Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm phân bố của động vật đáy (Zoobenthos) ở vùng hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.93 MB, 70 trang )

1

MỞ ĐẦU
Quảng Trị là một tỉnh duyên hải miền Trung, có đường bờ biển kéo dài
hơn 75km với 3 hệ thống sông chính là Bến Hải, Thạch Hãn và Ô Lâu đổ ra hai
cửa biển: Cửa Tùng và Cửa Việt. Hệ thống sông ngòi ở Quảng Trị nhìn chung là
nhiều nhưng ngắn và dốc. Trong đó, sông Hiếu (hay còn gọi là sông Cam Lộ nhánh sông lớn nhất của sông Thạch Hãn) là sông lớn nhất chảy qua thành phố
Đông Hà, nhập vào sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ rồi chảy ra biển Cửa Việt
trước khi đổ ra biển Đông. Sông Hiếu có diện tích lưu vực 465km2 và chiều dài
khoảng 70km, chiều rộng của sông đoạn qua thành phố 150 - 200m. Trong đó,
đoạn đi qua thành phố Đông Hà dài 8km từ nhà máy xi măng Đông Hà đến ngã
ba Gia Độ. Vì vậy, vùng hạ lưu sông Hiếu là nơi cung cấp nguồn lợi lớn từ khai
thác và nuôi trồng thủy sản, góp phần nâng cao đời sống cho các ngư dân trong
vùng. Cùng với các hoạt động sinh kế khác, phát triển thủy sản đã tạo ra việc
làm, thu nhập ổn định, xóa đói giảm nghèo và mở ra hướng làm ăn đầy triển
vọng cho người dân sống ven sông.
Trong lĩnh vực khai thác nguồn lợi thủy sản nói chung ở hạ lưu vùng sông
Hiếu, các loài động vật đáy (Zoobenthos) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt
sinh thái và đời sống của con người. Chúng là thành phần thức ăn quan trọng của
các loài cá có giá trị kinh tế và một số loài thuộc lớp Chân bụng (Gastropoda),
Hai mảnh vỏ (Bivalvia). Bên cạnh đó, các loài động vật đáy còn là nguồn thực
phẩm có giá trị dinh dưỡng cao chứa nhiều acid amin không thay thế và chúng
còn được dùng làm hàng mĩ nghệ, trang sức. Ngoài ra, động vật đáy còn được sử
dụng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các chất ô nhiễm đối với môi trường vì
chúng có thời gian sống khá dài, di chuyển chậm nên có khả năng tích tụ các kim
loại nặng ở bên trong cơ thể. Chúng sống trên bề mặt và trong trầm tích nên tiếp
xúc trực tiếp với các chất gây ô nhiễm, phản ánh tình trạng môi trường không chỉ
ở hiện tại mà còn ở nhiều năm trước đó. Vì vậy, những đánh giá về môi trường
thường dựa trên những số liệu về sinh học, sinh thái của nhóm động vật này.



2
Trong những năm gần đây, khu vực hạ lưu sông Hiếu mà cụ thể là vùng biển
Cửa Việt đang nằm trong tình trạng khai thác quá mức dẫn đến nguồn lợi thủy sản
nói chung và nguồn lợi động vật đáy (Zoobenthos) nói riêng ngày càng suy giảm,
môi trường sinh thái ngày càng suy thoái. Ô nhiễm môi trường nước đã làm suy
giảm tính đa dạng sinh học của khu vực hạ lưu sông Hiếu, qua đó ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của hệ thủy sinh vật cũng như đời sống của con người.
Vấn đề khai thác và sử dụng không hợp lí các loài động vật đáy ở nước ta nói chung
và tỉnh Quảng Trị nói riêng vẫn còn phổ biến. Nguồn lợi thủy sản chỉ được sử dụng
một cách tự nhiên mà chưa có những biện pháp tích cực, chủ động trong việc khai
thác và nuôi trồng. Đặc biệt, ở Quảng Trị mà điển hình là vùng hạ lưu sông Hiếu
chưa có các công trình nghiên cứu, đánh giá cụ thể về đa dạng thành phần loài, thực
trạng đánh bắt và khai thác cũng chưa thực sự hợp lí. Qua đó, gây nên những biến
động nghiêm trọng về thành phần, sản lượng và chất lượng của nguồn lợi thủy sản,
gây ảnh hưởng trực tiếp đến suy thoái đa dạng sinh học.
Từ những cấp thiết đó, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần
loài và đặc điểm phân bố của động vật đáy (Zoobenthos) ở vùng hạ lưu sông
Hiếu, tỉnh Quảng Trị”. Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững vùng hạ lưu
sông Hiếu và vùng ven biển tỉnh Quảng Trị theo chiến lược nuôi trồng thủy sản
nói chung, phát triển nguồn lợi động vật đáy (Zoobenthos) nói riêng. Chúng tôi
thiết nghĩ cần phải có những công trình nghiên cứu để đánh giá hiện trạng nguồn
lợi động vật đáy ở hạ lưu sông Hiếu để làm cơ sở cho việc quy hoạch và bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản này.
Thông qua đề tài này, hi vọng sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề sau:
1. Có được danh lục thành phần loài động vật đáy ở vùng hạ lưu sông
Hiếu, tỉnh Quảng Trị.
2. Xác định được đặc điểm phân bố của động vật đáy (Zoobenthos) ở vùng
hạ lưu sông Hiếu.
3. Đề xuất được một số nhóm giải pháp khả thi cho những nhóm loài khai



3
thác nhằm phát triển bền vững nguồn lợi động vật đáy (Zoobenthos) ở hạ lưu
sông Hiếu.

Phần 1.

