoạt động dạy học.
Quan tâm đến đối tượng học sinh chậm tiến bộ đồng thời vẫn đảm bảo
phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh có năng khiếu.
a.10. Chấm bài thường xuyên.
Đồng thời với việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải
giúp các em phát hiện ra những điểm hay, những điểm chưa đạt trong bài văn
của mình. Trên cơ sở đó, học sinh phải sửa lại bài làm của mình cho đúng hơn,
hay hơn.
Giáo viên cần tránh việc chê bai học sinh nhưng cũng không được lạm
dụng lời khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá
nhiều, khen không đúng lúc. Kiểu như mỗi lần học sinh nói xong, nhiều lúc chỉ
là nhận xét bạn đã viết hoa đầu câu chưa, giáo viên đều nhận xét “Em giỏi lắm”.
a.11. Giúp học sinh luyện viết câu.
- Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là
yêu cầu cơ bản vì câu là đơn vị của lời nói. Đối với học sinh có năng khiếu viết
văn tốt, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, lột tả
được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Còn đối với học chậm phát triển hơn
thì giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói.
- Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ
diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy
cho học sinh sử dụng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải được
thường xuyên ôn luyện cho học sinh. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng
dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét.
a.12. Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn kiến thức văn học .
8
Tích lũy văn học là điều kiện tối thiểu để có thể học tốt môn Tiếng Việt,
nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính
tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được
sửa chữa. Trong phân môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để
giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học để cho học sinh ghi
chép các ý hay, câu đoạn văn hay.
a.13. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một
đoạn văn.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc
một đoạn văn được giáo viên tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái
hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học
Tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.
b. Đối với học sinh:
* Trước khi đến lớp (Chuẩn bị bài ở nhà)
- Quan sát kĩ đối tượng cần miêu tả
- Đọc kỹ văn bản và phần chú thích
- Đọc có suy nghĩ để chia bố cục bằng bút chì vào sách giáo khoa.
- Khi đọc có thể gạch dưới từ ngữ, câu trong văn bản (nếu thấy cần).
- Nếu có điều kiện, các em nên tìm đọc những bài văn hay.
* Khi học trên lớp: Tập trung nghe giảng, cùng các bạn tìm hiểu cảm nhận
cái hay, cái đẹp của tác phẩm dưới sự dẫn dắt của thầy, cô. Cụ thể là :
- Trước những câu hỏi, những vấn đề được đặt ra, phải chịu khó suy nghĩ,
tìm câu trả lời.
- Tích cực tham gia hoạt động nhóm phát biểu ý kiến. Điều đó không chỉ
giúp các em trau dồi vốn ngôn ngữ mà còn rèn luyện kỹ năng nói và sự tự tin.
- Mạnh dạn nêu những thắc mắc của bản thân.
- Ghi chép bài đầy đủ, chính xác.
- Ngoài phần thầy, cô ghi bảng các em nên tập cho mình thói quen ghi
chép thêm vào sổ tay những điều hay thấy cần thiết, chẳng hạn: ý so sánh, đối
chiếu, mở rộng nâng cao, hình ảnh nhân hóa,…
- Gạch dưới từ ngữ đặc sắc, phép tu từ, so sánh… trong câu thơ, câu văn
hay dẫn chứng trong truyện để làm tư liệu cho mình.
- Nắm được giá trị nghệ thuật nội dung của tác phẩm ngay trong giờ học.
* Sau khi học:
- Học bài ( phần ghi nhớ ).
- Viết các đoạn văn, bài văn, làm các bài tập trong phần “Luyện tập” trong
9
sách hoặc vở bài tập.
- Đọc tài liệu tham khảo để mở rộng, khắc sâu kiến thức.
4.4. Các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp
a. Bồi dưỡng hứng thú học Tập làm văn cho học sinh:
Để học sinh yêu thích học văn miêu tả, ngay từ những tiết đầu hình thành
các kiến thức mới, tôi đã tạo cho học sinh cảm hứng học tập bằng cách cho học
sinh nghe những bản nhạc liên quan hoặc xem những bức tranh, bức ảnh, bức vẽ
về chủ đề đó. Khi các em thấy yêu, thấy thích chắc chắn việc miêu tả sẽ dễ dàng
hơn. Với các đề bài đóng, tức là yêu cầu tất cả học sinh viết cùng về một đối
tượng cũng dễ gây ra sự nhàm chán cho học sinh. Vì vậy, đề tài của văn miêu tả
mà tôi đưa ra thường là đề mở. Ví dụ, “Hãy tả một con vật em yêu thích nhất”
hay “Hãy tả một thứ đồ chơi gắn bó với em nhất”,… Việc cả lớp cùng tả một
con vật hay một thứ đồ chơi chẳng khác nào các em đang phải tả con vật hay thứ
đồ chơi của cô giáo - vậy các em lấy đâu ra tình cảm? Như vậy, đương nhiên, bài
văn của cả lớp sẽ giống nhau. Việc hàng ngày được tiếp xúc, gắn bó với đối
tượng mình sẽ miêu tả giúp các em cảm nhận về nó chính xác hơn, có cái nhìn
tích cực hơn và đặc biệt là tình cảm dành cho đối tượng sẽ giúp bài viết có cảm
xúc hơn.
Trong mỗi giờ học Tập làm văn, các em luôn được tạo hứng thú với bộ
môn bằng những hình thức trò chơi hấp dẫn. Có khi màn khởi động cho giờ học
lại là một câu đố vui có nội dung liên quan, học sinh hào hứng tham gia giải đố,
bị lôi cuốn vào bài học từ lúc nào mà vẫn nghĩ mình đang vui chơi chứ không
phải chính đang học về văn miêu tả.
