Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Luan van quản lý hiện vật của bảo tàng mỹ thuật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.72 MB, 183 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

ĐỖ TRỌNG HIẾU

QUẢN LÝ HIỆN VẬT
CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Quang Trọng

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Võ Quang Trọng. Những nội dung trình bày trong
luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng
được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả
nghiên cứu của người khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2018
Tác giả luận văn


Đỗ Trọng Hiếu


1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ........................................................................................................... 1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT....................................................................... 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HIỆN VẬT BẢO TÀNG VÀ TỔNG
QUAN VỀ HIỆN VẬT CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM .......................... 13

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý hiện vật bảo tàng ....................................... 13
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................... 13
1.1.2. Mục đích và nguyên tắc quản lý hiện vật bảo tàng.................... 23
1.1.3. Nội dung quản lý hiện vật bảo tàng .......................................... 25
1.1.4. Vai trò của công tác quản lý hiện vật trong bảo tàng ................ 33
1.2. Tổng quan hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.................... 35
1.2.1. Khái quát về Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ............................... 35
1.2.2. Tổng quan về hiện vật trong bảo tàng ....................................... 39
1.2.3. Vai trò của hiện vật Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam .................... 45
Tiểu kết ........................................................................................................ 48
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HIỆN VẬT CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT
VIỆT NAM ....................................................................................................... 49

2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ ........................................... 49
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ ................................................................ 49
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự ........................................................ 51
2.2. Nội dung quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam......... 55

2.2.1. Công tác xây dựng văn bản pháp quy về quản lý hiện vật......... 55
2.2.2. Quản lý hệ thống sổ sách kiểm kê hiện vật ............................... 58
2.2.3. Quản lý hệ thống kho bảo quản hiện vật ................................... 63
2.2.4. Quản lý công tác tu sửa, phục chế hiện vật ............................... 66
2.2.5. Quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hiện vật .............. 69
2.2.6. Quản lý công tác áp dụng công nghệ thông tin ......................... 71
2.2.7. Quản lý cơ sở vật chất, các trang thiết bị kỹ thuật trong công tác
quản lý hiện vật .................................................................................. 73
2.2.8. Công tác kiểm tra và xử lý vi phạm trong công tác quản lý hiện vật . 75
2.3. Đánh giá hiệu quả của công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam ........................................................................................... 76
2.3.1. Ưu điểm.................................................................................... 76


2

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................... 78
2.3.3. Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế ............................ 82
Tiểu kết ........................................................................................................ 84
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HIỆN VẬT CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM .. 85

3.1. Tình hình thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lƣợng, hiệu quả trong
công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ................. 85
3.2. Phƣơng hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hiện vật
của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ............................................................. 87
3.2.1. Phương hướng chung ................................................................ 87
3.2.2. Phương hướng cụ thể ................................................................ 89
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hiện vật
của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ............................................................. 90

3.3.1. Xây dựng và kiện toàn các văn bản pháp quy về quản lý hiện vật ...... 90
3.3.2. Kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ quản
lý hiện vật - tác phẩm mỹ thuật .......................................................... 91
3.3.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và chất lượng cho công tác
bảo quản, tu sửa, phục chế hiện vật .................................................... 94
3.3.4. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị - kỹ thuật cho công
tác quản lý hiện vật - tác phẩm mỹ thuật ............................................ 96
3.3.5. Tăng cường nghiên cứu khoa học, giám định và nâng cao chất
lượng công tác quản lý hiện vật - tác phẩm mỹ thuật .......................... 99
3.3.6. Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý hiện vật. 102
3.3.7. Cần thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hiện vật - tác phẩm mỹ
thuật ................................................................................................. 108
3.4. Một số kiến nghị với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Di
sản Văn hóa............................................................................................... 108
Tiểu kết ...................................................................................................... 110
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 114
PHỤ LỤC........................................................................................................ 119


3

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BVHTT

Bộ Văn hóa - Thông tin

BVHTTDL


Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CBVC

Cán bộ viên chức

CNTT

Công nghệ thông tin

GS.TS

Giáo sư, Tiến sĩ

ICOM

Hội đồng bảo tàng thế giới

KT-XH

Kinh tế - xã hội

NCKH

Nghiên cứu khoa học

Nxb

Nhà xuất bản


PCCC

Phòng cháy chữa cháy

PGS

Phó Giáo sư

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

Tr

Trang

TS

Tiến sĩ


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác văn
hóa trong thời kỳ đổi mới đất nước, cụ thể là trong Nghị quyết Hội nghị trung
ương lần thứ 5 (khóa VIII) và Kết luận của Hội nghị trung ương 10 (khóa IX)
về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cùng
những định hướng cơ bản của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng (tháng 4/2006) và những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về

hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta đã khẳng định vị trí quan trọng của
hoạt động Bảo tàng trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản
văn hóa nghệ thuật độc đáo và đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam là Bảo tàng chuyên ngành hàng đầu của
cả nước, hiện đang lưu giữ gần 20 nghìn hiện vật có giá trị từ thời tiền sử, sơ
sử cho đến các tác phẩm nghệ thuật đương đại của Việt Nam.
Qua nửa thế kỷ tồn tại và phát triển của Bảo tàng từ những sưu tập đơn
lẻ, sơ sài cả về nội dung, số lượng cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học
và tổ chức trưng bày, đến nay Bảo tàng đã có một lượng lớn tác phẩm nghệ
thuật rất phong phú cả về thể loại lẫn chất liệu, hình thành được những sưu
tập tranh tượng có giá trị khoa học và giá trị thẩm mỹ cao. Bảo tàng đã xây
dựng được một hệ thống trưng bày khá đầy đủ chặt chẽ bao gồm cả nghệ
thuật truyền thống và nghệ thuật đương đại, duy trì những cuộc triển lãm
thường xuyên trong và ngoài Bảo tàng nhằm đưa nghệ thuật đến với công
chúng, góp phần giáo dục nâng cao thẩm mỹ cho nhân dân, bảo tồn những giá
trị bản sắc của văn hóa Việt Nam.
Bảo tàng cũng đã tiến hành hợp tác với một số tổ chức và các Bảo tàng
của các nước trên thế giới để tiến hành trao đổi, giao lưu văn hóa thông qua


5
việc trưng bày giới thiệu các dòng tranh cũng như các sưu tập nghệ thuật tạo
hình Việt Nam với bạn bè thế giới. Với gần 20 nghìn hiện vật các loại chủ yếu
là các tác phẩm hội họa, điêu khắc, gốm sứ có giá trị lớn trong đó có 05 hiện
vật được công nhận là bảo vật quốc gia (năm 2014). Chính vì thế công tác quản
lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam càng ngày càng được quan tâm và
chú trọng đầu tư để quản lý và bảo quản hiện vật một cách tốt nhất. Có thể nói,
khoảng hơn chục năm trở lại đây công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực và đạt được những thành tựu
đáng kể, tuy nhiên vẫn có những hạn chế cần khắc phục và đổi mới kịp thời.

Vì vậy nghiên cứu công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực nhằm đưa ra các giải pháp
mang tính khoa học - thực tiễn để khắc phục dần những hạn chế bất cập và
nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý hiện vật của mình. Đồng thời từng bước
đưa Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phát triển về mọi mặt xứng tầm với một bảo
tàng chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằn đẩy mạnh các hoạt
động về quản lý hiện vật của Bảo tàng để từng bước đưa Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam phát triển về mọi mặt xứng tầm với một Bảo tàng chuyên ngành
hàng đầu của Việt Nam.
Là một cán bộ nghiệp vụ công tác tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã
làm việc ở Trung tâm Bảo quản, tu sửa các tác phẩm mỹ thuật và hiện đang
làm việc ở phòng Trưng bày - Giáo dục, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý hiện
vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam’’ làm đề tài luận văn chuyên ngành
Quản lý Văn hóa của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước hết phải đề cập đến giáo trình “Cơ sở bảo tàng học”, Nxb Chính
trị Quốc gia (2008) của PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ, trường Đại học Văn hóa


6
Hà Nội, đã có những tiểu mục tại chương 5 (12 trang) đề cập đến loại hình
bảo tàng nghệ thuật, đặc điểm và những thuộc tính của hiện vật là những tác
phẩm nghệ thuật được bảo quản và trưng bày trong Bảo tàng Mỹ thuật. Đây
cũng là tài liệu quan trọng được tác giả nghiên cứu tìm hiểu để bổ sung cho
kiến thức khi thực hiện đề tài luận văn này.
Trong cuốn “40 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” đã đề cập đến một
số nội dung: Khẳng định những thành tựu đạt được của Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam trong 40 năm xây dựng và phát triển; Thành tựu đạt được trong
công tác bảo quản, tu sửa phục chế các tác phẩm mỹ thuật; Những kết quả đạt