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa,
với đường bờ biển kéo dài hơn 3620km, hệ thống sông tự nhiên dày đặc, trung
bình cứ 20km lại có một con sông. Các thủy vực nội địa có tính đa dạng sinh học
cao, khu hệ động thực vật thủy sinh phong phú.
Ở Việt Nam, nhiều công trình về thủy sinh vật biển, trai ốc biển ở Côn
Đảo đã được bắt đầu nghiên cứu từ cuối thế kỉ XVIII với công bố đầu tiên của
Martyn và Chemnitz (1784). Tới năm 1890, Crosse và Fischer cũng đã tiến hành
những nghiên cứu về trai ốc biển tại vịnh Hạ Long [13].
Đến đầu thế kỉ XX, có những công trình nghiên cứu về cua nước ngọt của
Rathbun (1902 – 1906), tôm nước ngọt của Bouvier (1904, 1920, 1925) … cung
cấp thêm nhiều dẫn liệu về thành phần loài cũng như vùng phân bố của nhóm
động vật này ở Việt Nam. Các tài liệu đã công bố năm 1904, có những dẫn liệu
quan trọng về thành phần loài và vùng phân bố của nhiều nhóm động vật nước
ngọt vùng Đông Dương như trai ốc, giáp xác … Có thể coi đây như những tài
liệu cơ bản về khu hệ động vật của các thuỷ vực nội địa ở Việt Nam [2].
Vào năm 1904, trong các công bố của đoàn Ravie, Fisher và Dautzenberg
đã đưa ra danh mục 148 loài trai ốc có ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong các nghiên
cứu này, các vấn đề về phân loại học vẫn chưa rõ ràng, vị trí phân loại của nhiều
loài còn bị nhầm lẫn (Đặng Ngọc Thanh, 1980). Các nhóm động vật như Giáp
xác, Giun nhiều tơ vẫn chưa được đề cập đến [2].



4
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã có những nghiên cứu
quan trọng về sự đa dạng thành phần loài, những đánh giá có ý nghĩa về mặt kinh
tế của động vật đáy ở các thủy vực nước ta.
Năm 1992, trong danh mục động vật không xương sống nước ngọt Việt
Nam, Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật đã công bố 630 loài, trong đó có
nhiều loài mới được xác định từ năm 1960 [2].
Nguyễn Mộng (1993, 1997), đã tiến hành nghiên cứu cơ bản về khu hệ
động vật không xương sống ở đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế và xác định được 54
loài động vật đáy, tập trung chủ yếu thuộc 3 nhóm: Giun nhiều tơ (Polychaeta),
Hai mảnh vỏ (Bivalvia), Giáp xác (Crustacea) [23].
Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Huy Yết (1993), điều tra nguồn lợi đặc sản
vùng biển ven bờ và ven đảo từ Móng Cái đến Bắc đèo Hải Vân, điều tra trên 40
điểm thuộc 9 tỉnh đã xác định được 233 loài thuộc ngành Thân mềm [28].
Nguyễn Mộng (1999), nghiên cứu thành phần loài Thân mềm Hai mảnh vỏ ở
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai đã xác định được 24 loài, thuộc 11 họ, 17giống [11].
Năm 2002, trong báo cáo khoa học của nhóm tác giả trường Đại học Khoa
học Huế, nghiên cứu đánh giá hệ sinh thái và môi trường vùng hạ lưu sông Kiến
Giang phục vụ phát triển bền vững, đã xác định được: 4 loài giun nhiều tơ
(Polychaeta), 3 loài giáp xác chân khác (Amphipoda), 2 loài giáp xác chân đều
(Isopoda), 1 loài giáp xác Tanaidacea, 3 loài giáp xác Mười chân (Decapoda), 2
loài thân mềm hai mảnh vỏ (Bivalvia) [14].
Ðỗ Công Thung (2003), đã tiến hành so sánh động vật Thân mềm hai
mảnh vỏ ở Đông Bắc Việt Nam và Cát Bà, Cô Tô cho thấy khu vực Cát Bà, Cô
Tô là nơi có số lượng động vật Hai mảnh vỏ nhiều hơn cả, với hơn 131 loài (Cát
Bà) và 116 loài (Cô Tô). Kết quả nghiên cứu còn cho thấy có sự khác biệt về số
lượng loài và cấu trúc thành phần loài giữa các kiểu sinh cảnh khác nhau do tính
chất đa dạng về các kiểu hệ sinh thái điển hình tại khu vực Cát Bà và Cô Tô [4].
Hồ Thanh Hải, Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Kiêm Sơn, Phạm Văn Mạch, Lê

Hùng Anh, Nguyễn Khắc Đỗ, Dương Ngọc Cường (2003), trong quá trình khảo sát


5
môi trường nước và khu hệ thuỷ sinh vật của các thuỷ vực ở khu vực động Phong
Nha, tỉnh Quảng Bình, đã ghi nhận 15 loài động vật đáy bao gồm: 7 loài thuộc lớp
Chân bụng, 2 loài thuộc lớp Thân mềm và 6 loài thuộc lớp Giáp xác [8].
Bùi Quang Nghị (2007), ghi nhận thành phần loài động vật Thân mềm
(Mollusca) từ chuyến khảo sát biển Đông, gồm 44 loài thuộc 4 lớp trong ngành
động vật Thân mềm (Mollusca) bao gồm: 1 loài thuộc lớp nhiều mảnh vỏ
(Polyplacophora), 34 loài thuộc lớp Chân bụng (Gastropoda), 8 loài thuộc lớp
Hai mảnh vỏ (Bivalvia) và 1 loài thuộc lớp Chân đầu (Cephalopoda), trong đó có
5 loài phát hiện ở Việt Nam[12].
Năm 2007, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, dự án đầu tư công trình thuỷ
điện sông Bung 4 lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam; trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường đã ghi nhận được 10 loài giáp xác, 19 loài
động vật Thân mềm và các ấu trùng thuộc 10 họ côn trùng [14].
Ngô Xuân Quảng, Nguyễn Văn Sinh (2008), tiến hành nghiên cứu đa dạng
sinh học khu hệ động vật đáy không xương sống cỡ lớn ở Búng Bình Thiên, An
Giang phục vụ công tác bảo tồn. Qua nghiên cứu, đã xác định được có 48 loài
động vật không xương sống cỡ (ĐVKXS) cỡ lớn, trong đó các loài Thân mềm
chiếm tỉ lệ cao trong quần xã từ 52,9% - 64,5% qua hai đợt khảo sát [17].
Hứa Thái Tuyến, trong giai đoạn từ năm 2008 – 2009, tiến hành nghiên
cứu động vật Thân mềm (Mollusca) ở vịnh Phan Thiết, kết quả đã ghi nhận được
58 loài Thân mềm (Mollusca) thuộc 3 lớp, trong đó Chân bụng (Gastropoda) có
27 loài thuộc 23 họ, Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 30 loài thuộc 18 họ, lớp Nhiều
mảnh vỏ (Polycophora) có 1 loài [29].
Đỗ Văn Tứ (2009), tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm động vật đáy
thuộc lưu vực sông Cầu, đã xác định được 16 loài động vật Thân mềm Hai mảnh
vỏ phân bố trên hệ thống sông Cầu thuộc 3 bộ, 4 họ [31].

