KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong năm quốc gia có nhiều khả năng chịu tác động tiêu cực
lớn nhất từ biến đổi khí hậu và nước biển dâng [30]. BĐKH đã làm cho thiên tai,
đặc biệt là bão, lũ lụt, hạn hán ngày càng khốc liệt. Nhiệt độ tăng, mực nước biển
dâng gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi
ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai. Đứng
trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để ứng phó
với BĐKH. Theo các văn bản này, những vùng, khu vực có nguy cơ chịu tác
động lớn nhất của các hiện tượng thời tiết cực đoan là dải ven biển Trung Bộ,
Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. Những vùng
này hằng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập
mặn trong mùa khô.
Quảng Trị là tỉnh thuộc vùng Băc Trung Bộ, là nơi chịu ảnh hưởng nặng của
các hiện tượng BĐKH. Nhiệt độ trung bình của tháng I đã tăng lên 0,4 0C, tháng
VII tăng lên khoảng 0,20C và nhiệt độ trung bình năm tăng 0,30C so với trung
bình của giai đoạn 1976 – 2008. Lượng mưa trung bình vào mùa khô, mùa mưa
và tổng lượng mưa cả năm đã tăng trong 33 năm qua lần lượt tương ứng là 1,02
mm, 5,61 mm và 34,49 mm. Lượng mưa giảm rõ rệt vào tháng VI. Vào mùa
mưa, thời gian mưa rút ngắn và tập trung trong một thời gian ngắn. Các loại thời
tiết cực đoan như: bão, lũ lụt, hạn hán, rét, giông, sét tăng cả về số lượng, cường
độ và tính thất thường trong 10 năm gần đây (Võ Chí Tiến, 2009).
Nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của tỉnh Quảng Trị. Ngành nông nghiệp thu hút khoảng 51,8% lao động trong
toàn tỉnh, đóng góp 25 – 27% GDP của tỉnh (UBND tỉnh Quảng Trị, sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn, 2010). Nhưng sản xuất nông nghiệp cũng là
ngành dễ bị tổn thương nhất dưới tác động của BĐKH và các hiện tượng thời tiết
cực đoan. Để tìm hiểu ảnh hưởng của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp chúng tôi
tiến hành nghiên cứu: “Ảnh hưởng của BĐKH sản xuất nông nghiệp vùng ven
biển tỉnh Quảng Trị”.
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
Phần 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI NIỆM VỀ THIÊN TAI VÀ BĐKH
Thời tiết là trạng thái khí quyển tại một địa điểm nhất định được xác định
bằng tổ hợp các yếu tố: Nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa [29].
Khí hậu thường được định nghĩa là trung bình theo thời gian của thời tiết
(thường là 30 năm) [29].
BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động
của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc
dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động
bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí
quyển. Bao gồm cả trong khai thác sử dụng đất [29].
Ứng phó với BĐKH (Response/Coping) là các hoạt động của con người nhằm
thích ứng và giảm nhẹ các tác nhân gây ra BĐKH [29].
Thích nghi/Thích ứng/Thích hợp với BĐKH (Adaptation) là sự điều chỉnh hệ
thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi,
nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn thương do BĐKH và tận dụng các cơ hội
do nó mang lại [29].
Giảm nhẹ BĐKH (Mitigation) là các hoạt động nhằm giảm mức độ hoặc
cường độ phát thải KNK [29].
Tính tổn thương/Khả năng bị tổn thương (Vulnerability) do tác động của
BĐKH là mức độ mà một hệ thống (tự nhiên, KT-XH) có thể bị tổn thương do
BĐKH, hoặc không có khả năng thích ứng với tác động bất lợi của BĐKH [29].
Kịch bản BĐKH là giả định có cơ sở khoa học về sự tiến triển trong tương
lai của các mối quan hệ giữa KT-XH, phát thải KNK, BĐKH và mực nước
biển dâng. Lưu ý rằng, kịch bản BĐKH khác với dự báo thời tiết và dự báo
khí hậu nó chỉ đưa ra quan điểm về mối ràng buộc giữa phát triển KT-XH, hệ
thống khí hậu [29].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
3
Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó
không bao gồm triều, nước dâng do bão,.. Nước biển dâng tại một vị trí nào đó
có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về
nhiệt độ của đại dương và các yếu tố khác [29].
Hoạt động ưu tiên là những hoạt động cấp bách mà nếu trì hoãn thực hiện se
làm gia tăng tính DBTT hoặc se tiêu tốn nhiều chi phí hơn về sau này [29].
Tích hợp (hay lồng ghép, kết hợp, hoà hợp) vấn đề BĐKH vào các kế hoạch
phát triển (Mainsteaming/Integration) là hoạt động điều chỉnh, bổ sung kế hoạch
phát triển, bao gồm chủ trương, chính sách, cơ chế, tổ chức có liên quan đến việc
thực hiện kế hoạch phát triển, các nhiệm vụ và sản phẩm của kế hoạch cũng như
các phương tiện, điều kiện thực hiện kế hoạch phát triển cho phù hợp với xu thế
BĐKH, các hiện tượng khí hậu cực đoan và những tác động trước mắt và lâu dài
của chúng đối với kế hoạch phát triển [29].
Đánh giá tác động do BĐKH là nghiên cứu xác định các ảnh hưởng của
BĐKH lên môi trường và các hoạt động KT-XH của địa phương. Ngoài các ảnh
hưởng bất lợi còn có thể có các ảnh hưởng có lợi. Đánh giá tác động của BĐKH
cũng bao gồm việc xác định và đánh giá các giải pháp thích ứng với BĐKH [29].
Đánh giá tổn thương do BĐKH là đánh giá mức độ dễ bị ảnh hưởng của các
đối tượng (các cộng đồng, khu vực, nhóm người) dưới tác động của BĐKH. Mức
độ DBTT của một đối tượng không chỉ phụ thuộc vào bản chất của BĐKH mà
còn phụ thuộc vào khả năng thích ứng của đối tượng đó. Kết quả đánh giá tổn
thương có thể được thể hiện trên ma trận hoặc các bản đồ tổn thương chỉ ra các
vùng/khu vực và nhóm dân cư có khả năng DBTT cao do BĐKH [29].
1.2. BIỂU HIỆN CỦA BĐKH, NƯỚC BIỂN DÂNG
BĐKH, với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển
dâng, chủ yếu là do các hoạt động KT-XH của con người gây phát thải quá mức
vào khí quyển các khí gây HƯNK. Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC
năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng khoảng 0,74 0C trong thời kỳ
1906 - 2005 và tốc độ tăng của nhiệt độ trong 50 năm gần đây gần gấp đôi so với
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
4
50 năm trước đó (Hình 1.1.). Nhiệt độ trên lục địa tăng nhanh hơn so với trên đại
dương [2], [3], [30]
Hình 1.1. Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình toàn cầu
Nguồn: IPCC, 2007
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn
300. Song, lượng mưa lại có xu hướng giảm ở khu vực nhiệt đới từ giữa những
năm 1970. Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực trên thế giới
[2], [3], [30].
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày càng cao
(hình 1.2). Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giãn nở nhiệt
của đại dương và sự tan băng.