được trong công tác sưu tầm - nghiên cứu; trong công tác kiểm kê - bảo quản
và trưng bày giáo dục…
Trong cuốn “45 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” đã nêu được vai trò, vị
thế và những đóng góp lớn lao của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đối với xã hội,
đồng thời tập hợp một số bài viết giới thiệu về những thành tựu của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam trong 45 năm qua về công tác giám định tác phẩm mỹ thuật,
nhiệm vụ của trung tâm và cán bộ làm công tác giám định tác phẩm mỹ thuật và
đặt ra một số khó khăn trong công tác giám định tác phẩm mỹ thuật.
Trong cuốn “50 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” đã khẳng định một
nửa thế kỷ qua xây dựng và phát triển, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn trong công tác nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, bảo quản
tu sửa, phục chế, giáo dục quảng bá di sản mỹ thuật Việt Nam tới công chúng
trong nước và quốc tế thông qua một số bài viết của các lãnh đạo và chuyên gia
tu sửa tác phẩm cùng cán bộ của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đặc biệt đã giới
thiệu 5 bảo vật quốc gia rất quý hiếm của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Ngoài ra còn có tài liệu hội thảo khoa học “Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh (1892 - 1972)” và tài liệu hội thảo “Họa sỹ
Đỗ Cung nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh (1912 - 1992)”. Trong các tài liệu


7
này chủ yếu là các bài viết tập trung vào đánh giá những công lao to lớn của
các họa sĩ này đối với nền mỹ thuật Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Giải nghĩa minh văn trên hiện
vật gốm - sứ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” do nhóm tác giả của Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam thực hiện và đã bảo vệ thành công tháng 4/2012 được áp
dụng vào thực tiễn của bảo tàng đó là giải pháp minh văn cho 305 hiện
vật/tổng số 317 hiện vật có minh văn đang bảo quản trong kho cơ sở và trên
hệ thống trưng bày.
Bên cạnh đó, còn một số luận văn, khóa luận có nội dung đề cập đến

một số sưu tập tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam dưới góc độ bảo tàng học như: “Tìm hiểu sưu tập tranh dân gian trên hệ
thống trưng bày của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” của sinh viên Lê Thị Bích
Diệu (năm 2007) khoa Di sản Văn hóa, trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Khóa luận đã đi sâu phân tích một số hiện vật tiêu biểu và giá trị của sưu tập
trong hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Khóa luận “Tìm hiểu nội dung và giá trị nghệ thuật của một số tác
phẩm sơn mài hiện đại trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” năm 2004
của sinh viên Nguyễn Thị Lan Hương, khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội đã đề cập đến việc mô tả, phân tích giá trị nghệ thuật của một
số tác phẩm sơn mài trên hệ thống trưng bày và đưa ra giải pháp nhằm bảo vệ
và phát huy hơn nữa giá trị của chúng.
Khóa luận “Tìm hiểu công tác trưng bày chuyên đề tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam”năm 2009 của sinh viên Nguyễn Hữu Tam, khoa Di sản Văn
hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tập trung trình bày và phân tích thực
trạng hoạt động trưng bày chuyên đề của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này trong
thời gian tiếp theo.


8
Về các đề tài nghiên cứu phải kể đến đó là đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ năm 1997 của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (cũ) do PGS.TS. Phạm Mai
Hùng làm chủ nhiệm đã bảo vệ thành công, xếp loại xuất sắc, “Hiện vật bảo
tàng, nội dung khoa học và quản lý nhà nước”, đề tài “Tư liệu hóa sưu tập hiện
vật về cách mạng tháng Tám năm 1945 hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng
Việt Nam” do Thạc sĩ Triệu Hiển làm chủ nhiệm (năm 2008) cũng đã bảo vệ
thành công, xếp loại xuất sắc. Nội dung của 2 đề tài khoa học cấp Bộ trên đây đã
đề cập đến thực trạng hiện vật trong hệ thống bảo tàng Việt Nam dưới góc độ
quản lý nhà nước, những hạn chế trong công tác tư liệu hóa hiện vật nói chung

và hiện vật cách mạng tháng Tám năm 1945 và đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị với nhà nước về vấn đề quản lý hiện vật bảo tàng trong hệ thống bảo tàng
Việt Nam… Cùng với 2 đề tài trên đây, năm 2008, tại Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam (cũ) còn thực hiện thành công 2 đề tài “Tư liệu hóa sưu tập tài liệu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam”, đề tài nghiên cứu “Tư liệu hóa sưu tập tranh tuyên truyền cổ động lưu giữ
tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” (2008), kết quả đề tài đã được áp dụng trong
thực tiễn của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp,
kiến nghị quan trọng với cơ quan quản lý nhà nước về công tác bảo quản, phát
huy giá trị sưu tập hiện vật và vấn đề kiện toàn chúng.v.v…
Bên cạnh đó còn có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Bảo quản, tu
sửa các tác phẩm hội họa tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” do GS.TS. Trương
Quốc Bình làm chủ nhiệm đề tài đã thực hiện và bảo vệ thành công (năm
2006). Nội dung của đề tài tập trung giải quyết những vấn đề có liên quan đến
hoạt động bảo quản tu sửa các tác phẩm nghệ thuật tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam, kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động
bảo quản tu sửa các tác phẩm nghệ thuật (đặc biệt là tác phẩm hội họa) tại
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.