Ngoài ra, tôi còn khuyến khích học sinh mang đến lớp những đồ vật thật
gần gũi với các em hoặc đã gắn bó với các em từ rất lâu, thật thú vị khi trên mặt
bàn học sinh là sự hiển hiện những vật cần miêu tả. Rồi tôi yêu cầu các em hãy
quan sát thật kĩ các bộ phận của đối tượng bao gồm: Nhìn bao quát, cảm nhận
bằng nhiều giác quan khác nhau, cố gắng tìm ra đặc điểm riêng của đồ vật, phân
biệt nó với những đồ vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại. Sau đó, học sinh
sẽ được phân tích mẫu là bài viết của một học sinh từ năm trước để cùng tìm ra
được cấu tạo của một bài văn miêu tả - thay vì chỉ có những văn bản mẫu mà
sách giáo khoa lựa chọn.
Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn cũng như với óc quan sát tinh tế của
con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại cho học sinh những cảm
nhận về sự vật, hiện tượng cần miêu tả. Vì vậy, một trong những bước quan
trọng không thể thiếu được khi hình thành cho học sinh viết bài dựa trên việc
10
phân tích mẫu đó là quan sát và ghi chép. Với những giờ học Quan sát và miêu
tả đồ chơi, học sinh được thỏa thích mang những đồ chơi mà mình yêu thích đi
để khoe với bạn bè hoặc cùng chơi với bạn nhưng quan trọng hơn hết là các em
được học cách miêu tả. Qua trực quan học sinh biết tả bao quát, tả từng bộ phận
và nêu được những đặc điểm nổi bật của thứ đồ chơi mà học sinh cần miêu tả,
học sinh có nhu cầu được thể hiện mình khi các em say sưa miêu tả với bạn bè
cùng lớp về món đồ chơi yêu thích, các kỉ niệm gắn liền với món đồ chơi, đồ
vật. Chính điều đó đã khích lệ kĩ năng giao tiếp của các em, tăng cường khả
năng thực hành ngôn ngữ để các em biết diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc của
mình bằng lời nói, từ đó viết nên bài viết một cách mạch lạc, rõ ràng. Trước
những giờ thực hành viết thì các em được thỏa sức luyện nói, tự tin thuyết trình
trước lớp. Với những bộ phận, chi tiết học sinh chưa biết miêu tả, tôi có thể gợi
ý một cách chi tiết, giúp học sinh bật ra được các từ ngữ miêu tả phù hợp,
khuyến khích học sinh tả bằng mắt, bằng tai, bằng tay,…Các em trở nên thích
thú, muốn “đắp da thịt” cho “khung xương” mà mình đã tự tìm hiểu.
Ngoài ra, trong những năm gần đây trường chúng tôi với nhiều nỗ lực,
sáng tạo đã thành công khi triển khai dự án «Góc thư viện tại lớp học» theo từng
chủ đề để tạo điều kiện và thu hút học sinh đến gần hơn với kho tàng kiến thức
văn hóa. Đây thực sự là một trải nghiệm thú vị, giúp các em tiếp cận nhiều hơn
với sách, truyện, đọc sách một cách có ý thức, có định hướng, nâng cao văn hóa
đọc. Phong trào này đã và đang giúp học sinh ở trường có thêm vốn sống, vốn
từ, trau dồi kĩ năng viết văn, đặc biệt là thể loại văn miêu tả.
b. Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh:
b.1.Giúp học sinh hiểu thể loại văn miêu tả:
- Muốn viết được bài văn miêu tả, trước tiên học sinh phải biết được khái
niệm về văn miêu tả. Để giúp học sinh hiểu rõ về điều này tôi đã sử dụng biện
pháp so sánh tới nhận diện để giúp học sinh nhận ra một văn bản thuộc thể loại
văn miêu tả. Ví dụ giáo viên cần đặt bên cạnh nó một văn tả khác, chẳng hạn
như văn bản kể chuyện. Giáo viên yêu cầu học sinh phải nêu ra được văn bản
nào thuộc thể loại văn miêu tả và học sinh lý giải được vì sao nó là văn bản miêu
tả. Để làm được điều này giáo viên cần sử dụng phương pháp quan sát, phương
pháp đối chiếu, phân tích, tổng hợp, phương pháp vấn đáp gợi mở để rút ra kết
luận cần thiết về văn miêu tả. Ví dụ: giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài “Cái
nón” (Tiếng Việt 4 tập II/11) và bài “Bốn anh tài” (Tiếng Việt 4 tập II/ 4). Hãy
cho biết văn bản nào là văn bản miêu tả ? Vì sao ? Giáo viên sử dụng phương
pháp quan sát, hình thức học cá nhân, yêu cầu học sinh đọc thầm. Khảo sát hai
11
văn bản trên. Sau đó dùng phương pháp vấn đáp gợi mở, kết hợp với hình thức
học tập cả lớp. Hỏi: Văn bản “Bốn anh tài” nói về điều gì ? Học sinh sẽ trả lời Kể về tài năng, sức khỏe bốn anh tài. Giáo viên - hỏi: Văn bản “Cái nón” nói về
điều gì ? Học sinh nêu - Tả các bộ phận cái nón. Giáo viên - hỏi: Vậy văn bản
nào thuộc thể loại văn bản miêu tả ? Học sinh trả lời - Văn bản “Cái nón”. Giáo
viên - hỏi: Vì sao ? Học sinh so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp để thấy được
văn bản “Cái nón” thuộc thể loại văn miêu tả vì văn bản tả các bộ phận của một
cái nón: miệng nón, vành nón, lá nón, chỉ ra được đặc điểm nổi bật của cái nón.
giáo viên giúp học sinh hiểu rằng: văn bản “Bốn anh tài” nói về nhân vật, tính
cách nhân vật. Tóm lại, từ việc so sánh hai văn bản kể chuyện, miêu tả, học sinh
nhận diện được loại văn miêu tả.
b.2. Biết lập dàn ý cho bài văn cụ thể:
Dù đây là một yêu cầu rất thường xuyên nhưng trên thực tế lại có rất
nhiều em không thể thực hiện được, có những em không biết lập dàn ý là làm
cái gì, để làm gì. Bởi lẽ, ở những lớp dưới, các em không phải làm việc này, mà
các em chỉ viết câu văn, đoạn văn bằng cách trả lời những câu hỏi cho sẵn hoặc
dựa vào những gợi ý của thầy cô một cách đơn giản, ngắn gọn. Trong khi lên lớp
4 thì việc lập dàn ý cho một đề bài cụ thể (loại bài miêu tả) là yêu cầu bắt buộc
các em phải biết thực hiện, tự thực hiện để dựa vào đó mà hoàn chỉnh đoạn văn,
bài văn.