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
5
Hình 1.2. Diễn biến của mực nước biển trung bình toàn cầu
Nguồn: IPCC, 2007
Số liệu quan trắc mực nước biển trong thời kỳ 1961- 2003 cho thấy tốc độ
tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm, trong đó
đóng góp do giãn nở nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm/năm và tan băng khoảng 0,70
± 0,50 mm/năm [2], [3], [30].
Số liệu đo đạc từ vệ tinh TOPEX/POSEIDON trong giai đoạn 1993 - 2003
cho thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu là 3,1 ± 0,7mm/năm,
nhanh hơn đáng kể so với thời kỳ 1961 - 2003 [2], [3], [30].
Ở Việt Nam, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến đổi của các
yếu tố khí hậu và mực nước biển có những điểm đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ: Trong 50 năm qua (1958 - 2007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt
Nam tăng lên khoảng từ 0,50C - 0,70C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt
độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng
khí hậu phía Nam (hình 1.3a) [2], [3].
- Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình
năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên
các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Lượng
mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
6
Nam (hình 1.3b). Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm
qua (1958-2007) đã giảm khoảng 2% [2], [3].
- Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ
rệt trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất hiện
mà gần đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong
tháng 1 - II năm 2008 ở Bắc Bộ [2], [3].
- Bão: Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ
đạo bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía nam và mùa bão kết thúc muộn
hơn, nhiều cơn bão có đường đi dị thường hơn [1[, [2], [3].
- Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần từ thập kỷ
1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây [7].
- Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt
Nam cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện
nay là khoảng 3mm/năm (giai đoạn 1993-2008), tương đương với tốc độ tăng
trung bình trên thế giới. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển (hình 1.4.) tại
Trạm hải văn Hòn Đáu dâng lên khoảng 20 cm [2], [3].
a
b
Hình 1.3. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) của Việt Nam trong 50 năm qua ,
Nguồn: Kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam. Bộ TN&MT, 2009
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
7
Hình 1.4. Diễn biến của mực nước biển tại trảm thủy văn Hòn Đáu
Nguồn: Kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam. Bộ TN&MT, 2009
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BĐKH TRÊN THẾ GIỚI
Vào những năm 1998 – 2003 Subbiah và cs thuộc Trung tâm sẵn sàng ứng
phó với thiên tai châu Á (ADPC) đã nghiên cứu và ứng dụng một số thông tin về
khí hậu để giảm thiểu các rủi ro thiên tai. Hệ thống thông tin này bao gồm một
chu trình liên tục của hệ dự báo sự phổ biến, sự áp dụng và đánh giá. Nhờ hệ
thống này mà người dân các huyện Kupang, Nusan Tenggara Timur và
Indramayu (Indonesia) có thể ứng phó, thích ứng được các hiện tượng thời tiết
khắc nghiệt.Họ có thể thay đổi cơ cấu cây trồng và mùa vụ cho phù hợp với điều
kiện biến đổi của thời tiết, khí hậu. khi đạt được kết quả tốt thì Chính phủ, Quốc
hội của Indonesia đầu tư kinh phí để nhân rộng hệ thống thông tin về khí hậu để
giảm thiểu các rủi ro thiên tai này [10].
Năm 1998, Macleod trong dự án: “Chuẩn bị và giảm lũ lụt dựa vào cộng đồng
ở Campuchia (CBFMP)”. Mục tiêu của chương trình được thiết lập bền vững cơ
chế phi chính phủ cho giảm nhẹ thiên tai và sẵn sàng ứng phó với lũ lụt. Dự án
này được thực hiện trong 3 tỉnh thường xuyên ngập lũ là Kompong Cham, Prey
Veng và Kandai trên 2 lưu vực sông chính của Campuchia là Mekong và Tonle
Sap, các giải pháp thích ưngas bao gồm: (1) Trao quyền cho cộng đồng để phát
triển các giải pháp phát triển giảm nhẹ lũ lụt. (2) Cung cấp cho cộng đồng với
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
8
một mức độ an toàn từ các thảm họa thiên nhiên. (3) Đào tạo tình nguyện viên
trong lòng địa phương bằng các khái niệm và kỹ thuật chuẩn bị sẵn sàng ứng phó
thiên tai. (4) Thành lập Ủy ban thiên tai trong làng để tham gia vào quá trình thực
hiện các giải pháp để giảm nhẹ các tác động của thiên tai cho cộng đồng của họ.
(5) Huy động các quỹ để xây dựng các cơ sở hạ tầng chuẩn bị ứng phó với thiên
tai [35].
Peter và Rober (2001) trong báo cáo: “Dự báo khí hậu và ứng dụng ở
Bangladesh (CFAB): hội thảo tham vấn quốc gia”. Các tác giả đã ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc cảnh báo thiên tai sớm từ 48 – 72 giờ, có thể nâng mức
cảnh báo sớm lên 2 tháng đối với lịch thời vụ và do đó bà con nông dân có thể
gieo trồng và thu hoạch trước khi mùa mưa bão xuất hiện. Ngoài ra, họ còn có
thể dự báo sớm trong khoảng 5 – 15 ngày để bà con nông dân có thể di tán,
chuẩn bị lương thực, thực phẩm, kê cao tài sản trong nhà, di chuyển các động vật
nuôi, gia súc gia cầm lên các địa điểm cao hơn. Sự cảnh báo sớm từ 5 – 15 ngày
se không được áp dụng đối với các trường hợp sau: (1) thúc đẩy việc thu hoạch
mùa màng khi bị đe dọa bởi lũ lụt. (2) thiết lập lại lịch thời vụ và trì hoãn sự phát
triển của hạt giống trong trường hợp nước ngập sâu. (3)thực hiện điều chỉnh vào
giữa mùa vụ và các biện pháp gieo trồng, các giống cây trồng ở bất cứ nơi nào có
thể. (4) nâng cao nhà tạm ở để lưu trữ các loại lương thực thực phẩm trên mức lũ
tối đa. (5)bảo vệ tài sản như vật nuôi trang trại nông nghiệp thiết yếu. [34].
Tim Sina và Cannor (2001) trong tác phẩm:” đánh giá và quản lý hệ thống
gạo - lúa mỳ: vấn đề và thách thức”. các tác giả đã nghiên cứu việc thích ứng ới
BĐKH, tức là phản xạ của người nông dân áp dụng với các lượng mưa thay đổi
(họ thay đổi mùa vụ hoặc sử dụng các loại cây có thời gian sinh trưởng và thu
hoạch khác nhau). Phân tích về trồng trọt đã cho thấy sự giảm đáng kể tác động
của BĐKH khi có chiến lược thích ứng toàn diện [17].
Bidan (2003) đã viết tác phẩm “Quản lý thiên tai ở Đông Nam Á một cách
nhìn tổng quan”. Đây là tài liệu nghiên cứu các hiểm họa, cơ chế quản lý thiên tai
của một số nước DBTT là Campuchia, Lào, Philippin, Indonesia, Việt nam. Cả
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
9
hai Chính phủ và xã hội dân sự của Campuchia và Indonesia phải thực hiện hành
động lãnh đạo trong quản lý các thảm họa có nguy cơ bằng việc kết hợp, xem xét
việc quản lý rủi ro và thường xuyên ra quyết định, xây dựng các liên minh và
quan hệ đối tác, khai thác các sáng kiến của các nhóm cộng đồng địa phương.
