Biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long
và sự quan tâm của người dân
Lê Thanh Sang1
Tóm tắt:
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong số rất ít vùng trên thế giới chịu ảnh hưởng lớn
nhất của nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết và quan tâm
của người dân ở đây đối với vấn đề nghiêm trọng trên còn thấp. Kết quả khảo sát mẫu ở
Tây Nam Bộ năm 2008 cho thấy hơn 1/3 dân số đô thị và gần 1/2 dân số nông thôn chưa
từng nghe nói đến biến đổi khí hậu. Gần 1/4 số người đã từng nghe nói về biến đổi khí
hậu nhưng không quan tâm. Các yếu tố cá nhân như độ tuổi, học vấn có ảnh hưởng tích
cực đối với việc tiếp cận thông tin và sự quan tâm. Tivi, radio, và báo chí là những kênh
truyền thông chủ yếu đối với vấn đề biến đổi khí hậu.
1. Giới thiệu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong số ít các khu vực trên thế giới
chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH). Mặc
dù liên quan trực tiếp đến người dân, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu
mức độ hiểu biết, sự quan tâm của họ đối với BĐKH và các nhân tố ảnh hưởng.
Nâng cao nhận thức đối với mối hiểm họa này là tiền đề cho việc xây dựng các
giải pháp giảm nhẹ và thích ứng đối với BĐKH ở ĐBSCL hiện nay. Bài viết này
cung cấp một phân tích thực nghiệm bước đầu về vấn đề trên.
Nguồn số liệu chính của bài viết là kết quả khảo sát năm 2008 của Chương trình
cấp Bộ “Những vấn đề cơ bản trong sự phát triển của vùng Tây Nam Bộ” do Viện
Phát triển bền vững vùng Nam Bộ tiến hành. Mẫu khảo sát được thực hiện theo
phương pháp chọn mẫu khu vực, nhiều giai đoạn, đại diện cho toàn vùng ĐBSCL.
Có 30 phường, xã, thị trấn được chọn ngẫu nhiên hệ thống để khảo sát. Tại mỗi
phường, xã, thị trấn trên, có 30 hộ được chọn ngẫu nhiên để khảo sát. Qui mô mẫu
khảo sát là 900 hộ. Phương pháp phân tích chủ yếu được áp dụng là mô hình
multinomial logistic nhằm chỉ ra các nhân tố chính của sự khác nhau về tỷ suất
giữa ba phân nhóm của biến phụ thuộc: (1) Nhóm chưa từng nghe nói về BĐKH,
(2) Nhóm đã từng nghe nói nhưng không quan tâm, và (3) Nhóm đã từng nghe nói
và rất quan tâm. Các biến độc lập bao gồm: Tuổi, Giới tính, Dân tộc, Học vấn, và
Nơi cư trú.
Bài viết bao gồm một số nội dung chính sau đây: Trước hết, chúng tôi trình bày
mức độ nghiêm trọng mà ĐBSCL phải đối mặt do BĐKH gây ra. Tiếp đến, chúng
tôi mô tả các đặc điểm chính của mẫu khảo sát. Phần chủ yếu của bài viết sẽ phân
tích mối tương quan giữa một số đặc điểm của người trả lời với sự hiểu biết và
mối quan tâm của họ về BĐKH. Cuối cùng là một số nhận xét kết luận.
1
TS, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ
1
2. Đồng bằng sông Cửu Long trước thách thức của biến đổi khí hậu
Dựa trên các kịch bản về BĐKH toàn cầu, báo cáo của Ban Liên Chính phủ về
BĐKH (Inter-Government on Climate Change – IPCC) đánh giá ĐBSCL là một
trong ba khu vực trên thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của BĐKH.
Hình 1 cho thấy, cùng với đồng bằng sông Nile, đồng bằng Ganges Brahmaputra,
số người có khả năng phải di dời cho đến trước năm 2050 ở ĐBSCL lên đến hơn 1
triệu người do nước biển dâng nếu không có những hoạt động tích cực nhằm giảm
tốc độ BĐKH như hiện nay.