Ví dụ: về một dàn bài Lập dàn ý cho bài văn tả đồ chơi mà em đã chọn
(sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, tập 1, trang 154).
- Mở bài: Giới thiệu đồ chơi mà em thích nhất là Gấu bông.
- Thân bài: Hình dáng bên ngoài: Gấu bông không to, chú gấu bông đang
ngồi, dáng tròn. Bộ lông màu trắng mịn như nhung. Hai mắt đen nháy rất thông
minh. Mũi đỏ, trông ngộ nghĩnh. Trên cổ thắt chiếc nơ màu đỏ chói.
-Kết luận: Em yêu quý gấu bông, ôm gấu bông em rất thích.
Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy
học các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả con vật), tôi
chủ động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa, cùng
xây dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học. Dàn bài chung
này tôi sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học sinh xây dựng dàn ý
riêng cho mỗi bài văn miêu tả sau này. Dàn bài này cũng được sử dụng chung cho
cả lớp trong các tiết Tập làm văn có yêu cầu viết một đoạn văn hay hoàn chỉnh
một bài văn.
12
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (sách giáo khoa
lớp 4, tập hai, trang 112-113), sau khi giúp học sinh rút được nội dung ghi nhớ
như trong sách giáo khoa, tôi sẽ chủ động bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng
câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các em nêu để xây dựng dàn bài chung cho bài văn
miêu tả con vật:
- Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả: Con chó
+ Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì ? (Tên con vật,
nơi nó ở, lí do em thích nó,…)
- Thân bài:
a. Tả hình dáng.
+ Tả bao quát con chó: Con chó có lông màu gì? To hay nhỏ? Béo hay gầy?
+ Tả chi tiết : Chọn tả đầu con chó (mắt, mũi, miệng (mõm, mỏ), tai, …)
hay thân hình nó ( lưng, bụng, ngực; bốn chân: móng vuốt, đuôi, ... ).
b. Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
+ Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, …)
+ Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ ? (con chó: giữ nhà,
mừng chủ, khi chủ vắng nhà hoặc khi có con vật khác, …)
- Kết bài: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
+ Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu
vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó,…). Em làm gì để thể hiện tình cảm
của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, …).
b.3. Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý :
Khi học Tập làm văn, các em gặp rất nhiều khó khăn cả về tri thức và
phương pháp, hiểu biết về cảm xúc, về đối tượng miêu tả. Vậy các em lấy đâu ra
hiểu biết về cây đang ra hoa, ra quả nếu không được quan sát. Những khó khăn
về nội dung miêu tả càng được nhân lên do các em chưa nắm được phương pháp
quan sát, chọn lựa, chắt lọc, hình ảnh miêu tả. Do vậy, trong giờ học, giáo viên
phải uốn nắn, hướng dẫn các em nhận xét, tích cực, chủ động và sáng tạo suy
nghĩ độc lập, tự nhiên, không gò bó, rập khuôn máy móc. Chính vì thế, đòi hỏi
giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc hướng dẫn cho học sinh, động viên
và khuyến khích các em mạnh dạn, tích cực hơn.
Vì vậy, dạy học cho học sinh biết quan sát tìm ý ðể hình thành thói quen
chuẩn bị bài tốt là một yêu cầu quan trọng khi làm vãn. Muốn quan sát tốt, học
sinh cần nắm ðýợc cách quan sát và những yêu cầu quan sát ðể làm vãn. Cùng
một đối tượng (Ví dụ cùng một con gà trống) nhưng mỗi cá nhân lại có sự cảm
nhận riêng (có em thích màu sắc bên ngoài, có em thích dáng vẻ oai vệ, có em
13
lại thích tiếng gáy, …). Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các em, không phê
phán vội vàng, chủ quan, phải giúp học sinh tự tin trong học tập. Tuy nhiên, để
miêu tả một đối tượng nào đó, giáo viên cần giúp các em biết quan sát đối tượng
theo từng góc nhìn, từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “điểm nhấn” của đối
tượng tạo ra nét riêng biệt trong bài văn của mình. Do vậy, để đảm bảo tính chân
thực của bài miêu tả cần phải được bắt nguồn từ quan sát trực tiếp đối tượng
miêu tả, kết hợp với kinh nghiệm sống, trí tưởng tượng của học sinh, phải thể
hiện được tình cảm, cảm xúc thực của các em trước đối tượng miêu tả. Tính
chân thực đòi hỏi phải có chi tiết thực, tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả,
thể hiện được những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của người
học sinh khi bộc lộ thái độ của các em với đối tượng miêu tả.
Để thực hiện những yêu cầu trên, tôi thường hướng cho học sinh thực
hiện thật tốt từng bước:
+ Xác định cụ thể và chọn một đối tượng cần quan sát ( đó là vật gì ? hoặc
con gì ? hay cây gì ? )
+ Quan sát sự vật bằng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác
và cả xúc giác. Trước tiên là quan sát bao quát đối tượng và cảm nhận ( nó đẹp,
dễ thương, hoặc oai phong, hay dữ tợn,..), rồi quan sát từng bộ phận của đối
tượng theo một trình tự nhất định (từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, hoặc đầu,
mình rối đến chi, …). Quan sát thật kĩ những bộ phận của sự vật mà em thích
thú, ấn tượng. Khi quan sát sự vật, các em cũng có thể trao đổi theo nhóm với
nhau để tìm ra những đặc điểm của đối tượng một cách tốt nhất.