Nguyễn Vũ Thanh (2008), đã tiến hành nghiên cứu quần xã động vật đáy
không xương sống bao gồm: Tuyến trùng (Nematoda), Giáp xác chân chèo
(Copepoda) và vai trò chỉ thị của chúng ở các hệ sinh thái rừng ngập mặn và cửa
sông Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xác định được vai trò quan


6
trọng của ĐVKXS ở đáy đối với việc chỉ thị sinh học môi trường rừng ngập mặn
để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ, khôi phục và phát triển nguồn lợi
thủy vực này [27].
Võ Văn Phú, Hoàng Đình Trung, Hoàng Đức Huy (2009), dẫn liệu bước
đầu về thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn ở hồ Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam đã xác
định được 28 loài động vật đáy tập trung vào 3 ngành chính: ngành Thân mềm
(Molusca), ngành Giun đốt (Annelida) và ngành Chân khớp (Arthropoda) [15].
Hoàng Đình Trung, Võ Văn Phú, Lê Thị Miên Ngọc (2011), đã tiến hành
nghiên cứu về đa dạng thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn và chất lượng nước mặt
tại sông Hương, Thừa Thiên Huế; quá trình nghiên cứu đã xác định được 21 loài
thuộc 2 lớp của ngành Thân mềm và 8 loài thuộc 3 lớp của ngành Giun đốt [24].
Võ Văn Phú, Hoàng Đình Trung, Lê Minh Thái (2010), Bổ sung thành
phần loài động vật đáy ở hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên
Huế; đã xác định được 76 loài động vật đáy thuộc 56 giống, 37 họ, 5 bộ, 5 lớp
thuộc 3 ngành: Giun đốt (Annelida), Chân khớp (Arthropoda) và Thân mềm
(Mollusca) [16].
Lê Công Quyền, Trịnh Thị Lan và Vũ Ngọc Út (2011), trong quá trình
tiến hành nghiên cứu sự phân bố động vật đáy trên 8 điểm ở rạch Cái Sao, tỉnh
An Giang, đã xác định được 12 loài động vật đáy thuộc 5 nhóm bao gồm: Giun ít
tơ (Oligochaeta), Giun nhiều tơ (Polychaeta), Giáp xác (Crustacea), Chân bụng
(Gastropoda), Hai mảnh vỏ (Bivalvia) [18].
Đỗ Văn Tứ, Lê Hùng Anh (2011), đã tiến hành nghiên cứu hiện trạng khu
hệ động vật đáy cỡ lớn ở Hồ Tây, Hà Nội, quá trình nghiên cứu đã xác định được

27 loài động vật đáy thuộc 25 giống, 11 họ và 5 lớp, 3 ngành. Trong đó, chiếm ưu
thế là 2 lớp: lớp Chân bụng (Gastropoda) với 13 loài (chiếm 48%) và lớp Hai
mảnh vỏ (Bivalvia) có 7 loài (chiếm 26%). Các lớp còn lại có số lượng loài ít,
bao gồm: Giáp xác (Crustacea), Giun ít tơ (Oligochaeta), Giun nhiều tơ
(Polychaeta) và Côn trùng (Insecta) [31].

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở QUẢNG TRỊ


7
Quảng Trị là một tỉnh duyên hải miền Trung có hệ thống sông suối tự
nhiên khá dày đặc, trung bình cứ 10 – 15km có một cửa sông, trong đó có hai cửa
sông lớn là Cửa Tùng và Cửa Việt. Tuy nhiên, ở Quảng Trị các công trình nghiên
cứu về thuỷ vực nội địa chủ yếu chỉ tập trung làm rõ các chỉ tiêu hoá lí về chất
lượng nước bề mặt. Trong khi đó, vấn đề nghiên cứu về đa dạng thành phần loài
động vật vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào nguồn lợi cá trên hệ thống các
sông lớn như sông Thạch Hãn, Ô Lâu … Riêng về động vật đáy, các công trình
nghiên cứu về đa dạng thành phần loài cũng như đặc điểm phân bố chưa được
chú trọng và quan tâm đúng mức, hiện mới chỉ có một vài công trình nghiên cứu
trên đảo Cồn Cỏ của một số nhóm tác giả.
Lê Doãn Dũng, Đỗ Văn Khương và ctv (2010), tiến hành nghiên cứu động
vật đáy ở khu bảo tồn biển đảo Cồn Cỏ, kết quả đã xác định được 135 loài động
vật đáy cỡ lớn thuộc 51 họ. Trong đó, ngành Thân mềm (Mollusca) chiếm ưu thế
với 99 loài (chiếm 73,3% tổng số loài động vật đáy); tiếp đến là ngành Chân
khớp (Arthropoda) có 24 loài thuộc 6 họ; ngành Da gai (Echinodermata) có 12
loài thuộc 8 họ (chiếm 8,9%) [5].
Nguyễn Đắc Tạo, Hoàng Đình Trung (2011), đặc điểm thành phần loài
động vật đáy và cỏ biển ở đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị đã xác định được 105
loài động vật đáy thuộc 31 họ, 56 giống và 4 ngành: Ngành Da gai
(Echinodermata), Giun đốt (Annelida), Thân mềm (Mollusca) và ngành Chân

khớp (Arthropoda) [24].