Hình 1: Mức độ tổn thương của các vùng đồng bằng ven biển được thể hiện
bởi các ước lượng về số người có khả năng bị di dời do nước biển dâng từ nay
đến năm 2050
Chú thích:
Extreme: Tổn thương nghiêm trọng, trên 1 triệu người
High: Tổn thương cao, từ 50 ngàn đến 1 triệu người
Medium: Tổn thương trung bình, từ 5 ngàn đến 50 ngàn người
Nguồn: IPCC, 2007, [B6.3]
Với mật độ dân số cao và hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông ngư nghiêp,
các tác động của BĐKH đối với sự đa dạng sinh học, điều kiện cư trú, sức khỏe,
tài sản và sinh kế của người dân, các ngành kinh tế và cơ sở hạ tầng kỹ thuật… ở
ĐBSCL là hết sức nghiêm trọng. Phù hợp với nhận định của IPCC, nghiên cứu của
Trung tâm Quốc tế về Quản lý Môi trường (International Centre for
Environmental Management - ICEM) năm 2008 đã đưa ra các đánh giá về tác
động cụ thể của nước biển dâng đối với các khía cạnh đất đai, dân số, sự đa dạng
sinh học ở ĐBSCL.
2
Hình 2 cho thấy nhiều vùng rộng lớn ở ĐBSCL bị ngập khi nước biển dâng lên 1
m, bao gồm phần lớn Long An, các tỉnh ven biển và tứ giác Long Xuyên. Một
cách cụ thể, Bảng 1 trình bày qui mô và tỷ lệ diện tích của các tỉnh ĐBSCL bị
ngập theo kịch bản này. Có đến 31% tổng diện tích của ĐBSCL bị ngập, trong đó
các tỉnh bị ngập nhiều nhất là Bến tre (50,14%), Long An (49,42%), Trà Vinh
(45,72%), và Sóc Trăng (43,71%)… Một cách tương ứng, Bảng 2 cho thấy có đến
khoảng 4,8 triệu người, chiếm 26,7% tổng dân số của ĐBSCL bị ảnh hưởng bởi
nước biển dâng. Đặc biệt, có tới 89,7% số người nghèo bị ảnh hưởng. Sự tổn
thương đối với nhóm người này là rất lớn vì họ ít có khả năng ứng phó và phục hồi
trước các tác động của BĐKH.
Hình 2: Những vùng của Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập khi nước biển
dâng lên 1 m
Nguồn: ICEM. Rapid Assessment of the Extent and Impact of SLR in Vietnam. 2008
Bảng 1: Diện tích ở ĐBSCL bị ngập theo kịch bản nước biển dâng 1 m
Địa bàn
Long An
Kiên Giang
Diện tích
bị ngập
(km2)
2168,9
1756,8
% trong
tổng diện tích bị
ngập
14,93
12,09
% trong
tổng diện tích
của tỉnh
49,42
28,22
% trong
tổng diện tích
của Việt Nam*
0,66
0,53
3
Sóc Trăng
Cà Mau
Bến Tre
Trà Vinh
Bạc Liêu
Tiền Giang
Cần Thơ
Vĩnh Long
Đồng Tháp
An Giang
ĐBSCL
Việt nam
1424,6
1182,8
1131,4
1021,3
961,9
783,2
757,7
606,4
389,4
192,3
12376,7
14528,2
9,81
8,14
7,79
7,03
6,62
5,39
5,22
4,17
2,68
1,32
85,19
100,00
43,71
22,75
50,14
45,72
38,87
32,68
24,75
39,69
11,53
5,45
31,00
8,76
0,43
0,36
0,34
0,31
0,29
0,24
0,23