+ Kết hợp quan sát là ghi chép ( ghi chép những điều quan sát được ) và
liên tưởng ( liên tưởng để so sánh, nhân hóa sự vật ).
Chẳng hạn, để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có
chứa câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.)
của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật ( sách lớp 4, tập hai, trang
130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con gà trống mà em đã gặp.
+ Quan sát ( hoặc nhớ lại ) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận của
nó. Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
Nếu trường nào không có điều kiện trực tiếp để quan sát thì cần khơi gợi
để các em nhớ lại những ấn tượng, cảm xúc, những nhận xét các em đã quan sát
được trước đây cũng là một biện pháp quan sát. Còn đối với các đối tượng mới
lạ ít tiếp xúc thì việc quan sát trực tiếp là không thể bỏ qua. Để giúp các em
14
quan sát được tốt cần có nhiều biện pháp cụ thể : khơi gợi hứng thú với vật, con
vật, cảnh quan bằng cách cho học sinh xem tranh, ảnh về đối tượng cần miêu tả.
b.4. Bồi dưỡng vốn sống:
Song song với việc giúp cho học sinh yêu thích môn Tập làm văn, có những
tiết học tôi còn cung cấp vốn sống, vốn từ, các kĩ năng quan sát hay kĩ năng về
từ và câu còn thiếu. Điều mà gây khó khăn cho học sinh khi viết hoặc cũng có
thể là học sinh ít có cơ hội để viết theo đúng tình cảm, cảm xúc của mình mà
thường làm theo “sự bắt buộc” chứ không phải do đam mê, yêu thích. Chính vì
thế, mà giáo viên nên khuyến khích, động viên học sinh viết bài theo cảm xúc
của mình. Ví dụ với đề bài “Tả chiếc cặp sách của em" sách giáo khoa Tiếng Việt
lớp 4, tập 2 trang 18), giáo viên có thể giữ nguyên nội dung này nhưng xác định
mục đích tả khác nhau, chẳng hạn như: tả để các bạn thấy mình biết giữ gìn chiếc
cặp cẩn thận như thế nào, hoặc tả để các bạn hiểu mình đã có lúc mắc sai lầm
không biết giữ gìn chiếc cặp đó ra sao, thì chắc chắn bài viết của các em sẽ sinh
động hơn và gần gũi với cuộc sống đời thường hơn.
Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Trước hết đó là vốn sống
trực tiếp: giáo viên cho các em quan sát, trải nghiệm những gì sẽ phải viết. Ví dụ
giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát một luống rau ở nhà trước khi yêu
cầu tả nó, hoặc giáo viên tổ chức cho các em tham quan một danh lam thắng
cảnh của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham quan.
Tất nhiên, giáo viên cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng
tượng phong phú của học sinh. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đến mấy vẫn
phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Ví dụ một em học sinh ở vùng nông
thôn chưa từng thấy công viên thì không thể tả đúng công viên và có cảm xúc
với nó; cũng như không thể tả cây chuối đang trổ buồng, cây bàng đang thay lá
khi chưa hề nhìn thấy chúng lần nào và không thể gây ra xúc động cho ai khi
phải tả con lợn nhà em trong khi nhà chưa bao giờ nuôi lợn. Trong kế hoạch dạy
học của tôi, luôn có những chuyến đi thực tế dành cho học sinh. Khi học sinh
tham quan hoặc quan sát, giáo viên nên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn
cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm
quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát
được, những gì đã được tham quan. Ví dụ như khi học sinh học về bài văn miêu
tả cây cối, các em được đi thăm vườn rau hay các cây cảnh, cây xanh, cây ăn
quả quanh vườn trường. Với các chủ đề văn tả con vật, học sinh lại được đến
trang trại chăn nuôi của người dân sống quanh trường. Hay tổ chức cho các em
đi thăm quan các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh của huyện nhà để có
15
thể tả những cảnh đẹp nổi tiếng của địa phương. Từ đó kĩ năng quan sát, ghi
chép được bổ sung và đặc biệt là cảm xúc sau mỗi chuyến đi bao giờ cũng giúp
học sinh có thêm nhiều hứng khởi để viết bài.
b.5. Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề :
Một điều cũng cần chú ý là hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của các
phương tiện truyền thông, với vô vàn các hình thức vui chơi giải trí, học sinh
không có nhiều thời gian và cơ hội để nghiền ngẫm những cuốn truyện chữ dày
hàng nghìn trang như thời của chúng ta cách đây ít nhất là hơn mười năm. Có
chăng là học sinh tranh thủ để đọc những cuốn truyện tranh với nhiều ngôn từ
đại đa số cộc lốc, thậm chí có tiêu cực, bạo lực,…Việc các học sinh áp dụng
những ngôn từ như thế vào viết văn chắc chắn không tránh khỏi.
Như chúng ta đã biết từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn
văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng
đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình.
Vậy mà vốn từ của các em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những
kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi
cách phải bổ sung vào vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của tiếng Việt.
Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập đọc.
Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ ngữ mà các em chưa hiểu,
sau đó tôi chốt lại một từ yêu cầu các em ghi vào “ sổ từ”, tập đặt câu để hiểu
chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở phân môn Tập đọc, bài Đường đi Sa Pa. ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2
trang 102), tôi yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các
từ ngữ và hình ảnh.
- Trắng xóa tựa mây trời,
- Lướt thướt liễu rủ.
- Bồng bềnh huyền ảo.
Bài Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127).
- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
Vậy qua phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu hay Kể chuyện học sinh tích
lũy được “vốn liếng” từ không hề nhỏ.Chính vì thế cung cấp vốn từ, làm giàu
vốn từ cho học sinh chính là giúp cho học sinh hiểu thêm một từ mới nghĩa là
hiểu thêm một khái niệm mới. Mà ngôn ngữ gắn chặt với tư duy, ngôn ngữ phát
triển thì tư duy cũng phát triển theo. Chính vì vậy, giáo viên cần hướng cho các
em cách dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh, nhân
16
hóa, những từ tượng hình, tượng thanh, từ gợi tả màu sắc, ( Ở đây cần phân biệt
vốn từ miêu tả có sức gợi tả với vốn từ chỉ thuần mang tính chất miêu tả thông
báo: ví dụ khi tả hoa "nở", bản thân từ nở chỉ mang tính thông báo, nhưng từ
"bung nở, hé nở, xòe nở, bung cánh, hé cánh, xòe cánh" lại là từ miêu tả gợi tả.
Bản thân từ "xanh" chỉ miêu tả nhưng không gợi tả, nhưng "xanh biếc, xanh
lam, xanh ngọc, xanh mướt" là đã gợi tả sinh động hơn hẳn "xanh" rồi). Khi viết
văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý tứ hơn
và thu hút người đọc, người nghe hơn để giúp các em viết tốt thể loại văn miêu
tả. Khi dạy bài Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật ( bài tập 3/128 – SGK
Tiếng Việt lớp 4, tập hai ) tôi cung cấp một số từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân
hóa như sau :
Ví dụ: Tả con mèo
- Về màu sắc của mèo: Đen thì đen như than, mắt vàng như lửa đèn. Trắng
thì trắng như tuyết, mắt xanh như da trời. Đỏ hì đỏ như ngọn lửa, đỏ với những
đốm trắng.Xám như khói, xám với những lông vằn như hổ.Màu vàng cam, màu
vàng đào. Màu xanh nhạt như sương mù buổi sớm,…
- Về lông mèo: Sao lại có những con nhiều lông đến thế; tưởng như đây
không phải là con mèo mà là những quả cầu bằng lông với những con mắt màu
vàng. Lông ở một số con mèo giống như lông cáo, ở những con khác lại dài và
mỏng, loại thứ ba lại như lưỡi mác.
Như vậy, việc giúp các em biết tìm từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù
hợp để miêu tả sự vật cụ thể là vừa giúp phát huy tốt năng lực của mỗi học sinh,
vừa góp phần cung cấp ý văn, từ ngữ phù hợp cho những học sinh khác.
Cùng với việc giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan sát,
giáo viên có thể gợi ý cho mỗi học sinh tự chọn chi tiết cụ thể của đối tượng cần
miêu tả, rồi tìm những từ ngữ, ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà
mình cảm thấy phù hợp, hay có thể sử dụng để miêu tả chi tiết đó của đối tượng.
Sau đó cả lớp nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp,
phù hợp. Vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao
theo ý thích của riêng mình đưa vào bài của mình, tạo ra nét riêng trong chính
bài làm của mình.
Xin được tiếp theo ví dụ ở trên, (với bài tập 3 của bài Luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả con vật) : Trước tiên, tôi giới thiệu cho các em hình ảnh hoặc
video, clip về một số con mèo cho các em chọn lựa và quan sát một con mà em
thích. Tiếp đó là cùng với việc sử dụng dàn bài chung của bài văn miêu tả con
vật đã xây dựng (nội dung Tả hình dáng ở phần thân bài), tôi sẽ lần lượt hướng
17
cho các em nêu các bộ phận tiêu biểu của con mèo và những ý văn, câu văn,
hình ảnh so sánh, nhân hóa mà mình cảm thấy hay, phù hợp, có thể sử dụng để
miêu tả các bộ phận đó. Lúc này các em có thể kết hợp vừa quan sát trực tiếp
hình ảnh giáo viên cung cấp, vừa dựa vào những điều mình đã ghi chép khi
chuẩn bị ở nhà để thực hiện yêu cầu của thầy cô. Với những từ ngữ, ý văn các
em nêu được, tôi gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn
hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em chọn lựa,
vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích
của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
c. Rèn kĩ năng nói, viết cho học sinh trong giờ học văn miêu tả:
c.1. Rèn kĩ năng nói:
Cùng với kĩ năng đọc, nghe, viết phân môn Tập làm văn ở lớp 4 còn dạy
cho học sinh kĩ năng nói trong các giờ học văn miêu tả và một số loại văn khác.
Thông qua các bài tập thực hành luyện nói theo đề tài hoặc tình huống cho
trước, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Xác định rõ nội dung cần nói ( nói về nội dung gì, gồm những ý nào, sắp
xếp các ý đó ra sao,…).
- Chọn từ, tạo câu để triển khai các ý cần nói thành từng đoạn văn cụ thể
và liên kết các đoạn thành bài văn theo yêu cầu của đề bài.
- Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn
đề nêu ra trong đề bài, học sinh có thể chọn từ, tạo câu để triển khai các ý cần
nói thành một đoạn văn và liên kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn.
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, cô giáo, thầy giáo để tự kiểm tra,
đối chiếu văn bản nói của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt;
biết sửa lỗi về nội dung, hình thức diễn đạt.
Quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh theo những yêu cầu trên,
giáo viên vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển
tư duy, vừa tạo điều kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt.
c.2. Rèn kĩ năng viết :
Học sinh muốn viết được bài văn hay thì trước hết các em phải viết được
câu văn hoàn chỉnh. Chính vì vậy trong những tiết học “Luyện từ và câu”, bao
giờ tôi cũng dạy chắc kiến thức và lồng ghép việc viết đoạn văn nhỏ để chuẩn bị
tâm thế cho học sinh viết những bài văn với bố cục chặt chẽ. Hoặc cho các em
học các câu văn hay ở các bài Tập đọc, ví dụ khi dạy bài “Con chuồn chuồn
nước” (Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127), tôi cung cấp một số từ ngữ hay và yêu
cầu các em đặt câu.