8

Phần 2.

ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các loài động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị.
- Đặc điểm phân bố của các loài động vật đáy ở hạ lưu sông Hiếu, Quảng Trị.

2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
- Tiến hành khảo sát và thu thập mẫu vật từ tháng II/2012 đến tháng
V/2012. Tần suất lấy mẫu là 2 lần/tháng, bao gồm các đợt thu mẫu như bảng 2.1.
Bảng 2.1. Thời gian thu mẫu tại vùng nghiên cứu
Stt

Tháng thu mẫu

Thời gian thu mẫu

1

II/2012

10/II/2012 - 15/II/20112


25/II/2012 - 29/II/20112

2

III/2012

10/III/2012 - 15/III/2012

25/III/2012 - 30/III/2012

3

IV/2012

10/IV/2012- 15/IV/2012

25/IV/2012- 30/IV/2012

4

V/2012

10/V/2012- 15/V/2012

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu được thực hiện tại vùng hạ lưu sông Hiếu, tỉnh
Quảng Trị, kéo dài từ bến đò phường 4 cách nhà máy Xi măng Đông Hà 2km
hướng về phía cầu Tàu đến làng Mai Xá Chánh cách ngã Ba Gia Độ 3km hướng
về phía Cửa Việt. Các mặt cắt và điểm lấy mẫu được lựa chọn sao cho có thể thu
được các đại diện cho vùng lấy mẫu và tuân thủ đúng theo quy trình, quy phạm

điều tra cơ bản của UBKHKT, nay là Bộ KH&CN ban hành 1981.
Bảng 2.2. Địa điểm thu mẫu


9
Stt

Địa điểm thu mẫu

Ký hiệu

1

Bến đò phường 4

M1

2

Làng Rèn phường 3

M2

3

Làng An Lạc

M3

4


Làng Đồng Lai

M4

5

Ngã ba Gia Độ

M5

6

Làng Mai Xá Chánh

M6

Có tất cả 6 điểm thu mẫu, trong đó mỗi điểm sẽ được lấy ở 2 vị trí là bờ
Bắc và bờ Nam. Sơ đồ các mặt cắt và điểm thu mẫu được thể hiện ở hình 2.1.

Hình 2.1. Sơ đồ vị trí các điểm thu mẫu ở hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị
(ghi chú: M1, M2, ... : điểm thu mẫu)

2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa


10
- Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa
+ Gầu đáy Petersen: có diện tích là 0,025m 2; mỗi điểm thu 4 gầu (diện tích

thu mẫu là 0,1m2) và sàng lọc qua lưới 2 tầng; có mắt lưới 0,5mm và 0,25mm.
+ Vợt ao bằng tay (Hand net): gồm một khung hình thang cân, cạnh dài
20 – 25cm, cạnh ngắn khoảng 19 – 22cm đỡ một túi lưới với chiều sâu khoảng
50cm. Kích thước mắt lưới là 1mm.

Hình 2.2. Gàu đáy Petersen

Hình 2.3. Vợt ao (Pond net)

+ Ngoài ra, để thu mẫu được đầy đủ hơn chúng tôi còn gửi các bình có pha
sẵn hóa chất định hình để nhờ các hộ khai thác thủy sản ở vùng hạ lưu sông thu
thập thường xuyên trong thời gian nghiên cứu. Tiến hành thu góp mẫu vật tại ngư
dân 2 tuần/lần hoặc trực tiếp thu mua mẫu ở các chợ xung quanh vùng thu mẫu.
+ Mặt khác, chúng tôi còn tiến hành thu mẫu lồng ghép với các đợt đánh
bắt của ngư dân.
- Phương pháp cố định và bảo quản mẫu
+ Mẫu được xử lí ngay khi đang còn tươi, định hình ngay trong dung dịch
cồn 900, có kèm theo Etiket, ghi rõ tên họ Việt Nam, tên địa phương, thời gian và
địa điểm thu mẫu.
+ Tất cả mẫu thu được cho vào hộp nhựa Plastic, định hình và đưa về
phòng thí nghiệm Bộ môn Tài nguyên – Môi trường, khoa Sinh học, trường Đại
học Khoa học Huế để phân tích.


11
- Xác định pH bằng phương pháp test pH.
+ Sử dụng dung dịch test pH và đối chiếu với bản màu tương ứng cho
từng mức pH nhất định.
- Xác định độ mặn của nước.
+ Sử dụng máy đo độ mặn Atago PR-100SA để đo độ mặn của nước

tại vùng nghiên cứu.

Hình 2.4. Máy đo độ mặn Atago PR-100SA

- Phương pháp điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác:
+ Sử dụng phương pháp RRA (Rapid Rural Apraisal): là phương pháp
đánh giá nhanh nông thôn dựa trên cộng đồng. Bằng cách lập phiếu điều tra theo
từng hộ để thu thập các thông tin liên quan của từng nhóm nguồn lợi và các hoạt
động khai thác.
2.3.2. Trong phòng thí nghiệm
2.3.2.1. Phương pháp định loại mẫu động vật đáy
- Định loại bằng phương pháp so sánh hình thái: theo khóa định loại
lưỡng phân.


12

Hình 2.5. Hình thái ngoài của tôm (Theo Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2001)

Ghi chú:
1: Gai gan

2: Gai mang

3: Vỏ đầu ngực

4: Chuỷ

5: Gai râu


6: Cuống râu I

7: Đốt chuyển

8: Đốt đùi

10: Đốt bàn

11: Ngón

12: Chân bò

13: Chân bơi

14: Đuôi

15: Bụng

Hình 2.6. Hình thái phân loại cua nước ngọt
(Theo Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2001)

Ghi chú:
1: Gờ thượng vị

2: Răng trên mang

3: Cạnh bên trước

4: Cạnh bên


5: Cạnh

6: Thuỳ thượng vị

7: Răng ngoài ổ mắt 8: Gò sau ổ mắt

9: Rãnh đầu

10: Rãnh bán nguyệt

11: Rãnh chữ H

12: Rãnh tim


13

Hình 2.7. Cấu tạo vỏ trai
(Theo Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, 1980)