9
Cùng với các tài liệu trên đây, còn có một số bài viết của một số tác
giả, có bài viết về công tác nghiệp vụ của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, đó là
bài “Công tác tu sửa bảo quản các tác phẩm hội họa tại Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam” của GS.TS. Trương Quốc Bình in trong cuốn “40 năm Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam” năm 2006, trang 23 - 27. Nội dung bài viết đề cập thực
trạng công tác bảo quản tu sửa tác phẩm hội họa, những bất cập, hạn chế và
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo quản tu sửa đối với
các tác phẩm hội họa lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Chung - nguyên Giám đốc Bảo tàng

Mỹ thuật Việt Nam “Những sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” đã
giới thiệu một số sưu tập và nội dung giá trị của nó trong Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam. Đó là sưu tập tranh sơn mài, sưu tập tranh Đông Hồ, sưu tập tranh
Hàng Trống… bài viết được in trong Kỷ yếu sưu tập hiện vật bảo tàng, Bảo
tàng Cách mạng Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, năm 1994.
Đặc biệt, năm 2005, lần đầu tiên cuốn giáo trình “Lịch sử sự nghiệp bảo
tồn bảo tàng Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội đảm nhận in của Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội đã được sử dụng phục vụ cho sinh viên Đại học, Cao
đẳng ngành Bảo tàng học tập, nghiên cứu do PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ biên
soạn, đã dành 4 trang trình bày và phân tích về sự hình thành, phát triển, cùng
những thành tựu đã đạt được trong hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam,
giới thiệu một số cuộc trưng bày chuyên đề và triển lãm sưu tập tác phẩm nghệ
thuật tiêu biểu như tranh sơn mài, sơn dầu, điêu khắc cổ.v.v…
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu các giáo trình, cuốn sách kỷ
yếu, công trình nghiên cứu khoa học và các bài viết trên đây cho thấy nội
dung chủ yếu của các tài liệu này đề cập đến hoạt động nghiệp vụ nghiên
cứu sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày và giáo dục của Bảo tàng Mỹ


10
thuật Việt Nam, giới thiệu một số sưu tập hiện vật - tác phẩm nghệ thuật
tiêu biểu, những thành tựu đạt được của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trong
40 năm, 45 năm và 50 năm qua mà chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu cụ thể về quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam một
cách toàn diện và đầy đủ dưới góc độ khoa học quản lý. Vì vậy trong quá
trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ lựa chọn, tiếp thu, kế thừa và vận dụng các
kết quả của các tác giả đi trước vào một số nội dung phù hợp trong công
trình luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ thực trạng công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam đồng thời đề xuất các giải pháp khoa học khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiến hành sưu tầm thu thập các tài liệu, sách báo, tạp chí bài viết, các
công trình đã xuất bản có nội dung đề cập đến khoa học quản lý, quản lý hiện
vật bảo tàng…để phục vụ cho đề tài luận văn.
- Tiến hành khảo sát thực trạng công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam trên các lĩnh vực từ quản lý hiện vật trên hệ thống trưng bày đến
quản lý hệ thống kho bảo quản hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Sưu tầm, thu thập các tài liệu, bản báo cáo kết quả công tác quản lý
hiện vật, đảm bảo an ninh an toàn cho hiện vật.
- Đánh giá khách quan những ưu điểm, hạn chế cùng các nguyên nhân
của những mặt ưu điểm, hạn chế trong quá trình quản lý hiện vật của Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện nay.


11
- Tiến hành chụp ảnh những hiện vật tiêu biểu, các loại sổ sách, phích,
phiếu quản lý hiện vật và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ thông tin
quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Gặp gỡ trao đổi với các lãnh đạo Bảo tàng, các cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ đang quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Đưa ra được những kiến nghị, đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm tăng cường công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Công tác quản lý gồm toàn bộ hệ thống hiện vật
cả trong hệ thống kho bảo quản và trên hệ thống trưng bày của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước, chủ trương chính sách về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
- Phương pháp nghiên cứu liên đa ngành: khoa học quản lý, quản lý bảo
tàng, văn hóa học, lịch sử, tin học, mỹ thuật học.
- Phương pháp thống kê - phân loại, tổng hợp - phân tích các tài liệu có
liên quan.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn trong công tác quản lý hiện vật của
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.