Điều cần biết bao gồm: (1) Một cộng đồng có sự hiểu biết. (2) một cơ quan tích
hợp. (3) Đáp ứng lại việc cung cấp thông tin về các mối nguy hiểm. (4) Những
chương chương trình đối tác. (5) Một văn hóa của sự an toàn và sự hướng dẫn
phòng ngừa, ứng phó với những hiểm họa trở thành các thảm họa [26].
Năm 2004, Ban thư ký sông Mekong (MRCS) xuất bản: “Tiếp cận nâng cao
nhận thức cộng đồng để giảm thiểu lũ lụt ở Campuchia”. Họ đã xây dựng hai
chiến lược khác nhau nhằm nâng cao nhận thức về nguy cơ lũ lụt: Một là chiến
dịch nâng cao nhận thức đối với đại chúng. Hai là chiến dịch cụ thể hơn nhằm
mục tiêu phân đoạn các đối tượng DBTT của cộng đồng dân cư bao gồm trẻ em
và phụ nữ chủ hộ. Các chiến lược này được sử dụng trong việc thực hiện các
cuộc vận động ở các vùng có nguy cơ ngập lụt cao, liên quan đến các cách tiếp
cận, việc sử dụng các tài liệu hiện có, thích nghi với bối cảnh địa phương, xây
dựng năng lực địa phương để nhân rộng trong tương lai và chia se kiến thức. Đây
là bộ kít thông tin lũ lụt dành cho nhóm DBTT là giáo viên và học sinh (ghi rõ
thiết kế kỹ thuật để cung cấp cho giáo viên và giáo dục cho học sinh với các
thông tin, công cụ để phổ biến các kiến thức về an toàn lũ lụt). Bộ kít thông tin lũ
lụt bao gồm: (1) Một tập sách bàn về lũ lụt, giảm nguy cơ lũ lụt. (2) Một tập sách
về cảnh báo sớm cộng đồng lũ lụt. (3) một tập sách liên quan: “Sống chung với
lũ” thông tin thiết lập (CD và Video). (4) Một tập sách “Vấn đề sức khỏe trong
thời gian lũ lụt” [7].
Burton và Lim (2005) trong nghiên cứu: “Đạt được sự thích ứng đầy đủ trong
nông nghiệp”. Các tác giả đã nghiên cứu sự thích ứng với BĐKH bằng những
thay đổi ngắn hạn trong SXNN. hai ông đã lựa chọn cây trồng và phương pháp
trồng trọt linh hoạt để giảm tình trạng áp lực cao (ví dụ: nhiệt độ cao, hạn hán, lũ
lụt, nhiễm mặn và dịch bệnh) cho phép vừa thay đôi gene mới với các giống cây
mới, vừa phát triển các cây ở địa phương có khả năng chống chịu tốt, năng suất
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
10
ổn định từ trước cho tới nay, nếu các chương trình quốc gia có khả năng hỗ trợ
việc thực hiện [7].
Eastr linr (2007) trong nghiên cứu: “Thực phẩm chất sơ và các sản phẩm lâm
sản, trong BĐKH 2007”. Ông đã nghiên cứu các biện pháp thích ứng dựa trên (1)
Sự lựa chọn các chính sách có chủ biến. (2) các chiến lược thích ứng đa lĩnh vực
trong tự nhiên nhằm điều chỉnh khả năng thích ứng của hệ thống nông nghiệp. (3)
Các thích ứng nhanh, bao hàm cả việc lựa chọn giống cây trồng phù hợp, phân chia
lại vùng khí hậu nông nghiệp và thay thế cây trồng cũ bằng cây trồng mới [10].
Rất nhiều nghiên cứu khác của Parry, 2002; Droogers, 2004; Lin, 2004;
Vleck, 2004; Wany, 2004; Zalikhanov, 2004; Lah, 2007; Batina, 2005 về tác
động của BĐKH tới nông nghiệp, đưa ra một biện pháp thích ứng với thiên tai
trong bối cảnh BĐKH ở Srilanka, Trung Quốc, Philippin, Nga và hầu hết đã được
xuất bản. Các biện pháp thích ứng phổ biến được đề cập ở những nghiên cứu này
và được tóm tắt trong (bảng phụ lục 3.1).
Nhìn chung những biện pháp này đã làm tăng thêm các khả năng thích ứng
bằng các hành động làm giảm nhẹ thiên tai cho nông nghiệp như: Cải tiến mùa
màng, vật nuôi từ cây giống, con giống bằng hệ thống các thiết bị khoa học kỹ
thuật và cơ sở hạ tầng [10].
Năm 2008, Chính phủ Bangladesh đã chủ động trong việc quản lý thiên tai
trong tác phẩm: “tăng cường sự đoàn kết cộng đồng thông qua năng lực và sự
hình thành các tôt chức quản lý dựa vào cộng đồng nghiên cứa này cho biết được
như thế nào là quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng (CBDM) bắng cách góp phần
tăng cường sự đoàn kết, nâng cao năng lực ứng phó, thích ứng của phụ nữ phối
hợp thống nhất với CQĐP trong việc thực hiện trách nhiệm của mình để có thể
đối phó với thiên tai. Nghiên cứu này được tiến hành ở mười cộng đông ở bốn
huyện Kalmonirhat, Kurigram, Siraigonj và Tagail [7].
Năm 2009, nghiên cứu: “Đông Nam Á và những hòn đảo ở Thái Bình Dương:
Ảnh hưởng của BĐKH đến năm 2030”, đã xác định và tóm tắc các nghiên cứu
mới nhất, đánh giá của các chuyên gia liên quan đến tính DBTT do tác động của
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
11
BĐKH. Những tác động của BĐKH như mực nước biển dâng, nhu cầu cấp nước,
thay đổi nông nghiệp, sự gián đoạn và các loài tuyệt chủng trong hệ sinh thái, cơ
sở hạ tầng có nguy cơ bị rủi ro rừ các sự kiện thời tiết khắc nghiệt (Mức độ
nghiêm trọng và các tầng số), là các mẫu bệnh, khung thời gian của phân tích này
kéo dài qua năm 2030. Mặc dù các nghiên cứu khác nhau tham chiếu trong báo
cáo này có khung thời gian đa dạng và mở rộng thông qua thế kỷ XXI [7].
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BĐKH TẠI VIỆT NAM
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB, 1994) đã xếp Việt Nam trong nhóm có
nguy cơ tổn thương cao do tác động của BĐKH và nước biển dâng. Hiệp định
khung về BĐKH của Liên hợp quốc đã dẫn thông báo đầu tiên của Việt Nam cho
biết, trong suốt 30 năm qua, mực nước biển quan trắc dọc theo bờ biển Việt Nam
có dấu hiệu gia tăng. Bộ Tài nguyên Môi trường ước tính đến năm 2050 mực
nước biển se gia tăng thêm 33 cm và đến năm 2100 se tăng thêm 1 m. Với nguy
cơ này, Việt Nam se chịu tốn thất mỗi năm chừng 17 tỉ USD (chiếm 80% GDP)
[7], [10].