0,18
0,12
0,06
3,76
4,42
* 328,743 km2, dựa trên GIS theo biên giới của các tỉnh
Nguồn: ICEM. Rapid Assessment of the Extent and Impact of SLR in Vietnam. 2008
Bảng 2: Dân số ĐBSCL bị ảnh hưởng theo kịch bản nước biển dâng 1m
Địa bàn
Long An
Kiên Giang
Sóc Trăng
Cà Mau
Bến Tre
Trà Vinh
Bạc Liêu
Tiền Giang
Cần Thơ
Vĩnh Long
Đồng Tháp
An Giang
Số người
bị ảnh Tổng dân
hưởng số của tỉnh
(000)
(000)
197
2373
384
858
759
1390
183
1206
427
2046
222
1663
296
1591
581
1488
458
1307
497
1728
418
1102
364
1152
% trong
dân số
của tỉnh
bị ảnh
hưởng
8,3
44,8
54,6
15,2
20,8
13,4
18,6
39,1
35.0
28,8
37,9
31,6
% trong
tổng dân
số bị ảnh
hưởng
3,4
6,5
12,9
3,1
7,3
3,8
5,0
9,9
7,8
8,5
7,1
6,2
Số
người
nghèo
(000)
51
111
245
70
119
71
102
199
134
122
140
124
ĐBSCL
4787
17904
26,7
81,6
1486
Việt nam
5869
58401
10,0
100,0
1657
Nguồn: ICEM. Rapid Assessment of the Extent and Impact of SLR in Vietnam. 2008
% trong
tổng số
người
nghèo bị
ảnh
hưởng
3,1
6,7
14,8
4,2
7,2
4,3
6,2
12.0
8,1
7,3
8,4
7,5
89,7
100,0
3. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 3 trình bày các thống kê mô tả đặc điểm chính của mẫu khảo sát. Trong tổng
số 898 người trả lời được đưa vào phân tích, có đến 62,1% là chủ hộ và 24,9% là
4
vợ hoặc chồng chủ hộ. Nam giới chiếm 73,2%, cao hơn nhiều so với nữ giới. Điều
này có thể được giải thích là do nam giới thường làm chủ hộ và thường đóng vai
trò đại diện cho hộ khi tiếp xúc với các cán bộ nghiên cứu. Phù hợp với giải thích
trên, nhóm tuổi có tỷ lệ cao nhất trong mẫu khảo sát là 45-59 tuổi, chiếm 43,2%.
Nhóm tuổi từ 60 trở lên chiếm khoảng 1/4 trong tổng số. Nhóm tuổi từ 35-44
chiếm tỷ lệ ít hơn một chút (22,9%). Nhóm tuổi từ 34 trở xuống chỉ chiếm 7,3%.
Cơ cấu tuổi này cho thấy đây là những người đã trưởng thành và thích hợp để
nhận thức những vấn đề liên quan đến bản thân và gia đình họ.
Do mẫu mang tính đại diện nên người Việt chiếm tỷ lệ đến 93,2%, trong khi nhóm
còn lại bao gồm người Hoa, Khmer, Chăm… chỉ chiếm 6,8%. Về học vấn, những
người có trình độ từ cấp 1 trở xuống chiếm đến 54%, tiếp đến là cấp 2 với 28,7%.
Số người có trình độ cấp 3 chỉ chiếm 15, 6% và đại học cao đẳng trở lên chiếm
chưa tới 2%. Phù hợp với mức độ đô thị hóa thấp ở ĐBSCL, 80% số người được
khảo sát cư trú ở các vùng nông thôn.
Tóm lại, các đặc điểm trên của mẫu nghiên cứu phản ảnh khá rõ nét những đặc
điểm chung của chủ hộ hoặc người đại diện chủ hộ của các hộ gia đình ở ĐBSCL
để trả lời những vấn đề mà cuộc nghiên cứu quan tâm.