Ghi chú:
1: Đỉnh vỏ

2: Răng chủ giả 3: Vết bám cơ trước

5: Vết bám cơ co duỗi chân trước

6: Đường viền mép áo

8: Vết bám cơ sau


10: Dây chằng

9: Răng bên

4: Vết bám cơ co trước
7: Vết bám của cơ khép vỏ sau

Hình 2.8. Cấu tạo vỏ ốc
(Theo Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, 1980)
Ghi chú: 1: Rãnh xoắn

5: Lỗ rốn

2: Đỉnh

3: Vòng xoắn

4: Chiều cao

6: Trụ ốc

7: Chiều rộng

8: Nắp miệng


14
Các tài liệu được dùng để định loại:
+ Nguyễn Xuân Quýnh. 2001. Định loại các loài động vật không xương

sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam. NXB ĐHQG Hà Nội [19].
+ Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên. 1980. Định loại
động vật không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật
Hà Nội [25].
+ Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2001. Giáp xác nước ngọt, trong Động
vật chí Việt Nam, tập 5. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội [26].
- Xử lí số liệu: sau khi thu thập đầy đủ thông tin và tiến hành phân tích so
sánh, đối chiếu, chúng tôi tiến hành xử lí thống kê số liệu bằng Excel 2007 và từ
đó đánh giá kết quả.
2.3.2.2. Đánh giá quan hệ thành phần loài động vật đáy giữa các thuỷ vực
khác nhau theo công thức Sorencen (1948)
Công thức: S = 2C/(A+B)
Trong đó:
S: Hệ số gần gũi của 2 khu hệ
A: Số loài của khu hệ A
B: Số loài của khu hệ B
C: Số loài chung của 2 khu hệ
Hệ số gần gũi biến đổi từ 0 đến 1. Giá trị S càng gần đến 1, mối quan hệ
giữa các khu hệ càng lớn, thành phần loài trong 2 khu hệ càng giống nhau. Giá trị
S càng gần tới 0, mối quan hệ giữa 2 khu hệ càng ít, thành phần loài trong 2 khu
hệ càng khác xa nhau.


15

Phần 3.

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH QUẢNG TRỊ
3.1.1. Vị trí địa lý và địa hình

Quảng Trị là một tỉnh nằm trong dải đất miền Trung thuộc vùng Bắc
Trung Bộ của Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 16018 - 17010 vĩ độ Bắc, 106032 107034 kinh độ Đông. Phía Nam giáp huyện Phong Ðiền và A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên- Huế; phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; từ Tây Bắc xuống
phía Nam giáp 2 tỉnh Xavanakhet và Xaravan nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào; phía Ðông được bao bọc bởi biển Ðông với bờ biển kéo dài 75km. Nơi đây
mang đặc điểm chung và cơ bản về chế độ nhiệt đới gió mùa Việt Nam.
Vùng miền núi chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh; vùng trung
du và vùng đồng bằng lần lượt chiếm 22% và 11% tổng diện tích đất tự nhiên.
Ðiểm cao nhất là Voi Mẹp cao 1.701m, điểm thấp nhất chạy dọc dải đồng bằng
có độ cao tuyệt đối từ 25 - 50m; độ cao trung bình nằm ở vùng trung du, gò đồi
có độ cao tuyệt đối từ 50 - 100m so với mặt nước biển [20].
Địa hình Quảng Trị có dạng bậc, nghiêng từ Tây sang Đông. Phía Tây dựa
vào sườn Đông của dãy Trường Sơn có độ cao từ 700m – 2000m, kế tiếp là trung
du, vùng đồi bát úp cao 250m đến 400m, phía Đông giáp biển Đông là dải cồn
cát dài gần 70km chạy dọc bờ biển, độ cao trung bình từ 8m - 20m và rộng
khoảng 5km – 6km. Nằm kẹp giữa vùng cồn cát cao và vùng cồn cát ven biển là
dải đồng bằng nhỏ hẹp, lòng máng rộng khoảng 10km có độ cao -0,5m - 8m (so
với mực nước biển) chiếm trên 10% diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh. Đây là
nơi dân cư tập trung, chiếm trên 85% dân số của tỉnh [10], [35].
Nằm phần lớn bên sườn Đông dãy Trường Sơn, nên tỉnh Quảng Trị có chế
độ khí hậu chủ yếu thể hiện đặc điểm của miền khí hậu Đông Trường Sơn, một
phần lãnh thổ nhỏ mang đặc điểm của miền khí hậu Tây Trường Sơn [35].


16
Quảng Trị là một trong những nơi trên lãnh thổ nước ta chịu ảnh hưởng
khá nặng nề của các hiện tượng thời tiết đặc biệt mang tính chất thiên tai khí hậu
như bão, mưa lớn gây lũ lụt, gió khô nóng gây hạn hán.
Tỉnh Quảng Trị có 3 hệ thống sông chính là sông Bến Hải, Thạch Hãn và
Ô Lâu (Mỹ Chánh). Đặc điểm chính của hệ thống sông là ngắn và dốc, hướng

chảy chính là Tây – Đông, độ dốc trung bình là từ khoảng 13 – 25 m/km. Ở phần
thượng nguồn các sông phân nhánh thành các chi lưu, phụ lưu, lòng sông thu
hẹp, nhiều ghềnh thác [9], [35].
+ Hệ thống sông Bến Hải: Bắt nguồn từ Động Châu có độ cao 1257m.
Các phụ lưu ở thượng nguồn gồm có sông Sa Lung và sông Rào Thanh. Lưu
lượng trung bình năm 43,4 m3/s.
+ Hệ thống sông Thạch Hãn: có hai chi nhánh lớn là sông Hiếu (còn gọi là
sông Cam Lộ) ở phía Bắc và sông Thạch Hãn ở phía Nam có quy mô lớn hơn bắt
nguồn từ các dãy núi lớn Động Sa Mù, Động Voi Mẹp, Động Ba Lê và Động Dang.
+ Hệ thống sông Ô Lâu: Được hợp bởi hai hệ thống sông chính là Ô Lâu ở
phía Nam và sông Mỹ Chánh ở phía Bắc. Sông đổ vào phá Tam Giang thuộc địa
phận Thừa Thiên Huế.
Ngoài các hệ thống sông chính ra, tỉnh Quảng Trị còn có hệ thống sông
suối dày đặc, phát triển rất mạnh ở phần thượng nguồn, có độ dốc lớn tạo ra
nhiều thác cao hàng trăm mét và phân bậc phức tạp. Trong đó, các đặc trưng hình
thái của hệ thống các sông này được đưa ra ở bảng 3.1.