Năm 2002, Trung tâm nghiên cứu và hợp tác quốc tế Canada (CECI) đã công
bố công trình nghiên cứu của mình về việc xây dựng năng lực thích ứng với
BĐKH ở Miền Trung Việt Nam (2002 – 2f005). Công trình nghiên cứu này nhằm
cũng cố năng lực để thiết lập, xây dựng các chiến lước thích ứng cho cộng đồng
thông qua việc ứng phó với thiên tai, lồng ghép việc phòng và giảm thiểu rủi ro,
thiệt hại vào kế hoạch phát triển của địa phương [4].
Năm 2003, dự án: “xây dựng năng lực thích ứng với BĐKH ở Việt Nam”
(CACC) phối hợp với trạm nghiên cứu quản lý tài nguyên và môi trường đầm
phá (SLARMES) đã thực hiện khảo sát, đánh giá tính DBTT do thiên tai ở hai
huyện Quảng Điền và Phú Vang. Mục đích của dự án CACC là tăng cường năng
lực lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược thích ứng với thiên tai dựa vào cộng
đồng thông qua sự chuẩn bị ứng phó với thiên tai, tích hợp giảm thiểu rủi ro và
giảm nhẹ ở các kế hoạch phát triển của địa phương. Báo cáo này cung cấp một số
thông tin sở bộ về ảnh hưởng của BĐKH, các loại thiên tai trên cộng đồng địa
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
12
phương của hai huyện Quảng Điền và Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế, các biện
pháp phòng ngừa và thích ứng của họ [7].
Năm 2003, Dưới sự tài trợ của GEF/UNDP, Viện KTTV, Bộ TNMT đã đưa ra
“Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho công ước khung của Liên Hợp Quốc về
BĐKH”. Công ước khung này đã thông báo tình hình rác thải khí nhà kín của
VIệt Nam trong năm 1994, nêu lên được những tác động tiểm tàn của BĐKH và
những biện pháp thích ứng của các ngành KT–XH của Việt Nam như tài nguyên
nước, nông nghiệp, thủy sản, năng lượng, GTVT và sức khỏe con người [1].
Lê Văn Thăng (2004) đã nghiên cứu về ảnh hưởng BĐKH toàn cầu lên tỉnh
Thừa Thiên Huế tác đã nêu ra nguyên nhân, ảnh hưởng của BĐKH đến tự nhiên và
con người tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau đó đã đề xuất một số giải pháp thích ứng mang
tính địa phương như: Đối với chính quyền địa phương, đối với các ngành kinh tế,
đối với cộng đồng, đối với các tổ chức nghiên cứu quốc tế và quốc gia [22].
Lâm Thị Thu Sửu (2005) đã công bố báo cáo kết quả nghiên cứu phân tích
sinh kế có sự tham gia của cộng đồng tại xã Vinh Hà – Huyện Phú Vang – Tỉnh
Thừa Thiên Huế. Trong báo cáo này các kết quả tập trung vào sinh kế của người
dân, các nguồn lực xã hội, các nguồn tài nguyên ở xã Vinh Hà. Tuy nhiên, nghiên
cứu này lại không đề cập đến về sự thay đổi của thiên tai, thời tiết trong bối cảnh
biến đổi khí hậu hiện nay [18].
Roger và cs (2006) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa thích ứng với BĐKH,
quản lý rủi ro thiên tai và giảm nghèo ở Việt Nam. Trong báo cáo (Liến kết
BĐKH và quản lý rủi ro thiên tai cho sự giảm nghèo bền vững quốc gia Việt
Nam). Báo cáo đã xét đến nguy cơ của BĐKH, thiên tai và các động tiềm năng
của BĐKH; cách tiếp cận trong quản lý rủi ro thiên tai, cách cận trong thích ứng
với BĐKH; Nghiên cứu điển hình ở Nam Định [7].
Năm 2007, Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC) qua phân tích và phỏng
đoán các tác động của nước biển dâng đã công nhận ba vùng châu thổ được xếp
trong nhóm cực kỳ nguy cơ do sự BĐKH là vùng hạ lưu sông MeKng (Việt
Nam), sông Ganges Brahmaputra (Bangladesh) và sông Nile (Ai Cập). Chương
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
13
trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP, 2007) đã đánh giá “Khi nước biển
dâng lên 1m, Việt Nam se mất 5% diện tích đất đai, 11% người dân mất nhà cửa,
giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% GDP [30], [32], [34], [36].
Nguyễn Hữu Ninh (2007) dựa vào số liệu hiện có, tác giả đã tổng quan về
BĐKH ở ĐBSCL trong báo cáo (lũ lụt ở ĐBSCL). Báo cáo đã tống quan các vấn
đề như: BĐKH và lũ lụt; Hiện trạng quản lý thiên tai và thích ứng với BĐKH;
Báo cáo có nhận xét là về lâu dài BĐKH se tác động chế độ thủy văn và KT–XH
của ĐBSCL. Mặc dù ĐBSCL giàu về tài nguyên và tiềm năng phát triển nhưng
nghèo đói ở khu vực này là rào cản lớn nhất trong thích ứng với BĐKH. Các lĩnh
vực DBTT nhất là nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp [31].
Trân Thục và cs (2008) đã tổng quan được các tác động của BĐKH đến nông
nghiệp, công ngiệp, nghề cá, dịch vụ,…và đưa ra chi phí phục hồi do BĐKH
mang lại, đồng thời các tác giả đã đánh gia và đưa ra nhiều giải pháp thích ứng
về tự nhiên, các ngành nghề, chính sách, chương trình, kế hoạch KT-XH và gắn
sự thích ứng đó vào các mục tiêu quốc gia, các chương trình trọng điểm để phát
triển bền vững [24].
Lê Văn Thăng và cs (2009) đưa ra báo cáo với chủ đề: “Nhận thức về BĐKH
và các giải pháp ứng phó của cộng đồng ở xã Hương Phong huyện Hương Trà và
xã Quảng Thành huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế”. Nhìn chung các kết
quả nghiên cứu của tác giả mới dừng lại ở mô tả và thống kê những hiểu biết về
BĐKH của CQĐP, còn các giải pháp thích ứng chỉ mang tính hiện tại tức thời
chứ chưa tính đến các giải pháp thích ứng của BĐKH trong tương lai [23].
Lê Anh Tuấn (2009) đã đưa ra báo cáo: “Tổng quan về nghiên cứu BĐKH và
các hoạt động thích ứng ở miền Nam Việt Nam”. Trong bảng báo cáo này, tác giả
đã lược thảo các nghiên cứu về các nguy cơ và thách thức của BĐKH với miền
Nam nói riêng và Việt Nam nói chung. Sau đó đưa ra các hoạt động nghiên cứu
thích ứng của chính quyền, các viện nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức
xã hội và người dân địa phương [27].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
14
Lâm Thị Thu Sửu và cs (2010) đã công bố kết quả nghiên cứu với đề tài:
“Thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng lưu vực sông Hương tỉnh Thừa Thiên
Huế”. Đề tài đã nêu được các đặc điểm địa lý KT-XH; sử dụng và quản lý tài
nguyên nước ở lưu vực sông Hương; Đưa ra các phương pháp nghiên cứu dựa
vào cộng đồng (PRA, RRA, thảo luận nhóm tập trung…); Một số kết quả nghiên
cứu về nhận thức của người dân về BĐKH, sự thích ứng với BĐKH ở hiện tại và
tương lai, các tác động có thể xảy ra do BĐKH, sử dụng và quản lý tài nguyên
nước. Các kết quả nghiên cứu được thực hiện ở ba địa hình khác nhau của lưu
vực sông Hương là xã Hương Lộc huyện Nam Đông, phường Thủy Biều thành
phố Huế và xã Hải Dương huyện Hương Trà [19].