18
+ Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
+ Đặt câu:
- Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
- Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.
Ngoài ra cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn
hay trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào văn
bản của mình.
Ví dụ: “Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
( Đoàn thuyền đánh cá)
“Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi
cong lướt thướt liễu rủ”.
“Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái,
trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió
xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý”.
(Đường đi SaPa)
Khi viết văn miêu tả, học sinh phải dựa vào yêu cầu bài tập ( hay đề bài) để
viết một đoạn văn( hay bài văn), học sinh có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt
(dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá,…) thuận lợi hơn làm
văn nói. Tuy nhiên, học sinh cũng cần đạt được những yêu cầu rèn luyện về kĩ
năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần sinh
động, bộc lộ được cảm xúc; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và
cả bài. Các bài học về phân môn Tập làm văn trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4
được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chú trọng các kĩ năng
bộ phận. Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết
đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn
luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn
bị thực hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học.
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần
thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng,
không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong bài được diễn tả theo
một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính.
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung
và thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một
19
văn bản hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (mở bài, thân bài, kết
bài). Lời văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
+ Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so
sánh, nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động.
+ Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương
thơm, mùi vị; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh
cây cối ở thời kì phát triển hay mùa khác nhau.
+ Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc,âm
thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật; có thể sử dụng biện pháp
liên tưởng, so sánh, nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi
với con người.
+ Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có thể
so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ
cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm
thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện
pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình
cảm với người được tả.
Để dạy tốt thể loại văn miêu tả, giáo viên cần nắm chắc các bước làm bài
Tập làm văn.
Các bước làm bài Tập làm văn:
1. Tìm hiểu đề (để tránh lạc đề):
- Đọc kỹ đề, gạch chân từ ngữ quan trọng.
- Xác định thể loại (Ví dụ: Kể chuyện, Miêu tả,…)
- Xác định nội dung
2. Tìm ý (đặt câu hỏi và trả lời):
- Tìm ý chính, ý phụ, ý lớn, ý nhỏ.
- Ý nào đứng trước, ý nào đứng sau.
3. Lập dàn bài:
Tác dụng:
- Sắp xếp các ý theo trình tự trước sau hợp lý.
- Không thừa, thiếu ý.
- Xác định được phần trọng tâm (viết dài), phần không trọng tâm (viết ngắn).
Các loại dàn bài:
- Dàn ý chung (chỉ có các ý chính)
- Dàn ý chi tiết (có cả ý lớn và ý nhỏ)
20
* Lưu ý: bài tập làm văn gồm nhiều đoạn.
- Mở bài ngắn gọn.
- Thân bài gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn triển khai một ý chính.
- Kết bài rút ra bài học, phát biểu cảm nghĩ cần tự nhiên chân thành, tránh
hô khẩu hiệu, liên hệ gượng ép, miễn cưỡng.
4.Viết bài:
- Dùng từ ngữ khai triển các ý trong bài.
- Dùng từ chính xác, viết câu đúng ngữ pháp.
- Tách đoạn hợp lý, có liên kết câu và liên kết đoạn văn để bài văn rõ ràng
chặt chẽ.
5.Sau khi làm bài:
- Đọc lại bài văn.
- Sửa lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu.
- Nếu thiếu sót thì bổ sung ở lề trái.
Muốn viết văn hay cần rèn luyện thêm:
- Tìm đọc những bài văn hay cùng chủ đề, để học cách viết. Tuy vậy
không nên sao chép, đạo văn.
- Phải chú ý quan sát con người, sự vật, cảnh quan xung quanh mình. Cần viết
nhiều, nhờ thầy cô sửa rồi viết lại. Cũng cần đọc nhiều, đi nhiều để có vốn từ,
vốn sống.
Với cách mà tôi đang áp dụng thì thực sự những giờ học văn của các em
học sinh do tôi chủ nhiệm đã trở nên thú vị, mang lại nhiều hứng thú với học
sinh. Các giờ học trở nên nhẹ nhàng hơn với cả học sinh và giáo viên. Vậy là
những khó khăn của việc dạy – học văn đã được tháo gỡ với phần thưởng là
những bài văn đầy thú vị của học sinh.
d. Tậpdiễn đạt câu văn trọn ý, sắp xếp các ý, các câu văn logic :
Các em sẽ biết tự diễn đạt câu văn trọn ý khi các em biết sắp xếp các từ
ngữ thành câu văn đúng ngữ nghĩa, biết sắp xếp các câu văn thành đoạn văn
lôgic, đúng chủ đề. Tuy nhiên, đây là việc làm rất khó, cần được tập luyện
thường xuyên và khá mất thời gian, mà thời gian ở các tiết học Tập làm văn lại
có hạn, vì vậy, bản thân tôi thường thực hiện không chỉ ở các tiết Tập làm văn
mà ở cả các tiết học khác như tiết Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện hay Tập
đọc,... Với những bài tập có yêu cầu liên quan đến việc phải trình bày, sắp xếp
các ý, câu văn lôgic, hoặc ở một số tiết Tập làm văn, tôi thường chủ động chuẩn
bị các từ ngữ, câu văn theo chủ đề nhất định đủ dùng cho học sinh hoạt động
theo dự kiến. Cho các từ ngữ, yêu cầu học sinh dùng những từ ngữ đó sắp xếp
21
lại thành những câu văn hoàn chỉnh (hoặc dùng những câu văn sắp xếp thành
đoạn văn) theo chủ đề mà giáo viên yêu cầu. Tiếp đó có thể tổ chức nhận xét,
đánh giá, sửa chữa. Cần đánh giá, nhận xét trên sự sáng tạo của học sinh, tôn
trọng ý tưởng của học sinh, không nhất thiết phải đúng theo mẫu ấn định sẵn.