Bảng 3: Thống kê mô tả đặc điểm chính của người trả lời
Người trả lời
Giới tính
Nam
Nữ
Nhóm tuổi
34 tuổi trở xuống
35 – 44 tuổi
45 – 59 tuổi
60 tuổi trở lên
Dân tộc
Người Việt
Dân tộc khác
Học vấn
Cấp 1 trở xuống
Cấp 2
Cấp 3
Đại học cao đẳng trở lên
Nơi cư trú
Đô thị
Nông thôn
Số người
Phần trăm
657
241
73,2%
26,8%
66
206
388
238
7,3%
22,9%
43,2%
26,5%
837
61
93,2%
6,8%
471
250
134
17
54,0%
28,7%
15,4%
1,9%
180
718
20,0%
80,0%
5
898
Tổng cộng
100,0%
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát
triển bền vững vùng Nam Bộ
4. Mối tương quan giữa nhận thức về BĐKH và một số đặc điểm của người
trả lời
BĐKH là một thực tế đã và đang diễn ra. Các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng với
BĐKH đòi hỏi phải dựa trên sự hiểu biết đầy đủ và một thái độ tích cực của toàn
xã hội. Điều này liên quan đến cả nguồn cung cấp thông tin và người tiếp nhận
thông tin.
Bảng 4 cho thấy trong số những người được hỏi có đến 46,4% chưa từng nghe nói
về BĐKH, 23,1% đã từng nghe nói nhưng không quan tâm, trong khi chỉ 30,5% đã
từng nghe nói và rất quan tâm. Điều này cho thấy vấn đề BĐKH chưa được thông
tin đến người dân một cách đầy đủ và chỉ một bộ phận có quan tâm đến vấn đề
quan trọng này. Nhóm tuổi từ 45 trở lên có được sự hiểu biết về BĐKH nhiều hơn
so với các nhóm tuổi nhỏ hơn. Đặc biệt, trong số những người có được nghe nói
về BĐKH, nhóm tuổi từ 35 trở đi tỏ ra có sự quan tâm nhiều hơn. Có thể kinh
nghiệm phải đối phó với những hiểm họa môi trường của những người đã đủ sự
trải nghiệm làm cho họ lo lắng hơn về các tác động của BĐKH.
Bảng 4: Sự tiếp nhận thông tin và mối quan tâm đến BĐKH của người
dân phân theo nhóm tuổi
Chưa từng nghe nói về biến đổi
khí hậu
Đã từng nghe nói nhưng không
quan tâm
Đã từng nghe nói và rất quan tâm
Tổng số
<=34
51,5%
34
27,3%
18
21,2%
14
100%
66
35-44
51,9%
107
18,0%
37
30,1%
62
100%
206
Nhóm tuổi
45-59
>=60
43,3% 45.4%
168
108
25,0% 23,1%
97
55
31,7% 31,5%
123
75
100% 100%
388
238
Tổng
46,4%
417
23,1%
207
30,5%
274
100%
898
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ
Số liệu ở Bảng 5 cũng cho thấy dù nữ giới ít được nghe nói về BĐKH hơn một
chút so với nam giới, mức độ quan tâm của họ đối với vấn đề này không hề thấp
hơn so với nam giới (khoảng trên 30% tổng số người được phỏng vấn). Đây là một
trong những chỉ báo thể hiện vai trò tích cực của phụ nữ trong các vấn đề xã hội.
6
Bảng 5: Sự tiếp nhận thông tin và mối quan tâm đến BĐKH của người
dân phân theo giới tính
Chưa từng nghe nói về biến đổi khí hậu
Đã từng nghe nói nhưng không quan tâm
Đã từng nghe nói và rất quan tâm
Tổng số
Nam
45,5%
299
24,0%
158
30,4%
200
100%
657
Giới tính
Nữ
49,0%
118
20,3%
49
30,7%
74
100%
241
Tổng số
46,4%
417
23,1%
207
30,5%
274
100%
898
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ
Một vấn đề đáng quan tâm là có sự khác biệt lớn về mức độ tiếp nhận thông tin và
sự quan tâm đến BĐKH giữa bà con người Việt với bà con các dân tộc khác (chủ
yếu là người Khmer). Trong khi 44,6% bà con người Việt chưa từng nghe nói đến
BĐKH thì tỷ lệ này đối với số bà con còn lại lên đến 72,1%. Đối với những người
tiếp nhận được thông tin về BĐKH thì mức độ quan tâm của bà con các dân tộc
khác là rất thấp. Sự khác biệt về ngôn ngữ, ít tiếp cận hơn với các phương tiện
truyền thông và các hoạt động văn hóa xã hội chung có thể là những rào cản chính
trong việc tiếp nhận thông tin cũng như mối quan tâm đến vấn đề này của nhóm
thiểu số. Điều này đưa ra các gợi ý tốt về chính sách truyền thông đối với những
nhóm dân số bất lợi, nhằm tạo điều kiện cho họ hội nhập đầy đủ hơn vào các dòng
chảy chung của xã hội.