1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BĐKH TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ
Quảng Trị là một trong những địa phương của nước ta chịu nhiều ảnh hưởng
do BĐKH gây ra. Trong những thập niên gần đầy, tác động của BĐKH lên địa
bàn tỉnh Quảng Trị càng trở nên khóc liệt và sâu sắc nhất là đối với lĩnh vực
nông nghiệp. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như: Bão, lũ lụt, hạn hán, rét, áp
thấp nhiệt đới, nhiễm mặn thường xuyên xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Trị với
tần suất và cường độ ngày càng tăng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây chúng
xảy ra ngày càng thất thường khó dự báo, dự đoán trước gây khó khăn cho
chính quyền và người dân trong việc ứng phó và đề ra các giải pháp thích ứng
nên tổn thất do BĐKH gây ra rất lớn. Chính vì thế, Quảng Trị đã trở thành tiêu
điểm thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cá nhâ, tổ chức, nhà khoa học
trong và ngoài nước nhằm tìm ra những nhóm giải pháp thích ứng với BĐKH
một cách tối ưu.
Võ Chí Tiến và cs (2009) đã nghiên cứu: “Biểu hiện của BĐKH ở vùng cát
ven biển tỉnh Quảng Trị”. Kết quả đã mô tả được những biểu hiện của BĐKH
diễn ra trên vùng cát ven biển của tỉnh Quảng Trị trong thời gian từ 1976 – 2008
và làm rõ được những khuynh hướng của BĐKH có thể xảy ra trong tương lai tại
địa bàn nghiên cứu. Đồng thời, các tác giả cũng đa nêu ra được những hiện tượng
thời tiết cực đoan xảy ra địa bàn tỉnh trong khoảng thời gian từ 1976 – 2008 [8].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
15
Lê Thị Hoa Sen và cs (2009) đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phân tích
chính sách nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị dưới gốc độ ứng phó với BĐKH”.
Thông qua đề tài này, nhóm nghiên cứu đã: Tìm hiểu các chính sách phát triển
trồng trọt của tỉnh Quảng Trị dưới gốc độ ứng phó với BĐKH; Tìm hiểu chính
sách phát triển chăn nuôi của tỉnh Quảng Trị dưới gốc độ ứng phó với BĐKH;
Tìm hiểu chính sách phát triển NTTS của tỉnh Quảng Trị dưới gốc độ ứng phó
với BĐKH [14].
Hoàng Thị Thái Hòa và cs (2009) thực hiện công trình nghiên cứu với đề tài:
“Nghiên cứu có sự tham gia về kinh nghiệm thực tiễn của người dân trong cải tạo
đất cát để thích ứng với BĐKH tại tỉnh Quảng Trị”. Đề tài đã góp phần: Phát hiện
và tư liệu hóa các kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến cải tạo đất cát
trong SXNN; Tìm hiểu và đánh giá cơ chế chia se kinh nghiệm thực tiễn về cải
tạo đất cát và khả năng sản xuất thích ứng ở những vùng đất cát bạc màu; Đánh
giá hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường của các kinh nghiệm thực tiễn phổ biến
về cải tạo đất cát của người dân địa phương [6].
Lê Thị Hoa Sen và cs (2009) cùng nhau tìm hiểu những tác động của thời tiết
cực đoan do BĐKH gây ra với đề tài: “Hạn hán và thích ứng của người dân tại xã
Triệu Vân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng trị, Việt nam”. Nghiên cứu này chỉ ra
các xu hướng của hạn hán, tác động của nó đến SXNN và thích ứng của người
dân trong vùng cát xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị [15].
Nguyễn Văn Thành và cs (2009) đã có một công trình nghiên cứu độc đáo và
đưa đến một giải pháp mới mang tính thực tiễn cao qua đề tài: “Hiệu quả mô
hình trồng rau trong nhà lưới theo hướng an toàn, trái vụ và thích ứng với BĐKH
ở Quảng Trị”. Đề tài đã giúp chúng ta xác định được hiệu quả của mô hình trồng
rau trong nhà lưới theo hướng an toàn, trái vụ và thích ứng với BĐKH, có hiệu
quả nhất để nhân rộng mô hình ra các địa phương có điều kiện sinh thái tương tự.
Bên cạnh đó là việc nâng cao khả năng ứng phó của cộng đồng với BĐKH, thông
qua việc cải thiện sinh kế, áp dụng biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất tại
địa phương [21].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
16
Lê Thị Hoa Sen và cs (2010) đã dựa trên cơ sở các công trình nghiên cứu
trước tiến hành nghiên cứu: “Kiến thức bản địa và kinh nghiệm của người dân
thích ứng với hạn hán trong SXNN ở vùng cát nội đồng và ven biển tỉnh Quảng
trị”. Nghiên cứu này đã phân tích các tác động của hạn hán đến SXNN ở địa bàn
nghiên cứu, Phát hiện và tư liệu hóa các kiến thức bản địa và kinh nghiệm thích
ứng với hạn hán trong SXNN đang được áp dụng. Phân tích khả năng vận dụng
kiến thức bản địa của người dân để thích ứng với hạn hán trong SXNN. Đề xuất
giải pháp có tính khả thi và mô hình thử nghiệm thích ứng với hạn hán trong
SXNN [17].
Võ Chí Tiến và cs (2010) cho rằng sản xuất nông nghiệp là ngành DBTT nhất
dưới tác động của BĐKH và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Qua đó, các tác
giả đã tiến hành nghiên cứu: “Tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp tại
vùng cát ven biển tỉnh Quảng Trị”, nghiên cứu trường hợp tại các xã Triệu Giang
và Triệu Vân, huyện Triệu Phong và xã Hải Quế, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng
Trị. Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả đã đi sâu tìm hiểu và phân tích các
tác động của hiện tượng thời tiết cực đoan đối với sản xuất nông nghiệp; Các rủi
ro của BĐKH đối với sản xuất nông nghiệp trong tương lai; Tìm hiểu nhóm cộng
đồng DBTT nhất dưới tác động của BĐKH [25].
Võ Chí Tiến và cs (2010) đã cùng nhau nghiên cứu đề tài: “Kiến thức bản địa
và kinh nghiệm thực tiễn của người dân ứng phó với nhiễm mặn trong SXNN ở
tỉnh Quảng Trị”. Đề tài nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng tác động của nhiễm mặn
và tư liệu hóa những kinh nghiệm trong nhận biết và ứng phó với nhiễm mặn của
người dân tỉnh Quảng Trị trong SXNN. Kết quả cho thấy mức độ nhiễm mặn và tỷ
lệ đát nhiễm mặn ở vùng ven sông cao hơn so với vùng cát ven biển [26].
Lê Thị Hoa Sen và cs (2010) tiến hành nghiên cứu: “Các hình thức thích ứng
với BĐKH trong SXNN vùng cát ven biển và cát nội đồng tỉnh Quảng Trị”.