Tuy nhiên cũng cần phải điều chỉnh, sửa chữa nếu chưa phù hợp. Ngoài ra, ngay
cả khi các em trả lời câu hỏi của thầy cô, của bạn bè hoặc khi yêu cầu các em
trình bày một vấn đề nào đó, tôi đặc biệt chú trọng đến cách trình bày, diễn đạt
của các em (nhất là với những học sinh yếu). Khi thấy học trò trình bày vấn đề
lủng củng, không rõ ràng hoặc sử dụng từ ngữ không phù hợp, tôi sẽ nhận xét
khéo và gợi ý, tập cho các em và cả các bạn khác cùng cân nhắc, diễn đạt lại vấn
đề sao cho trôi chảy, rõ ràng, đủ ý, và dễ hiểu.
đ. Sửa lỗi, tập kiểm tra, rà soát lại bài viết :
Đối với học sinh lớp 4 thì đây là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện
được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và
cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao
khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em
mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề.
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập
cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các
em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với
yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa ? Câu
văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa ?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó
thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là
cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên
bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp
các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù
hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.
Việc sửa lỗi cho học sinh là rất cần thiết. Lúc này, các em được hoạt động
nhóm, cá nhân, được trình bày kết quả thảo luận của mình trước lớp, được chính
bạn bè sửa cho mình những lỗi còn mắc phải. Cô giáo sẽ là người cuối cùng chốt
lại những câu văn như thế nào là hay, là đúng. Và đọc một vài câu văn hay của
các bạn trong lớp cũng là một hình thức khuyến khích, động viên giúp các con
tự tin hơn vào khả năng của mình, từ đó các con có thể có những bài viết hoàn
chỉnh hơn.
Và cuối cùng, học sinh được thực hành viết bài hoàn chỉnh vào vở bằng
cách lựa chọn những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc kết hợp với tình cảm, cảm xúc
22
của mình để lồng vào bài viết. Sau mỗi bài viết của mình, học sinh luôn nhận
được những ý kiến đóng góp của các cô giáo để rút kinh nghiệm cho những bài
viết sau. Những góp ý nhẹ nhàng, chi tiết hay những lời khen của giáo viên như
một định hướng giúp học sinh hoàn thiện bài viết hơn.
Ngoài những hình thức viết văn vào vở, tôi cũng mở hơn trong việc cho
học sinh lựa chọn cách trình bày như trình bày vào những cuốn tập san, mini
book hay những bích báo, … Lúc này, các em được cơ hội trang trí bài viết bằng
các màu vẽ, những hình cắt dán ngộ nghĩnh hay những bức ảnh chụp,... Niềm
yêu thích viết văn lúc này như được tăng thêm.
e. Học tập những bài văn hay
Nói cách khác là biết học tập, “trộm” những câu văn, ý văn mà mình đọc
được của bạn bè, thầy cô hay ở đâu đó rồi biến nó thành ý riêng trong câu văn,
bài văn của mình. Tôi khuyến khích các em tích cực đọc sách, báo hoặc những
bài văn hay (văn mẫu) và ghi chép lại những chi tiết, hình ảnh mình thích vào
một cuốn sổ tay. Sau đó sẽ chọn lựa một số câu và ghi ra giấy dán vào mục “Lời
hay ý đẹp” ở lớp để giới thiệu cho các bạn khác cùng tham khảo. Chính bản thân
tôi là người thường xuyên đọc những “lời hay ý đẹp” mà các em sưu tầm được
để khi gặp trường hợp có thể vận dụng, “trộm” những từ ngữ, ý văn đó mà các
em không nhớ, không biết vận dụng tôi sẽ chủ động gợi ý giúp các em nhớ lại,
tập vận dụng vào bài của mình. Hoặc khi phát hiện các em biết học tập, bắt
chước cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ, ý văn của người khác (không sao chép),
tôi sẽ động viên, khích lệ các em tiếp tục phát huy. Ngoài ra, tôi còn thường
xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt
câu,...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý hay,
cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài
làm của mình.
Khi chọn những bài văn mẫu tôi thường chọn những bài văn không hề hoa
mĩ, cầu kì đâu xa mà chính là văn bản với ngôn từ trong sáng, giản dị, dễ hiểu
theo cách viết của học sinh, hơn nữa đồ vật hoặc con vật,… miêu tả cũng là
những thứ rất gần gũi với các em, hằng ngày các em đều sử dụng và tiếp xúc với
nó. Từ đó giúp các em tự nhận ra được cấu trúc của bài miêu tả, ghi nhớ được
lâu hơn.
4.5 Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
23
Qua thời gian áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng học văn miêu tả
cho học sinh lớp 4 qua phân môn Tập làm văn, tôi thấy kết quả học tập của học
sinh và giờ dạy của giáo viên đã có sự chuyển biến và đạt được kết quả đáng kể
như sau :
a. Giáo viên:
- Giáo viên đã biết sáng tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa,
người giáo viên cần tận tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi
tiết học. Giáo viên thường tìm hiểu để dạy văn được tốt suy nghĩ thật kĩ, cố gắng
dạy thật tốt các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi giáo viên
đã biết chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm văn. Nó giúp học sinh tích luỹ
vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn, đoạn văn hay của bài Tập
đọc vào bài văn của các em. Mặt khác thông qua những bài văn hay cần cho học
sinh nhận xét việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật, từ đó giúp các em
tích luỹ được vốn kiến thức văn học.