Bảng 6: Sự tiếp nhận thông tin và mối quan tâm đến BĐKH của người
dân phân theo thành phần dân tộc
Chưa từng nghe nói về biến đổi khí hậu
Đã từng nghe nói nhưng không quan tâm
Đã từng nghe nói và rất quan tâm
Tổng số
Việt
44,6%
373
23,4%
196
32,0%
268
100%
837
Dân tộc
Khác
72,1%
44
18,0%
11
9,8%
6
100%
61
Tổng số
46,4%
417
23,1%
207
30,5%
274
100%
898
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ
7
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhận thức của người dân đối
với BĐKH là trình độ học vấn của họ. Bảng 7 cho thấy có sự tương quan chặt chẽ
giữa các cấp học vấn với mức độ tiếp nhận thông tin và mức độ quan tâm đến
BĐKH. Tỷ lệ chưa từng nghe nói đến BĐKH đã giảm một cách rõ rệt theo mức
tăng của trình độ học vấn, từ 56,1% ở nhóm cấp 1 trở xuống còn 11,8% ở nhóm
đại học, cao đẳng trở lên. Một cách tương ứng, số người đã từng nghe và quan tâm
đối với BĐKH đã tăng nhanh chóng từ 22,3% ở nhóm đầu lên đến 58,8% ở nhóm
cuối. Rõ ràng, học vấn là một nhân tố quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức
của người dân về mối hiểm họa này.
Bảng 7: Sự tiếp nhận thông tin và mối quan tâm đến BĐKH của người dân
phân theo nhóm học vấn
Nhóm học vấn
Cấp 1
trở xuống
Chưa từng nghe nói về biến đổi
khí hậu
Đã từng nghe nói nhưng không
quan tâm
Đã từng nghe nói và rất quan
tâm
Tổng số
56,1%
Cấp 2
40,4%
101
21,7%
24,8%
102
62
22,3%
34,8%
105
87
100%
100%
471
250
264
Cấp 3
31,3%
42
23,1%
31
45,5%
61
100%
134
ĐHCĐ Tổng số
11,8%
2
29,4%
5
58,8%
10
100%
17
46,9%
409
22,9%
200
30,2%
263
100%
872
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ
Một khía cạnh khác cũng cần được lưu ý là tính chất nơi cư trú. Người dân ở đô
thị thường có điều kiện tốt hơn so với nông thôn trong việc tiếp nhận các nguồn
thông tin và quan tâm hơn các vấn đề BĐKH. Bảng 8 phản ảnh rõ nét nhận định
này. Có đến gần 1/2 số người ở nông thôn chưa từng được nghe nói về BĐKH,
trong khi chỉ có hơn 1/3 số người ở đô thị không biết đến vấn đề này. Một cách
tương ứng, số người đã từng nghe nói và quan tâm đối với BĐKH ở nông thôn là
28,1% trong khi ở đô thị là 40%. Điều này cho thấy việc tăng cường công tác
truyền thông về BĐKH ở nông thôn là rất quan trọng vì có tới 80% người dân
ĐBSCL sống ở nông thôn.