Nghiên cứu đã đề cập đến việc để giảm thiệt hại do BĐKH, người dân địa
phương cần có các chiến lược thích ứng trong các hoạt động tạo thu nhập. Tuy
nhiên, các hình thức thích ứng hiện nay hầu hết mang tính tự phát và chưa được
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
17
người dân áp dụng rộng rãi. Vì vậy, nghiên cứu được tiến hành tại 3 xã vùng cát
bao gồm xã Hải Quế, huyện Hải Lăng, xã Triệu Vân và Triệu Giang, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị với mục đích: Phát hiện và tư liệu hóa các hình thức thích
ứng đang được áp dụng; Tìm hiểu hình thức thích ứng tiềm năng chưa được
người dân sử dụng rộng rãi; Đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng thích ứng
cho người dân trong SXNN [16].
Nguyễn Thị Diệu Phương và cs (2010) tập trung vào việc phân tích các chính
sách ứng phó với BĐKH đối với NTTS. Các tác giả đã nghiên cứu: “Đánh giá
các bên liên quan về sự suy giảm nguồn lợi thủy sản và cải thiện chính sách ứng
phó với BĐKH ở tỉnh Quảng Trị”. Nhóm nghiên cứu đã: Tìm hiểu hiện trạng và
mức độ khai thác thủy sản vùng cao; Tìm hiểu các khó khăn và mối nguy đang
đe dọa đến nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Trị; Các hoạt động, chính sách bố trí
cơ cấu tổ chức nhằm quản lý tốt hơn sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản [9].
Năm 2011, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị chủ trì đề tài: “xây
dựng kịch bản BĐKH và nước biển dâng cho tỉnh Quảng Trị”. Công trình này
cho chúng ta thấy được vai trò to lớn của kịch bản BĐKH, nước biển dâng ối với
tỉnh Quảng Trị, đồng thời dựa trên cơ sở đó các ngành, các cấp có thể xác định
được các hình thức thích ứng riêng cho từng đơn vị. Kịch bản được xây dựng
định hướng đến năm 2100. Đặc biệt, vào những năm cuối của thế kỷ XXI tác
động của BĐKH đến tỉnh Quảng Trị nói chung và vùng ven biển nói riêng rất
lớn. Bên cạnh đó là một loạt các biểu hiện của BĐKH cũng được giả định và
cảnh báo sớm được đưa ra như: nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển dâng [13]
…
Trong năm 2012, có rất nhiều đề tài nghiên cứu về BĐKH đã và đang được
tiến hành tại Quảng Trị, các đề tài này do nhiều đơn vị, cá nhân, tổ chức thực
hiện. Song, các đề tài đều tập trung vào vấn đề trọng tâm đó là: “tìm giải pháp
thích hợp nhằm giúp tỉnh Quảng Trị ứng phó với các tác động tiêu cực do BĐKH
gây ra”. Với quyết tâm cao độ trong ứng phó với BĐKH của chính quyền và
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
18
nhân dân, trong tương lai Quảng Trị se có được những phương thức và biện pháp
tối ưu nhằm hạn chế được tối thiểu ảnh hưởng của BĐKH đến địa phương mình.
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
19
Phần 2.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Quảng Trị là một tỉnh ven biển với đường bờ biển dài 75km kéo dài từ xã
Vĩnh Thái đến xã Hải Khê. Ven bờ là dải cát trắng mịn, phía trong là những cồn
cát cao, vùng đồng bằng, gò đồi… ở đây có hai cửa biển lớn là Cửa Tùng và Cửa
Việt cùng nhiều cửa lệch nhỏ đổ ra biển.
Vùng nghiên cứu là vùng ven biển tỉnh Quảng Trị trong đó: Phía Tây giáp
thành phố Đông Hà, thị xã Quảng Trị. Phía Tây Bắc tiếp giáp huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình. Phía Đông và Đông Bắc giáp Biển Đông. Phía Nam và Đông
Nam giáp huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế
Vùng ven biển tỉnh Quảng Trị bao gồm 24 xã thuộc 4 huyện: Vĩnh Linh, Gio
Linh, Triệu Phong, Hải Lăng.
Vùng ven biển tỉnh Quảng trị có vị trí hết sức quan trọng như nằm trên trục
đường Quốc lộ 1A, đường quốc phòng ven biển và các tỉnh lộ khác… bên cạnh
đó là 2 cửa biển lớn là Cửa Tùng và Cửa Việt kết hợp với đường bờ biển dài hơn
75km tạo nên một hệ thống giao thông thuận lợi cho phát triển KT-XH và an
ninh quốc phòng. Vị trí địa lý đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu,
trao đổi kinh tế, văn hóa với các vùng trong nước và quốc tế, đồng thời phát triển
du lịch. Tuy nhiên, khu vực này còn nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi
ro nên cần tập trung nghiên cứu và nguồn lực để khắc phục, nhất là ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu trong thời gian gần đây [11], [28], [33].
2.2. CÁC NHÂN TỐ SINH THÁI TỰ NHIÊN
2.2.1. Địa chất – địa hình
2.2.1.1. Địa chất
Vùng ven biển tỉnh Quảng Trị là một bộ phận của vùng đồng bằng ven biển
Bắc Trung Bộ, được hình thành trên cấu trúc uấn nếp của dãy Trường Sơn Bắc.
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
20
Nơi đây phổ biến cát tạo bờ rời là trầm tích đại Tân sinh mà chủ yếu là
Hoolôxen do sóng, gió và biển lấp đầy địa hình trũng của máng cổ có tuổi Cố
sinh. Ở đây hoàn toàn vắng mặt các thành tạo Trung sinh, nền địa chất có cấu
trúc hai tầng. Tàng trên là trầm tích Tân sinh phủ lên và phía dưới là móng Cổ
sinh [11], [28], [33].
2.2.1.2. Địa hình
Khu vực Bình – Trị - Thiên nói chung và vùng ven biển tỉnh Quảng Trị nói
riêng nằm giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân kết hợp với dãy Trường Sơn Bắc ăn ra
sát biển và hướng núi chạy song song với bờ biển. Vì vậy, địa hình ở đồng bằng
ven biển không phát triển bề ngang đồng thời lại phân thành từng vệt nhỏ theo
chiều dọc. Ngoài cùng là một vệt cồn cát, ở đó thường có những hòn núi đá đứng
ngang trên bờ biển làm điểm tựa cho các dãi cồn bám vào. Những nơi trên dãi
cồn, còn phát triển thành những đụn cát cao di động. Bên trong dãi cồn cát, địa
hình thường thấp trũng và đồng bằng hẹp, tiếp đến là vùng gò đồi thấp. Sông
ngòi ở đây chảy dùng dằng theo các cồn dãi cồn. [11], [33].
Khu vực nghiên cứu chủ yếu là đất cát phủ lớp thực vật nghèo nàn, thuộc tiểu
vùng khí hậu ven biển. Vì vậy, đã hình thành nên các dạng địa hình như sau:
Đụn cát tích tụ: Phân bố thành dãi song song với đường bờ tiếp giáp ngang
với bề mặt đồng bằng. Các đụn cát nối tiếp nhau cao 5 – 10m, có bề mặt lượn
sóng dưới dạng dãy, sườn bất đối xứng, dốc ở phía Tây và thoải ở phía Đông.