12
- Phương pháp phỏng vấn, trao đổi và tham khảo ý kiến với các cán bộ
lãnh đạo và các cán bộ công nhân viên đang làm việc trong bộ phận quản lý
hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên đầy đủ, hệ thống về thực trạng công
tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Phân tích để làm rõ thực trạng về các mặt ưu điểm và hạn chế, những
nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế trong công tác quản lý hiện vật của
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hơn nữa công tác quản lý hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Luận văn sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý Bảo
tàng nói chung và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam nói riêng, đồng thời là tài liệu

tham khảo bổ ích cho cán bộ viên chức hiện đang làm việc tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
- Việc quản lý tốt các hiện vật của Bảo tàng có tính khoa học và phù
hợp với thực tiễn, đây còn là cơ sở để hoàn thiện hệ thống kiểm kê và tư liệu
hóa hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam từ đó đưa công tác quản lý hiện
vật vào nề nếp, đảm bảo tính khoa học cao trong quản lý.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội
dung chính của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hiện vật Bảo tàng và tổng quan về
hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Chương 2: Thực trạng quản lý hiện vật tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác
quản lý hiện vật tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.


13
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HIỆN VẬT BẢO TÀNG
VÀ TỔNG QUAN VỀ HIỆN VẬT CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý hiện vật bảo tàng
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Bảo tàng
Từ bảo tàng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp - Mouseion, vừa có nghĩa là
“đền thờ thần Muse” (Muse là chín vị nữ thần coi sóc học vấn và nghệ thuật),
lại vừa có nghĩa là nơi nghiên cứu về các sự vật. Năm 1683, khái niệm
museum được sử dụng lần đầu tiên ở nước Anh khi khánh thành bảo tàng
Ashmolean, bảo tàng đầu tiên trên thế giới mở cửa phục vụ công chúng. Từ
đó museum trở thành tên thông dụng của bảo tàng cho đến ngày nay. Tuy
không rộng về phạm vi quan niệm và về nội hàm như khái niệm văn hóa,

nhưng cũng có khá nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng của các nhà khoa
học bảo tàng, nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau ở Anh, Pháp, Mỹ,
Đức, Nga, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc…
Năm 1951, Luật bảo tàng do Nhật Bản đưa ra đã quy định:
Bảo tàng là cơ quan sưu tầm, bảo quản (bao gồm cả việc bồi dưỡng,
giáo dục), trưng bày những tư liệu có liên quan đến lịch sử, nghệ
thuật, phong tục tập quán của người dân, đến sản nghiệp, đến khoa
học tự nhiên. Từ góc độ giáo dục, bảo tàng là cơ quan có mục đích
nâng cao giáo dục văn hóa cho mọi người dân, điều tra, nghiên cứu
về họ, trở thành địa điểm để họ vui chơi, giải trí [50, tr.9].
Sau khi thành lập vào tháng 11 năm 1946, để thích ứng và khái quát sự
phát triển và diễn tiến của bảo tàng thế giới, ICOM đã không ngừng điều
chỉnh và bổ sung những định nghĩa về bảo tàng. Điều lệ của ICOM năm 1946


14
có định nghĩa: “Bảo tàng là cơ quan lưu giữ công cộng những hiện vật về mỹ
thuật, thủ công mỹ nghệ, khoa học, lịch sử và khảo cổ học, trong đó bao gồm
cả các vườn động thực vật. Các thư viện nếu không thường xuyên tổ chức
trưng bày thì không được coi là bảo tàng” [48, tr.66].
Năm 1951, với định nghĩa sửa đổi, lần đầu tiên ICOM đã sử dụng thuật
ngữ thiết chế/cơ quan với chủ ý nhấn mạnh tính tổ chức và yêu cầu hoạt động
thường xuyên của tổ chức: “Bảo tàng là cơ quan lưu giữ công cộng những
hiện vật về mỹ thuật, thủ công mỹ nghệ, khoa học, lịch sử và khảo cổ học,
trong đó bao gồm cả các vườn động thực vật. Các thư viện nếu không thường
xuyên tổ chức trưng bày thì không được coi là bảo tàng” [48, tr.67].
Trong phiên họp đại hội đồng năm 1957 và năm 1959, ICOM đã thảo
luận để sửa dổi điều lệ và đến năm 1961, một định nghĩa mới, ngắn gọn hợn
về bảo tàng được thông qua là: “Bảo tàng là một thiết chế thường trực, bảo
quản và trưng bày các sưu tập hiện vật có ý nghĩa văn hóa hoặc khoa học vì

mục tiêu nghiên cứu, giáo dục và giải trí” [46, tr.15].
Tháng 6 năm 1974, trong phiên họp đại hội đồng lần thứ 11 của ICOM
tại Copenhagen, Đan Mạch đã nêu ra định nghĩa về bảo tàng:
Bảo tàng là một thiết chế bất biến, phi lợi nhuận, phục vụ xã hội và
sự phát triển xã hội. Bảo tàng coi việc sưu tầm, bảo quản, nghiên
cứu những bằng chứng vật chất về con người và môi trường sống
của họ để trưng bày những bằng chứng vật chất này trước công
chúng, tạo cơ hội cho việc học tập, giáo dục, thưởng thức công
chúng là chức trách cơ bản của mình [48, tr.67].
Tháng 9 năm 1989, tại điều 2 của bản điều lệ ICOM đã được Đại hội
đồng ICOM lần thứ 16 họp tại Hague, Hà Lan thông qua, định nghĩa này
được sửa đổi là:


15
Bảo tàng là thiết chế bất biến, không nhằm mục đích lợi nhuận,
phục vụ xã hội và sự phát triển xã hội, mở cửa cho công chúng. Bảo
tàng nghiên cứu những bằng chứng vật chất về con người và môi
trường sống của họ, sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, tuyên truyền và
đặc biệt là trưng bày những bằng chứng vật chất này vì mục đích
nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức [48, tr.67].
Định nghĩa được sửa đổi gần đây nhất của ICOM được thông qua tại
Đại hội đồng ICOM lần thứ 20 năm 2004 họp tại Seoul, Hàn Quốc:
Bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động thường xuyên
mở cửa cho công chúng đến xem.phục vụ cho xã hội và sự phát
triển của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin
và trưng bày các bằng chứng vật thể và phi vật thể về con người và
môi trường sống của con người vì mục đích nghiên cứu, giáo dục
và thưởng thức [46, tr.16].
Khái niệm này được nhiều quốc gia nghiên cứu, vận dụng vào tình hình

hoạt động thực tiễn sự nghiệp bảo tàng của nước mình, trong đó có nước Nga.
Các nhà bảo tàng học ở Nga đã đưa ra khái niệm về bảo tàng như sau:
Bảo tàng là thể chế đa chức năng được hình thành một cách lịch sử
của ký ức xã hội, nhờ đó thực hiện được nhu cầu xã hội về tuyển
chọn, bảo quản và miêu tả nhóm đặc biệt các đối tượng văn hóa và
tự nhiên, được xã hội công nhận là một giá trị được kế truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác [43, tr.229].
Theo Ambrose, C.Paine trong cuốn Cơ sở bảo tàng được Bảo tàng
Cách mạng Việt Nam dịch thì: “Bảo tàng có lịch sử từ lâu đời, các bảo tàng là
ngôi nhà cất giữ những báu vật của loài người. Nó lưu giữ ký ức của các dân
tộc, các nền văn hóa, những ước mơ và hy vọng của con người trên toàn thế
giới [53, tr.24].


16
Ở Việt Nam, năm 2009 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di
sản văn hóa (Khoản 16, Điều 1) đã đưa ra khái niệm bảo tàng như sau:
Bảo tàng là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản,
nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật
chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người,
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng
thụ văn hóa của quần chúng [49, tr.66-67].
Nội dung của khái niệm này ngắn gọn đã phản ánh đầy đủ các hoạt
động, đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập và phát triển.
Như vậy, định nghĩa bảo tàng là khái niệm động, luôn thay đổi phù hợp
với chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng trong bối cảnh xã hội mà bảo tàng
tồn tại.Nhưng qua nghiên cứu tham khảo nhiều tài liệu nghiệp vụ bảo tàng,
các nhà bảo tàng học đều khẳng định một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan khoa học và

giáo dục.
- Đối tượng nghiên cứu, trưng bày của bảo tàng là những di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể cùng môi trường xung quanh con người.
- Mục đích của bảo tàng là phục vụ công chúng.
- Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng
bày và giới thiệu các sưu tập về lịch sử xã hội, tự nhiên cho công chúng.
- Bảo tàng có nhiệm vụ tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham
quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ bảo tàng.
1.1.1.2. Hiện vật bảo tàng
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, bảo tàng được khẳng định là một
thiết chế văn hóa khoa học và giáo dục quan trọng. Bởi vậy, các chuyên gia,
các nhà bảo tàng học đã không ngừng nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất của