Bảng 8: Sự tiếp nhận thông tin và mối quan tâm đến biến đổi khí hậu của
người dân phân theo nơi ở
Chưa từng nghe nói về biến đổi khí hậu
Nơi ở
Đô thị
Nông thôn
Tổng số
36,1%
49,0%
46,4%
65
352
417
8
Đã từng nghe nói nhưng không quan tâm
Đã từng nghe nói và rất quan tâm
Tổng số
23,9%
22,8%
43
40,0%
28,1%
72
100%
100%
180
23,1%
164
207
30,5%
202
274
100%
718
898
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ
Bằng cách thức nào các thông tin về BĐKH đến được với người dân là một câu
hỏi quan trọng cần phải được chỉ ra nhằm phục vụ cho công tác truyền thông.
Bảng 9 cho thấy tivi là kênh quan trọng nhất mà thông qua đó người dân biết được
thông tin về BĐKH (96,8% số người trả lời chọn kênh này). Radio và báo chí là
hai kênh tương đối quan trọng trong việc cung cấp thông tin về BĐKH (xấp xỉ
14%). Các kênh khác chỉ đóng vai trò thứ yếu. Các kết quả trên cho thấy rằng các
phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là tivi, đã thâm nhập sâu rộng vào
trong đời sống của người dân và là những kênh quan trọng nhất chuyển tải các
thông tin cần thiết đến người dân. Do vậy, việc tăng cường số lượng, chất lượng,
và phương thức chuyển tải của các chương trình về BĐKH trên tivi, đài, báo là
những cách thức hữu hiệu nhất để cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức của
người dân về vấn đề BĐKH.
Bảng 9: Cách thức chủ yếu mà qua đó người dân biết được
thông tin về biến đổi khí hậu
Cách tiếp nhận thông tin
Xem tivi
Nghe radio
Đọc báo
Được địa phương phổ biến
Nghe người trong gia đình nói lại
Nghe người trong xóm nói lại
Cách khác
Tổng số ý kiến trả lời
Số ý kiến
461
67
66
19
9
14
4
640
Phần trăm (*)
96,8%
14,1%
13,9%
4,0%
1,9%
2,9%
0,8%
134,5%
(*) Phần trăm ý kiến trên tổng số 476 người trả lời
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện
Phát triển bền vững vùng Nam Bộ
Một phần quan trọng của bài viết là phân tích ảnh hưởng của một số đặc điểm cá
nhân đối với khả năng tiếp nhận thông tin về BĐKH và sự quan tâm của họ. Bảng
10 trình bày kết quả của mô hình multinomial logistic nhằm đánh giá ảnh hưởng
của 5 biến độc lập (Tuổi, Giới tính, Dân tộc, Học vấn, và Nơi cư trú) đối với 3
phân nhóm của biến phụ thuộc (Chưa từng nghe nói về BĐKH, Đã từng nghe nói
9
nhưng không quan tâm, và Đã nghe về BĐKH và rất quan tâm). Nhóm “Đã nghe
nói và rất quan tâm” là nhóm tham chiếu. Các giá trị của hàm mũ của hệ số hồi qui
(EXP(B) với B là cofficient) được trình bày trong Bảng 10 thể hiện số lần khác
nhau (ratios) đối với các tỷ số lựa chọn (odds) giữa nhóm tham chiếu và các nhóm
còn lại do ảnh hưởng của mỗi biến độc lập sau khi kiểm soát ảnh hưởng của các
biến độc lập khác.
Kết quả cho thấy, đối với nhóm chưa từng nghe về BĐKH, tuổi có ảnh hưởng
quan trọng. So với nhóm 60 tuổi trở lên, sự khác biệt của nhóm tuổi 45-59 là
không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê, nhưng ở các nhóm tuổi nhỏ hơn thì
sự khác biệt này là rất đáng kể. Hai nhóm tuổi đầu có tỷ lệ chưa từng nghe về
BĐKH cao gấp hơn 2 lần (2,57 và 2,04 lần) so với nhóm tuổi tham chiếu. Không
có sự khác nhau đáng kể nào giữa nam và nữ trong việc tiếp nhận thông tin. So với
nhóm đối chiếu, bà con người Việt có tỷ lệ chưa từng nghe nói về BĐKH thấp hơn
nhiều (0,18 lần). Học vấn là một nhân tố quan trọng của sự khác nhau. Những
người có học vấn cấp 2 có tỷ lệ chưa từng nghe nói về BĐKH cao gấp 4 lần so với
nhóm đại học, cao đẳng. Đặc biệt, tỷ lệ này tăng lên đến 12 lần ở những người có
học vấn cấp 1 trở xuống. Sau khi kiểm soát ảnh hưởng của các yếu tố khác, sự
khác nhau giữa nông thôn và đô thị là không có ý nghĩa về mặt thống kê. Có thể
nói, các yếu tố học vấn, tuổi tác, và thành phần dân tộc đã giải thích cho sự khác
nhau về nơi cư trú của người trả lời.