Các đụn cát này nằm phủ lên trên các bậc thềm biển và đồng bằng nên có tuổi
hiện đại. Đụn cát chia làm 2 loại: đụn cát di động và đụn cát cố định.
Máng trũng thổi mòn: Được hình thành trên cát bề mặt thềm bậc 4, từ các hố
lõm dạng dải, kéo dài vuông góc với đường bờ. Với nguồn trầm tích cát sẵn có
trên các bậc thềm biển cùng điều kiện khí hậu đã tạo nên các máng trũng thổi
mòn này.
Tràng cát thổi mòn tích tụ: Dạng địa hình này được hình thành trên bề mặt
bậc thềm 2 và phân bố hạn chế. Chúng có bề mặt phẳng, gợn sóng, ít bị chia cắt,
hơi lõm… về mùa mưa thường bị ngập nước tạm thời nên trong điều kiện này,
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
21
quá trình tích tụ trầm tích cát trên bề mặt được hình thành. Về mùa khô, quá trình
thổi mòn chiếm ưu thế.
Cồn cát ven biển: Địa hình cồn cát và tràng cát tạo thành các dãy nằm song
song với bờ biển, độ cao tuyệt đối từ 4 – 20m chủ yếu là các cồn cát di động.
Phía sau các cồn cát gần bờ là các bãi cát có địa hình thấp hơn chạy song song
với biển, độ cao trung bình của các bãi cát này từ 4 – 5m.
Dải đồi thoải của vùng đất đỏ bazan: Đây là một trong những vùng đất tốt và
có giá trị trong sản xuất nông nghiệp [11], [28], [33].
2.2.2. Khí hậu – Thủy văn
2.2.2.1. Khí hậu
Nhiệt độ không khí thay đổi theo mùa trong năm, nhiệt độ trung bình năm
trong khu vực khoảng 24 – 260C, cao nhất là tháng VI, VII và thấp nhất là tháng
I, II.
Mùa nóng bắt đầu từ cuối tháng IV đến hết cuối tháng IX, nhiệt độ trung bình
28,40C. Gió Tây Nam khô nóng thổi mạnh từ tháng V – VIII. Số ngày có nhiệt độ
trên 350C và độ ẩm dưới 45% là khoảng 35 – 36 ngày, có nhiều ngày nhiệt độ lên
đến 400C, còn những nơi không có thảm thực vật che phủ thì lên tới 500C.
Mùa lạnh kéo dài từ cuối tháng XII năm trước đến tháng III năm sau, nhiệt độ
trung bình các tháng mùa lạnh khoảng 21 0C, số ngày có nhiệt độ tháp dưới 15 0C
chỉ có 5 - 6 ngày [11], [28], [33].
2.2.2.2. Lượng mưa
Ở đây mùa mưa bắt đầu từ tháng IX năm trước đến tháng I năm sau, số ngày
mưa dao động từ 130 – 180 ngày và tập trung chủ yếu vào các tháng IX, X, XI,
lượng mưa trong các tháng này chiếm 70 – 80% lượng mưa cả năm và thường
hay có bão, trong những tháng này, số ngày mưa từ 15 – 20 ngày/tháng, có ngày
lượng mưa đạt trên 500 mm. Với đặc thù về lượng mưa như vậy, kết hợp với điều
kiện đất đai nơi đây chủ yếu là đất cát, đất trống, độ che phủ thấp nên xói mòn,
rửa trôi diễn ra mạnh làm cho đất ngày càng nghèo kiệt, còn trong thời kỳ khô
hạn thì nạn cát bay, cát nhảy ngày càng gia tăng [11], [28], [33].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
22
2.2.2.3. Độ ẩm và lượng bốc hơi
Độ ẩm trung bình năm là 80%, tháng cao nhất lên đến 91%, tháng thấp nhất
chỉ còn 30% (chủ yếu là tháng V và VIII). Lượng bốc hơi trung bình cả năm là 1
508,6 mm. Tháng cao nhất dao động từ 170 – 236 mm. Vào các tháng mùa hè
(tháng V – VIII), lượng bốc hơi chiếm đến 70 – 75% cả năm. Đây là một trong
những nguyên nhân làm hao hụt nguồn nước gây khô hạn, đất đai nứt nẻ… ảnh
hưởng đến sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và dễ gây ra dịch bệnh, cháy rừng
[11], [28], [33].
2.2.2.4. Gió
Cũng như tỉnh Quảng Trị, vùng ven biển chịu sự thống trị của 2 loại gió mùa
chính là gió mùa mùa đông và gió mùa mùa hạ.
Gió mùa mùa đông thổi từ tháng XI năm trước đến tháng III năm sau, hướng
thịnh hành là hướng Đông Bắc chiếm 40 – 50% tần suất gió, các hướng còn lại
tần suất xuất hiện ít hơn. Thổi xen kẻ gió mùa mùa đông là những đợt gió Đông
và Đông Nam làm mùa đông trở nên đỡ lạnh hơn.
Gió mùa mùa hạ thổi từ tháng V – VIII, hướng gió thịnh hành là hướng Tây
Nam chiếm 50% tần suất, xen kẻ giữa các đợt gió Tây Nam khô nóng là những
đợt gió Đông và Đông Nam mát mẻ trong mùa hè.
Tuy nhiên, do điều kiện lãnh thổ có nhiều dãy núi cao đặc biệt là dãy Trường
Sơn gần vuông gốc với hướng gió Đông Bắc về mùa đông và gió Tây Nam về
mùa hè nên hướng gió thịnh hành ở Quảng trị bị lệch chút ít so với hướng ban
đầu và ở mỗi nơi khác nhau. Đầu và cuối mùa hạ là thời kỳ tranh chấp của 2 mùa
gió của tháng chuyển tiếp, thông thường là tháng IV và tháng VII. Gió ở Quảng
Trị có tốc độ trung bình năm từ 2,5 – 3,9 m/s và ít thay đổi giữa các tháng. Tốc
độ gió lớn nhất trong năm đạt từ 35 – 40 m/s thường xảy ra trong các trận giông
tố, lốc và bão. Gió mạnh đã gây ra ảnh hưởng đến một số loại cây trồng nhất là
cây công nghiệp dài ngày như: Cao Su, hồ Tiêu…, cây ăn quả như: Cam, bưởi,
ổi… [11], [28], [33].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
23
2.2.2.5. Bão lụt
Bão lụt uy hiếp trực tiếp đến vùng ven biển. Bão thường tập trung vào mùa
mưa và tập trung nhất là các tháng VIII, IX, X, tần suất xuất hiện bão lớn nhất
vào tháng IX là 3,7% [11], [28], [33].
2.2.2.6. Thủy văn
2.2.2.6.1. Nguồn nước mặt
Vùng ven biển tỉnh Quảng Trị có đặc điểm chạy dài theo bờ biển, nên tất cả
các sông trong tỉnh trước khi đổ ra biển đều đi qua khu vực này. Hệ thống sông
Bến Hải đổ ra ở cửa Tùng, hệ thống sông Thạch Hãn đổ ra ở cửa Việt và hệ thống
sông Ô Lâu đến vùng cát phía Nam tỉnh Quảng Trị rồi đổ vào phá Tam Giang.