17
các khái niệm cơ bản của bảo tàng học như khái niệm bảo tàng, hiện vật gốc,
hiện vật bảo tàng… và củng cố vị trí của bảo tàng học trong hệ thống các khoa
học nhân văn hiện đại.
Ngay từ thế kỷ XVII hiện tượng “hiện vật bảo tàng” đã sớm được
quan tâm. Ông Maior trong công trình nghiên cứu của mình là “Bảo tàng
học miêu tả” có viết: “Hiện vật bảo tàng phải là những hiện vật nằm trong
các bảo tàng và nó được gìn giữ lâu dài như những vật chân chính có thật
lấy từ cuộc sống hiện tại của nó, hiện vật bảo tàng phải là những hiện vật
mang tính quý hiếm” [34, tr.12].
Sang thế kỷ XIX do sự chuyên môn hóa của khoa học thì hiện vật bảo
tàng trong bảo tàng ngày càng được xem như nguồn sử liệu gốc của nhiều
ngành khoa học khác nhau, bao gồm những đồ vật, những tác phẩm nghệ
thuật, các loại dụng cụ nghiên cứu khoa học, các tiêu bản thiên nhiên.v.v…
với mục đích, yêu cầu và bản chất của vấn đề đặt ra để nghiên cứu, bảo quản,
nên chúng đã được liên kết, tập hợp thành các sưu tập hiện vật trong bảo tàng.

Đến nay khái niệm hiện vật bảo tàng vẫn được nhiều nhà bảo tàng học,
các chuyên gia bảo tàng trong nước và trên thế giới nghiên cứu. Sau đây xin
trình bày một số khái niệm hiện vật bảo tàng.
Trên thế giới, hai nhà bảo tàng học của Đức và Liên Xô (cũ) là
V.Levukin và Kherbost cho rằng:
Hiện vật bảo tàng là hiện vật mang giá trị của bảo tàng được lấy ra
từ thế giới đồ vật trong hiện thực khách quan, nó được sắp xếp vào
các sưu tập hiện vật bảo tàng để tổ chức bảo quản và sử dụng thuận
tiện lâu dài. Hiện vật bảo tàng là vật mang thông tin xã hội hoặc
thông tin khoa học, nó là nguồn sử liệu quan trọng cung cấp những
tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội và về con người cho những ai
tiếp cận với nó. Hiện vật bảo tàng nào cũng chứa đựng một giá trị


18
lịch sử, văn hóa nhất định, vì nó là một bộ phận của di sản văn hóa
dân tộc [37, tr.152].
Gần đây nhất cuốn Sự nghiệp Bảo tàng của nước Nga do Kaulen.M.E
chủ biên được Cục Di sản văn hóa cho dịch và xuất bản năm 2006 có viết:
“Hiện vật bảo tàng là đối tượng tự nhiên hay văn hóa lịch sử được nhập vào
sưu tập bào tàng, là tư liệu ban đầu của tri thức và tác động cảm xúc và mang
lại giá trị bảo tàng” [49, tr.233].
Ngoài ra, các nhà bảo tàng học Trung Quốc trong các công trình nghiên
cứu về bảo tàng học đã đưa ra khái niệm hiện vật bảo tàng như sau:
Hiện vật bảo tàng là những bằng chứng vật chất về sự phát triển của
giới tự nhiên và sự phát triển của văn minh vật chất cũng như văn
minh tinh thần của xã hội loài người được bảo tàng sưu tầm, bảo
quản tùy theo tính chất của mình, nhằm mục đích giáo dục xã hội
và nghiên cứu khoa học [48, tr.93].
Ở Việt Nam hơn một nửa thế kỷ hình thành và phát triển sự nghiệp bảo

tàng cho đến nay đã có hơn 150 bảo tàng (kể cả bảo tàng ngoài công lập) đã và
đang góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận bảo
tàng học đã có một số công trình được xuất bản, tiếp thu những tri thức mới
của bảo tàng học thế giới đồng thời tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của
bảo tàng học Việt Nam đã đưa ra khái niệm hiện vật bảo tàng như sau:
Cố PGS.TS Phan Khanh đã phân tích: “Hiện vật bảo tàng là nguồn sử
liệu đầu tiên của kiến thức, là hiện vật gốc cung cấp những thông tin gốc, có sức
biểu cảm và nhạy cảm và được tạo điều kiện để bảo quản lâu dài” [44, tr.153].
Khi bàn về hiện vật bảo tàng và việc quản lý nhà nước đối với hiện vật
bảo tàng, TS Trịnh Thị Hòa có nêu: “Hiện vật bảo tàng là những hiện vật gốc
- nguồn sử liệu đầu tiên của kiến thức, có giá trị về một mặt nào đó của lịch