Bảng 10: Mô hình hồi qui multinomial logistic của sự tiếp nhận thông
tin và sự quan tâm đến BĐKH của người dân dựa trên các đặc điểm
giới tính, tuổi, dân tộc, học vấn và nơi cư trú: ĐBSCL, 2008
EXP(B): Tỷ suất của nhóm "Chưa từng nghe về biến đổi khí hậu" hoặc
"Đã từng nghe nói nhưng không quan tâm" so với nhóm "Đã từng nghe nói
và rất quan tâm" (*)
Biến độc lập
Chưa từng nghe về
BĐKH
EXP(B)
Tuổi
<=34
35-44
45-59
>=60
Giới tính
Nam
Nữ
Dân tộc
Việt
Khác
Đã từng nghe nói nhưng
không quan tâm
EXP(B)
2,57 **
2,04 ***
1,17
(nhóm tham chiếu)
2,08
1,01
1,15
(nhóm tham chiếu)
0,99
(nhóm tham chiếu)
1,38
(nhóm tham chiếu)
0,18 ***
(nhóm tham chiếu)
0,35 *
(nhóm tham chiếu)
10
Học vấn
Cấp 1 trở xuống
Cấp 2
Cấp 3
ĐHCĐ
Nơi cư trú
Đô thị
Nông thôn
12,13 ***
4,89 *
3,12
(nhóm tham chiếu)
1,96
1,33
1,02
(nhóm tham chiếu)
0,75
(nhóm tham chiếu)
0,87
(nhóm tham chiếu)
*; **; *** là các hệ số hồi qui có ý nghĩa thống kê ở mức 0,05; 0,01; 0,001
(*) Nhóm tham chiếu là nhóm đã từng nghe về biến đổi khí hậu và rất quan tâm
Nguồn: Lê Thanh Sang. Chương trình nghiên cứu Tây Nam Bộ, 2008. Viện Phát triển
bền vững vùng Nam Bộ
Đối với nhóm đã từng nghe nói nhưng không quan tâm, hầu hết các khác biệt so
với nhóm đã từng nghe và rất quan tâm là không có ý nghĩa thống kê trừ sự khác
nhau giữa bà con người Việt và bà con các dân tộc khác. Sau khi kiểm soát tất cả
các biến độc lập, sự quan tâm của bà con người Việt vẫn cao hơn 3 lần so với
nhóm còn lại. Các kết quả này cho thấy rằng, sự khác nhau về tuổi tác và học vấn
có ảnh hưởng quan trọng đối với việc tiếp cận thông tin liên quan đến BĐKH
nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đến sự quan tâm hay không quan tâm đối với
vấn đề này sau khi được thông tin.
5. Một số nhận xét kết luận
Kết quả nghiên cứu bước đầu về nhận thức của người dân ở ĐBSCL đối với
BĐKH cho phép nêu lên một số nhận xét chính sau:
Mặc dù BĐKH là mối đe dọa nghiêm trọng đối với ĐBSCL, có tới gần một nửa số
người được hỏi chưa từng nghe nói về BĐKH. Điều này cho thấy vấn đề này vẫn
còn khá xa lạ đối với nhiều người dân ở đây và do vậy cần tăng cường công tác
thông tin để người dân hiểu rõ hơn về hiểm họa này.