Giữa các sông này được liên hệ với nhau bởi các sông đào và kênh rạch. Các
kênh đào này cung cấp nước cho sản xuất, điều tiết nước giữa các sông lớn để
tránh lũ. Khu vực phía Bắc huyện Vĩnh Linh chủ yếu là đất đỏ bazan có khả năng
giữ nước khá tốt, vì vậy các hồ trong vùng đều tập trung ở nơi đây như: hồ Thủy
Tú (Vĩnh Tú), hồ Thủy Trung (Vĩnh Trung), các hồ tự nhiên này thường xuyên
được cấp nước từ lòng đất qua các lỗ mội hay nguồn nước từ các đồi núi chảy
vào liên tục bổ sung cho các hồ này như: Bàu Sẫm (Vĩnh Tú), Bàu Me (Vĩnh
Trung), Bàu Trang (Vĩnh Thái)… đây là nguồn nước mặt chủ yếu cung cấp nước
cho sản xuất và sinh hoạt vùng ven biển huyện Vĩnh Linh.
Ở đây, vào mùa mưa nước chảy theo hai hướng chính: hướng chảy ra biển và
hướng chảy vào đồng bằng phía trong. Người dân trong khu vực này còn ngăn
nước tạo thành các hồ nhỏ trên vùng cát từ các lưu vực sông chính như: hồ An
Trung, Hoàng Hà, Nhĩ Hạ, Nhĩ Thượng, An Mỹ (Gio Linh). Ở huyện Triệu
Phong, Hải Lăng từ khi có đê cắt đường thoát nước từ đồng bằng xuống vùng cát
chặn lại tạo thành nhiều ao, hồ nhỏ mới các ao, hồ này chỉ giữ nước được 6 – 7
tháng trong năm.
Nhìn chung, chất lượng nước mặt trong vùng này rất thấp (nhiễm bẩn vi sinh
vật, hóa chất trong nông nghiệp…) nên chỉ được sử dụng chủ yếu trong sản xuất
nông – lâm – ngư và rất hạn chế trong sử dụng sinh hoạt [11], [28], [33].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
24
2.2.2.6.2. Nguồn nước ngầm
Theo kết quả khoan thăm dò của Liên đoàn Địa chất 708 phục vụ cho đề tài:
“Quy hoạch khai thác sử dụng nước dưới đất tại Quảng Trị” thì trữ lượng nước
trong khu vực nghiên cứu khoảng 1000 m3/ngày. Với trữ lượng này không chỉ
đảm bảo cung cấp cho sinh hoạt mà còn phục vụ cho sản xuất, tưới tiêu.
Lượng nước ngầm ven biển tỉnh Quảng Trị cũng phong phù nhưng có sự thay
đổi theo mùa. Vào mùa mưa, nước ngầm tương đối dồi dào, có nơi mực nước
ngầm sát bề mặt đất. Vào mùa khô, nước ngầm ở sâu trong lòng đất (thậm chí có
nơi sâu 50m). Hiện tại, người dân ở đây sử dụng giếng đào bơm lấy nước phục
vụ sinh hoạt. Hầu hết, giếng nước ở đây bị nhiễm các chất hữu cơ, vi sinh vật, sắt
và nhiễm mặn vượt quá tiêu chuẩn cho phép [11], [28], [33].
2.3. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Vùng ven biển tỉnh Quảng Trị có điều kiện tự nhiên rất phức tạp, vì thế người
dân tập trung sinh sống với mật độ cao bắt đầu từ những năm 1970 trở lại đây.
Tuy nhiên, do áp lực dân số ngày càng tăng trong khi diện tích đất lại khan hiếm
nên người dân ngày càng tập trung về đây sinh sống đông đúc. Đến năm 2009,
tổng dân số trung khu vực này là 88. 989 người, mật độ dân số trong toàn vùng là
265 người/km2, gấp đôi mật độ dân số của tỉnh và cao hơn mật độ dân số của
vùng gò đồi là 60 người/km2 (bảng phụ lục 3.2).
Theo số liệu thống kê năm 2007, số người dân trong độ tuổi lao động là 53.
904 người chiếm tỷ lệ 50,3%, đây là tỷ lệ tương đối cao so với toàn tỉnh. Tuy
nhiên, lao động ở đây chủ yếu là lao động phổ thông nên khả năng sản xuất còn
nhiều hạn chế.
Phân bố lao động theo các ngành nghề sản xuất như sau: Nông – lâm nghiệp:
32. 343 người (60,55%). Ngư nghiệp: 13 128 người (21,57%). Tiểu thủ công
nghiệp: 3.276 người (6,13%). Các ngành khác: 4.663 người (8,73%) [11], [12],
[28], [33].
LÊ VĂN THỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
25
2.3.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
2.3.2.1. Điện
Trong 24 xã vùng ven biển tính đến năm 2012 tất cả các xã đều có điện lưới
quốc gia. Nhưng nếu tính theo thôn thì chỉ mới 98% số thôn xóm là có điện lưới và
2% thôn xóm chưa có điện. Mặc dù vậy, tỷ lệ trên đã góp phần tạo điều kiện cho
người dân nơi đây phát triển sản xuất và cải thiện đời sống [11], [12], [28], [33].
2.3.2.2. Giao thông vận tải
Trong những năm qua, Quảng Trị đã chú trọng nâng cấp các tuyến đường tỉnh
lộ nối liền với các huyện nơi đây. Nhờ vậy, hiện nay tất cả các xã đều có đường ô
tô nối với trung tâm huyện lỵ. Bên cạnh hệ thống tỉnh lộ thì các tuyến đường ven
bờ, liên xã cũng được hình thành và kiên cố.
Ngoài việc nâng cấp các tuyến đường bao quanh hoặc nối các xã trong vùng
cần phải có sự đầu tư cho vùng này một số tuyến đường liên xã xuyên vùng cát
một cách ngắn nhất và hệ thống giao thông nội bộ xã nối các khu vực dân cư củ
và các làng mới hình thành trên vùng cát ven biển. Đây cũng là vấn đề khó khăn
nhất cần phải giải quyết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và đáp ứng
nhu cầu đi lại của người dân sống trên dải cát ven biển này [11], [12], [28], [33].
2.3.2.3. Thủy lợi
Hệ thóng đê và kênh tiêu nước trên cát đã được hình thành ở các huyện Gio
Linh, Triệu Phong và Hải Lăng. Đê cát có hai loại: Đê phân thủy và đê chính. Hệ
thống đê này có tác dụng không cho nước ở vùng cát trên cao chảy xuống vùng
thấp hơn, ngăn dòng chảy mặt trên cát xuống đồng ruộng và tạo ra được các hồ
chứa nước mưa trên vùng cát. Hệ thống kênh tiêu nước trên cát đưa nước đổ ra
biển có tác dụng rất lớn trong dân sinh và sản xuất trong mùa mưa. Ở các thôn
xóm trên cát bằng phẳng không có kênh tiêu này, hộ dân ít có khả năng trồng
được cây lưu niên trong vườn nhà [11], [12], [28], [33].
2.3.2.4. Y tế
Tất cả các xã khu vực này đều có trạm y tế đủ để phục vụ các bệnh thông
thường cho người dân ở trong vùng. Ở các vùng có diện tích rộng lớn, dân cư tập
LÊ VĂN THỊNH