17
Bảng 3.1. Các đặc điểm của các con sông ở Quảng Trị
Đặc trưng trung bình lưu vực
Độ
Stt

Sông

cao
nguồn
(m)


Chiề
u dài
(km)

Chiều
dài
lưu
vực

Diện
tích
lưu
vực

Hệ
Độ
cao
(m)

Độ
Độ dốc

rộng

(%)

(km
)

Mật độ


số

lưới sông

uốn

(km/km2)

khúc

1

Bến Hải

500

64,5

51,5

809

115

8,6

15,7

1,15


1,43

2

Thạch Hãn

700

156

69

2660

301

20,1

38,6

0,92

2,50

3

Rào Quán

1400


39

30

251

517

25,6

8,4

1,36

1,43

4

Vĩnh Phước

350

45

32

293

85


9,4

9,2

1,37

1,60

5

Cam Lộ (Hiếu)

1400

66

58

539

238

20,1

9,3

1,12

1,08


6

Thác Mã

900

40

30

230

345

27,6

7,7

0,58

1,43

Xê Pôn (và các
7

suối đổ vào Xê

738


Bang Hiêng)

Nguồn: Trung tâm Phát triển Công nghệ & Điều tra Tài nguyên - Sở TN&MT Quảng Trị.

3.1.2. Điều kiện khí hậu
Quảng Trị có khí hậu nhiệt đới gió mùa tương đối ổn định. Trong năm có
hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng II – VIII, mùa mưa từ tháng IX tới tháng I
năm sau [1].
3.1.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ bình quân nhiều năm của tỉnh vào khoảng 25,9 0C. Tháng có nhiệt
độ cao nhất là V và VII, khoảng 31 0C. Tháng thấp nhất là I, II, khoảng 200C, có
khi xuống 9 - 100C. Nhiệt độ bình quân các tháng của tỉnh được thể hiện ở bảng
3.2 [9].


18
Bảng 3.2. Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm 2010 của tỉnh Quảng Trị
Đơn vị: 0C
Tháng
0

C

I

II

III

IV


V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

TB

20,9

23,1

23,8

26,1

29,8

31,0


30,2

28,3

28,0

25,0

22,9

21,6

25,9

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010.
3.1.2.2. Mưa
Lượng mưa hàng năm dao động trong khoảng 2.000 – 2.800m. Lượng
mưa 3 tháng mùa mưa chiếm 68 – 70% lượng mưa của cả năm trong khi 9 tháng
mùa khô chỉ chiếm 30% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa bình quân năm
2010 của tỉnh được thống kê ở bảng 3.3 [9], [37], [38].
Bảng 3.3. Lượng mưa bình quân các tháng trong năm 2010 của tỉnh Quảng Trị
Đơn vị: mm
Tháng
mm

I

II


III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

Tổng

59,2 17,2 37,8 114,6 47,6 75,1 155,8 291,3 258,3 821,1 362,9 232,2 2473,1

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010.
3.1.2.3. Độ ẩm
Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm nằm trong khoảng 83 – 90%. Thời
gian có độ ẩm thấp của Quảng Trị thường xuất hiện vào tháng V, VI, VII.
Bảng 3.4. Độ ẩm tương các tháng trong năm 2012 của tỉnh Quảng Trị
Đơn vị: %

Tháng

I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

TB

%


90

83

83

84

77

72

73

82

811

87

89

89

83

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010.


19

3.1.2.4. Nắng
Thời kì ít nắng là những tháng mùa đông từ tháng X đến tháng II năm sau,
trong những tháng này số giờ nắng nhỏ hơn 120 giờ. Tháng ít nắng nhất là tháng
I, đạt 61 giờ. Tháng có giờ nắng cực đại là tháng VI, đạt 252 giờ.
Bảng 3.5. Số giờ nắng ở các tháng trong năm 2010 của tỉnh Quảng Trị
Đơn vị: giờ
Tháng

I

II

III

IV

V

VI

VII

XIII

IX

X

XI


XII

Tổng

Giờ

61

101

149

130

230

252

248

169

168

77

53

106


1744

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010.
3.1.2.5. Chế độ gió
Nằm trong khu vực gió mùa Đông Nam Á, Quảng Trị cũng mang những
tính chất chung về gió mùa. Mùa đông bắt đầu từ tháng XI đến tháng III năm sau,
hướng gió chủ yếu là hướng Tây Bắc chiếm 40- 50%, các hướng còn lại xuất
hiện với tần suất nhỏ hơn. Trong mùa đông các đợt gió mùa Đông Bắc khống chế
khu vực, xen kẽ giữa các đợt gió mùa Đông Bắc là các ngày có gió Đông hoặc
Đông Nam mang lại cảm giác ấm áp hơn trong thời kỳ lạnh giá [35]. Mùa hè bắt
đầu từ tháng V đến tháng IX, hướng gió thịnh hành trong địa bàn tỉnh là hướng
Tây Nam chiếm 50%. Xen kẽ giữa các đợt gió Tây Nam khô nóng là những đợt
gió có hướng Đông đến Đông Nam dịu mát [35].
Tốc độ gió trung bình trong các tháng dao động từ 2,5 - 3,5 m/s và ít thay
đổi giữa các mùa trong năm. Tốc độ gió mạnh thường xảy ra trong cơn dông,
không khí lạnh tràn về; khi ảnh hưởng trực tiếp của bão đổ bộ, tốc độ gió lớn
nhất quan trắc được là 35m/s [35].