- Giáo viên cũng đã tìm hiểu kĩ, xác định, phân loại từng đối tượng học
sinh, xếp chỗ ngồi xen kẽ, trong mỗi nhóm có đủ các dạng học sinh để tiện cho
việc tổ chức các hoạt động học tập. Đồng thời, bản thân thầy cô giáo cũng đã
tích cực tham khảo thêm nhiều tài liệu, chịu khó đọc sách báo để tự làm giàu
thêm vốn từ, chất văn, áp dụng phù hợp vào từng ngữ cảnh cụ thể.
- Giáo viên có sự đầu tư suy nghĩ hơn trong từng kiểu bài Tập làm văn cụ
thể, điều chỉnh, bổ sung hệ thống câu hỏi gợi mở, tranh ảnh, video, clip phong
phú nhưng gần gũi, phù hợp với học sinh. Để dẫn dắt và giúp học sinh đều có
thể làm bài được và làm bài tốt.
- Thầy, cô giáo cũng đã hết sức tinh tế, nhạy bén, biết lắng nghe, kịp thời
đưa ra hướng để giúp học sinh sửa chữa, trau chuốt câu, lời, ý văn.
- Quá trình thực hiện mất nhiều thời gian, giúp giáo viên có thêm sự kiên
nhẫn, bền bỉ và thường xuyên lâu dài, kết hợp lồng ghép trong cả các phân môn,
môn học khác.
- Giáo viên đã giúp cho học sinh biết tự giác, chịu khó học hỏi, cũng như
sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ nên từ đó đòi hỏi thầy cô giáo phải
thường xuyên động viên, khích lệ và tổ chức nhiều phương pháp, hình thức dạy
học, phát huy tối đa năng lực của học sinh, nhất là học sinh khá, giỏi.
- Vận dụng linh hoạt các phương hướng dạy học giúp học sinh hứng thú,
tranh luận sôi nổi trong giờ học. Tạo điều kiện cho học sinh trao đổi, học hỏi
nhau qua các bài học.
24
- Hoạt động tổ chuyên môn đều đặn, đi sâu vào các vấn đề khó, bàn bạc
thảo luận nội dung dạy học từng kiểu bài, nhất là đối với các em yếu
- Phong cách của giáo viên cũng đã nhẹ nhàng hơn , gần gũi học sinh và
làm sao cho đủ sức hấp dẫn đối với các em.
- Giáo viên thường kịp thời khuyến khích, động viên các em học sinh có
tiến bộ cho dù là tiến bộ nhỏ trong tất cả các giờ học.
- Giáo viên đã có ý thức hơn trong việc trau dồi nghệ thuật sư phạm, không
ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Đầu tư cho giáo án, trang thiết bị dạy học.
- Đưa công nghệ thông tin vào trong giảng dạy.
- Tổ chức học sinh ở cùng lớp, gần nhà để hợp nhóm học tập, phân công đôi
bạn học tập.
- Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh
học sinh nhằm trao đổi tình hình học tập của học sinh.
b. Học sinh :
- Các em đã biết chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
- Trong giờ học luôn chú ý nghe thầy cô giảng bài.
- Quan sát vật thật, sưu tầm tranh, ảnh,… để làm tư liệu cho bài học.
- Thường xuyên đọc sách báo, tài liệu tham khảo để nâng cao kiến thức
văn học.
Qua thực tế áp dụng các biện pháp trên, tôi có thể khẳng định: Nếu áp
dụng đầy đủ các biện pháp đã nêu, chắc chắn rằng chất lượng phân môn Tập làm
văn (nhất là thể loại văn miêu tả ) sẽ từng bước được nâng cao và không còn là
môn học khó đối với học sinh Tiểu học. Đồng thời qua đó cũng góp phần nâng
cao chất lượng học tập của học sinh trong các phân môn học khác
- Sáng kiến này có thể áp dụng vào dạy phân môn Tập làm văn (văn miêu
tả) ở các khối lớp 4 và 5.
5. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có) :
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và
học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học Tập làm văn ( nhất là văn miêu
tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn.
Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc
viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết
miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn
25
đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả,
gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý
văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa.
Các em say mê, ham thích đọc và nghe các tác phẩm văn học, mong muốn
học cách diễn đạt chuẩn mực, tinh tế các tác phẩm văn học vận dụng vào việc
bày tỏ ý nghĩ và tình cảm của mình trong bài văn thật tự nhiên và sâu sắc.
Qua các bài làm văn, các em đã bộc lộ được vốn sống thực tế của mình để
viết được bài văn hay, từ đó tạo điều kiện cho các em cảm nhận được vể đẹp của
thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc.
Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn (đặc biệt là thể loại văn
miêu tả) cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. Xin trích dẫn số liệu
thống kê kết quả khảo sát khả năng làm văn và kết quả kiểm tra định kì cuối kì
II phân môn Tập làm văn của 28 học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm năm học 20182019 như sau:
Kết quả khảo sát về khả năng làm văn năm học: 2018 – 2019
Khả năng
- Biết lập dàn bài, viết bài văn đủ 3
phần.
- Biết viết câu văn rõ ý, đúng ngữ pháp,
dùng từ ngữ sát nghĩa.
- Biết dùng từ ngữ có tác dụng gợi tả,
gợi cảm, sử dụng biện pháp tu từ đơn
giản.
Thời điểm khảo sát/Số học sinh đạt
Đầu
Cuối học Cuối học
năm học
kì I
kì II
8
15
25
6
12
20
2
10
19
Kết quả kiểm tra phân môn Tập làm văn năm học: 2018 - 2019:
Điểm
(Thang điểm 8)
7,5-8
6,5-7
5,5-6
5
<5
Thời điểm kiểm tra/Số học sinh đạt
Khảo sát
Kiểm tra định kì Kiểm tra định kì
đầu năm học
cuối học kì I
cuối học kì II
4
7
12
3
5
11
8
11
4
10
3
1
3
2
0
Kết quả cuối năm học: 2018-2019