Hầu hết người dân biết được thông tin về BĐKH là do xem tivi. Một bộ phận khác
là nhờ nghe radio và báo chí. Điều này cho thấy các phương tiện truyền thông đại
chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết và nhận thức của
người dân về BĐKH. Tuy nhiên, điều này cũng đồng thời cho thấy vai trò của địa
phương và cộng đồng còn khá mờ nhạt. Sự bổ sung các kênh thông tin cho một số
nhóm không có điều kiện xem tivi, nghe radio, hoặc đọc báo là rất cần thiết.
Các yếu tố tuổi tác, học vấn, và tộc người có ảnh hưởng quan trọng đối với việc
tiếp nhận các thông tin về BĐKH. Những người từ 45 tuổi trở lên tiếp nhận được
thông tin nhiều hơn là những người trẻ. Những người có học vấn cao hơn nhận
được thông tin về BĐKH nhiều hơn so với những người có học vấn thấp. Bà con
người Việt cũng tiếp nhận được nhiều thông tin hơn so với nhóm còn lại. Trong số
11
những người tiếp nhận được thông tin thì trừ yếu tố tộc người, các yếu tố còn lại
không có ảnh hưởng đáng kể đối với việc họ có quan tâm hay không quan tâm đến
BĐKH.
Mặc dù bài viết đã chỉ ra một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ tiếp
nhận thông tin về BĐKH như đã nêu, một số yếu tố khác như nghề nghiệp, lối
sống, điều kiện sống… có thể có những ảnh hưởng đáng kể, không chỉ đối với
việc tiếp cận thông tin mà quan trọng hơn là mức độ quan tâm đối với BĐKH. Đây
là những vấn đề sẽ được nghiên cứu bổ sung trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
Bùi Thế Cường. 2006-2008. Chương trình cấp Bộ “Những vấn đề cơ bản trong sự
phát triển của vùng Tây Nam bộ”. Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
Chaudhry, Peter and Greet Ruysschaert. 2007. “Climate Change & Human
Development in Viet Nam: A Case Study for the Human Development
Report 2007/2008.” Oxfam and UNDP.
ICEM. 2008. “Rapid Assessment of the Exten and Impact of Sea Level Rise in
Viet Nam.” Kimdo Disign, Ha Noi, Viet Nam.
IPCC, 2001. Climate Change 2001: Impacts, Adaptation and Vulnerability.
Contribution of Working Group II to the Second Assessment of the
Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge University Press.
IPCC, 2007. Climate Change 2007: Impacts, Adaptations and Mitigation of
Climate Change: Scientific- Technical Analyses. Contribution of Working
Group II to the Fourth Assessment of the Intergovernmental Panel on
Climate Change. Cambridge University Press.
IPCC, 2007. Climate Change 2007: The Physical Science Basis. Summary for
Policy Makers, Contribution of Working Group I to the Fourth Assessment
Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Geneva.
IPCC, 2007. Climate Change 2007:Mitigation. Contribution of Working Group III
to the Fourth Assessment of the Intergovernmental Panel on Climate Change.
Cambridge University Press.
MONRE, 2003, Vietnam Initial National Communication under the United
Nations Framework Convention on Climate Change, Hanoi
MONRE, 2005. Thematic Assessment Report on the United Nations Framework
Convention on Climate Change and Kyoto Protocol, Hanoi.
MONRE, 2008. National Target Program to Response to Climate Change, (7th
draft version), Hanoi.
M0NRE. 2003. “Viet Nam Initial National Communication.” Viet Nam. Ha Noi.
Nguyen, H. N., 2007. Flooding in Mekong River Delta, Viet Nam, Human
Development Report, UNDP.
12
Vietnam Agenda 21 Office. 2008. “Sustainable Development Implementation in
Vietnam.” Ministry of Planning and Investment and UNEP. Ha Noi. Viet
Nam.
Vietnam Country Study. 2006. “Linking Climate Change Adaptation and Disaster
Risk Management for Sustainable Poverty Reduction.” Framework
Contract AMS/451 Lot No 6.
13