20
Bảng 3.6. Tốc độ gió khu vực thành phố Đông Hà

Đơn vị: m/s
Tháng

I

II

III


IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

Năm

TB

2,3

2,1

2,0

1,9


2,1

3,7

3,7

3,3

1,7

2,1

2,5

2,5

2,5

Max

18

14

14

16

20


20

16

24

26

35

16

12

35

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị 2010.
3.1.2.6. Thuỷ triều
Vùng biển Quảng Trị có chế độ bán nhật triều không đều ở phía Bắc và
bán nhật triều điển hình ở phía Nam, hầu hết các ngày trong tháng đều có 2 lần
triều lên và 2 lần triều xuống cách nhau khoảng trên dưới 6 giờ. Chênh lệch độ
cao giữa hai lần nước lên và hai lần nước xuống không rõ rệt [22].

3.2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG HIẾU
3.2.1. Vị trí địa lí
Sông Hiếu là hệ thống sông lớn nhất chảy qua Thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị, bắt nguồn từ sườn Đông dãy Trường Sơn cao độ trên 1.000m chảy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam qua các xã Hướng Sơn, Hướng Hiệp chảy về qua địa
phận huyện Cam Lộ đi về Đông Hà (bắt đầu từ Nhà máy xi măng Đông Hà đến

ngã ba Gia Độ) và nhập vào sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ. Sông Hiếu có chiều
dài 70km, diện tích lưu vực 465km2, đoạn chảy qua Thành phố có chiều dài 8km,
với chiều rộng trung bình khoảng 150-200m. Khu vực hạ lưu sông Hiếu chịu sự
chi phối của thuỷ triều từ biển vào nên có chế độ dòng chảy khá phức tạp. Về mùa
khô dòng chảy ở thượng lưu nhỏ nên mặn xâm nhập sâu, biên độ mặn lớn với lưu
lượng thấp nhất là 2,83m3/s, nhưng về mùa lũ nước thường dâng cao gây ngập lụt.
Sông Hiếu là nguồn phù sa bồi đắp màu mỡ cho các cánh đồng ven hai bên sông;
cung cấp nước ngọt dồi dào cho sản xuất và sinh hoạt, đồng thời còn là nơi điều
hoà chế độ nhiệt ẩm cho thành phố, nhất là vào mùa hè. Bên cạnh đó, sông Hiếu
còn là đường thuỷ thuận lợi nối Đông Hà - Cam Lộ, Đông Hà - Cửa Việt và là
nguồn khai thác cát sạn dồi dào cho ngành xây dựng [1].
3.2.2. Đặc điểm thuỷ văn


21
Sông Hiếu có dòng chảy gần như từ Tây sang Đông với lòng sông được mở
rộng. Mỗi năm thường có 2 mùa là lũ sớm xảy ra vào tháng VIII và lũ muộn xảy ra
vào tháng XII. Tình hình mưa lũ ở sông Hiếu có thể xảy ra do các hình thế thời tiết
như: không khí lạnh kết hợp với dải thấp xích đạo, dải hội tụ nhiệt đới, bão hay áp
thấp nhiệt đới và đới gió đông trên cao hay các nhiễu động khác. Mực nước lũ
sông Hiếu (tại khu vực đất trũng nằm ở phía Bắc, phía Nam của sông Hiếu và khu
vực đồng bằng bị ngập lụt nằm ở phía Đông của Thành phố giữa Quốc lộ 1A và
sông Thạch Hãn) ứng với tần suất ngập được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.7. Mực nước lũ sông Hiếu
Tần suất lũ (%)

5

Mực nước (m)


4,58

10

20

30

4,12

3,45

3,0

Nguồn: Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Quảng Trị.
Nước sông Hiếu khá sạch, các chỉ tiêu vệ sinh hầu hết được đảm bảo: độ
khoáng hoá thấp, hàm lượng oxy hoà tan cao, hàm lượng chất hữu cơ, kim loại
nặng ... thấp. Độ cứng, độ kiềm bé, hàm lượng chất lơ lửng trong nước thấp. Các
loài động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu tương đối đa dạng và có mật độ khá
lớn, đáp ứng được nhu cầu khai thác thuỷ hải sản của ngư dân trong vùng và đảm
bảo được mức độ đa dạng sinh học khá cao.


22

Phần 4.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT ĐÁY Ở VÙNG HẠ LƯU
SÔNG HIẾU, TỈNH QUẢNG TRỊ

4.1.1. Danh lục thành phần loài
Qua quá trình nghiên cứu và phân tích, chúng tôi đã xác định được 43 loài
động vật đáy thuộc 28 giống, 16 họ và 5 lớp, phân bố trên 6 điểm thu mẫu thuộc
vùng hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Danh lục thành phần loài động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu
Stt
I
(1)
1
2
(2)
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
(3)
13
14
(4)
15
16
17
18
II

(5)
19
(6)
20
III

TÊN KHOA HỌC
LỚP GIÁP XÁC – CRUSTACEA
Họ Atyidae
Caridina acuticaudata Dang, 1975
Caridina serrata Stimpson, 1914
Họ Palaemonidae
Leandrites indicus Holthuis, 1950
Leptocarpus potamiscus (Kemp, 1917)
Macrobrachium vietnamense Dang, 1972
Macrobrachium equidens (Dana, 1852)
Macrobrachium nipponense (De Haan, 1849)
Palaemon mani Holthuis, 1950
Palaemon serrifer (Stimpson, 1860)
Palaemon semmelinkii (De Man, 1881)
Palaemon pacificus (Stimpson, 1860)
Palaemonetes tonkinensis (Sollaud, 1914)
Họ Potamidae
Orientalia rubra Dang et Tran, 1992
Potamicus cucphuongensis Dang, 1975
Họ Parathelphusidae
Siamthelphusa beauvoisi (Rathbun, 1902)
Somanniathelphusa dugasti Rathbun, 1902
Somanniathelphusa sinensis (Milne Edwards, 1853)
Somanniathelphusa germaini (Rathbun, 1902)

LỚP GIUN NHIỀU TƠ – POLYCHAETA
Họ Nereidae
Namalycastis longicirris Takahasa, 1933
Họ Nephthydidae
Nephthys polybranchia Southern, 1921
LỚP GIUN ÍT TƠ - OLIGOCHAETA

TÊN VIỆT NAM
(nếu có)
Tôm riu
Tôm ruốc
Tép muối
Tôm càng ký phú
Tôm trứng, tép bàn
Tôm càng
Tép gai
Tôm chuỷ dài
Tép giong
Cua đỏ
Cua cúc phương
Cua sông
Cua đồng
Cua đồng
Giun nhiều tơ


23
(7)
21
22

(8)
23
IV
(9)
24
(10)
25
26
27
28
29
30
(11)
31
(12)
32
(13)
33
34
35
V
(14)
36
(15)
37
38
39
40
41
42

(16)
43
Tổng

Họ Aelosomatidae
Aeolosoma bengalense Stephenson, 1923
Aeolosoma travancorense Naidu, 1961
Họ Naididae
Branchiodrilus semperi Naidu, 1962
LỚP CHÂN BỤNG - GASTROPODA
Họ Pachychilidae
Semisulcospira aubryana Bavay et Dautzenberg, 1910
Họ Thiaridae
Antimelania costula Habe, 1964
Antimelania siamensis Bavay et Dautzenberg, 1910
Melania scabra Brot, 1874
Melanoides tuberculatus Habe, 1964
Stenomelania reevei Brot, 1874
Sermyla tornatella Yen, 1939
Họ Fluminicolidae
Lithoglyphopsis tonkinianus Bavay et Dautzenberg, 1990
Họ Fairbankiidae
Fluviocingula elongata Dang, 1967
Họ Planorbidae
Gyraulus convexiusculus Abbott, 1939
Hippeutis umbilicalis Habe, 1964
Polypylis hemisphaerula Yen, 1939
LỚP HAI MẢNH VỎ - BIVALVIA
Họ Pisidiidae
Afropisidium clarkeanum Prashad, 1925

Họ Corbiculidae
Corbicula lamarckiana Prime, 1864
Corbicula luteola Prashad, 1929
Corbicula baudoni Morlet, 1886
Corbicula cyreniformis Prashad, 1929
Corbicula tenuis Prashad, 1929
Corbicula blandiana Prashad, 1929
Họ Mytilidae
Limnoperna siamensis Morelet, 1866
43

Ốc quắn

Ốc tháp

Hến

Hến

Trong đó: lớp Giáp xác (Crustacea) có 18 loài thuộc 10 giống, 4 họ; lớp Giun
nhiều tơ (Polychaeta) có 2 loài thuộc 2 giống, 2 họ; lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) có 3
loài thuộc 2 giống, 2 họ; lớp Chân bụng (Gastropoda) có 12 loài thuộc 11 giống, 5
họ; lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 8 loài thuộc 3 giống, 3 họ.
4.1.2. Cấu trúc thành phần loài
Đã xác định được 43 loài động vật đáy thuộc 28 giống, 16 họ và 5 lớp
(bảng 4.2). Cấu trúc thành phần loài ở vùng hạ lưu sông Hiếu được thể hiện ở cấp
độ loài, giống, họ và lớp.


24

Bảng 4.2. Số lượng họ, giống, loài động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu
Lớp

Số họ

Số giống

Số loài

% Số loài

Crustacea

4

10

18

41,86

Polychaeta

2

2

2

4,65


Oligochaeta

2

2

3

6,98

Gastropoda

5

11

12

27,91

Bivalvia

3

3

8

18,60


16

28

43

100,00

Tổng

Về taxon bậc loài:
Lớp Giáp xác (Crustacea) chiếm ưu thế với 18 loài (chiếm 41,86%), tiếp
đến là lớp Chân bụng (Gastropoda) với 12 loài (chiếm 27,91%), lớp Hai mảnh vỏ
(Bivalvia) với 8 loài (chiếm 18,60%), lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) có 3 loài
(chiếm 6,98%) và thấp nhất là lớp Giun nhiều tơ (Polychaeta), với 2 loài (chiếm
4,65%) (hình 4.1).

Hình 4.1. Biểu đồ tỉ lệ % số loài trong các lớp động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu

Về taxon bậc họ:
Trong 16 họ động vật đáy thu nhận được, lớp Chân bụng (Gastropoda)
chiếm ưu thế với 5 họ (chiếm 31,25% tổng số họ), tiếp theo là lớp Giáp xác
(Crustacea) với 4 họ (chiếm 25%), lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) với 3 họ (chiếm


25
18,75%), và cuối cùng là 2 lớp: Giun nhiều tơ (Polychaeta), giun ít tơ
(Oligochaeta), mỗi lớp có 2 họ (chiếm 12,5%) (hình 4.2).


Hình 4.2. Biểu đồ tỉ lệ % số họ trong các lớp động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu

Về taxon bậc giống
Đa dạng nhất là lớp Chân bụng (Gastropoda) với 11 giống (chiếm 39,29%
tổng số giống), tiếp đến là lớp Giáp xác (Crustacea) với 10 giống (chiếm
35,71%), lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) với 3 giống (chiếm 10,71%) và thấp nhất là
2 lớp: Giun ít tơ (Oligochaeta) và Giun nhiều tơ (Polychaeta), mỗi lớp có 2 giống
(chiếm 7,14%) (hình 4.3).

Hình 4.3. Biểu đồ tỉ lệ % số giống trong các lớp động vật đáy ở vùng hạ lưu sông Hiếu
Bảng 4.3. Số lượng các lớp, họ, giống và loài động vật đáy ở hạ lưu sông Hiếu
Stt

Tên lớp

1

Crustacea

Số Tỷ lệ
Tên họ
loài %
18 41,86 Atyidae
Palaemonidae

Số Tỷ lệ
Tên giống
loài
%
2

4,65 Caridina
10 23,26 Palaemon
Leandrites
Leptocarpus
Macrobrachium

Số Tỷ lệ
loài %
2
4,65
4
9,30
1
2,33
1
2,33
3
6,98


×