19
sử xã hội và lịch sử tự nhiên, đã trải qua quá trình xử lý khoa học và pháp lý
của bảo tàng” [4, tr.132].
Trong cuốn Cơ sở bảo tàng học, PGS.TS Nguyễn Thị Huệ đưa ra khái
niệm về hiện vật bảo tàng như sau:
Hiện vật bảo tàng là những hiện vật gốc mang giá trị và thuộc tính
của hiện vật bảo tàng, có hồ sơ khoa học - pháp lý kèm theo, phù
hợp với nội dung và loại hình của bảo tàng, chúng được gìn giữ bảo
quản lâu dài để phục vụ cho những hoạt động và chức năng xã hội
của bảo tàng [37, tr.152].
Trong Luận án của mình, TS Lê Thị Minh Lý có nêu định nghĩa về
hiện vật bảo tàng:
Hiện vật là những bằng chứng vật chất minh chứng cho sự phát
triển của thế giới tự nhiên và xã hội có liên quan đến con người, bảo
tàng căn cứ vào tính chất của mình để sưu tầm lưu giữ vì mục đích
nghiên cứu khoa học và giáo dục xã hội. Không phải mọi hiện vật

đều trở thành hiện vật bảo tàng bởi vì bảo tàng chỉ sưu tầm có mục
đích, theo kế hoạch để lựa chọn những hiện vật tiêu biểu, có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học hoặc nghệ thuật để lưu giữ, xây dựng sưu
tập hiện vật và trưng bày giới thiệu. Hiện vật của bảo tàng là tài sản
văn hóa khoa học quý báu của quốc gia [46, tr.27].
Trong Quy chế kiểm kê hiện vật bảo tàng ban hành kèm theo Quyết định
số 70/2006/QĐ-BVHTT ngày 15 tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa
- Thông tin có nêu: “Hiện vật bảo tàng là di sản văn hóa gồm di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia, các tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể đã được vật thể hóa
và các mẫu vật tự nhiên, thuộc đối tượng nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, giới
thiệu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và loại hình bảo tàng” [14, tr.20].


20
Thông qua các khái niệm trên đây có thể khẳng định hiện vật bảo tàng
là hiện vật mang giá trị bảo tàng có vai trò rất quan trọng trong bảo tàng và là
một trong các điều kiện không thể thiếu được để bảo tàng ra đời, hoạt động và
phát triển. Như vậy có thể hiểu rằng:
Hiện vật bảo tàng là những vật thể phản ánh và minh chứng cho các sự
kiện lịch sử của một dân tộc, một địa phương, về cuộc đời và sự nghiệp của
một danh nhân, về một trường phái văn học nghệ thuật, một ngành cụ thể,
hay là các mẫu vật thiên nhiên có khả năng khái quát về quá trình phát triển
của các hiện tượng thiên nhiên.
Hiện vật bảo tàng là nguồn sử liệu đầu tiên của tri thức, nó có tầm
quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học vì nó đảm bảo tính chính xác
của những kênh thông tin biểu hiện ra bên ngoài, và đặc biệt, những lượng
thông tin ẩn kín bên trong hiện vật. Đó chính là đối tượng quản lý và phát huy
của bảo tàng.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý, quản lý hiện vật bảo tàng
* Quản lý

Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn ở tầm quốc gia và đều phải thừa nhận, chịu một sự quản
lý nào đó. Như vậy, quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các
lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, luật học, điều khiển học… Vì thế, các nhà
nghiên cứu ở từng lĩnh vực đã đưa ra những quản niệm khác nhau về quản lý.
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm, là một phạm
trù tồn tại khách quan, được ra đời từ nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi
quốc gia và ở mọi thời đại. “Quản lý” là một khái niệm khá rộng và mang tính
bao trùm tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Về nội dung, thuật ngữ “Quản
lý” có thể hiểu theo nhiều cách diễn đạt khác nhau. Theo nghĩa thông thường


21
trong từ điển tiếng Việt thuật ngữ “Quản lý” được hiểu là “trông nom, chịu
trách nhiệm về công việc”. Nếu hiểu theo âm Hán Việt thì “Quản” là lãnh đạo
một việc, “Lý” là trông nom, coi sóc. Người Anh dùng từ “Management” có
nghĩa là quản lý, là bàn tay hoặc liên quan đến hoạt động của bàn tay, từ đó
chuyển sang nghĩa là hành động theo một quan điểm tác động để dẫn dắt.
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì: “Quản lý là tổ chức và
điều khiển các hoạt động hoặc trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất
định” [47, tr.800].
Một cách tổng quát nhất có thể định nghĩa về quản lý theo Mai Hữu
Luân trong cuốn Lý luận quản lý hành chính nhà nước (2003) như sau: “Quản
lý là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng nhất
định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người nhằm
duy trì sự ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục đích nhất định”
[45, tr.18]. Hay “Quản lý là sự tác động của chủ thể lên đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu đề ra” [45, tr.18].
Các quan niệm trên đây, đều có điểm chung thống nhất xác định “Quản

lý” là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý, thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để hệ thống ổn định, phát
triển, đạt được những mục tiêu đã định.
Hoạt động quản lý bao gồm các yếu tố sau:
Chủ thể quản lý: Là tác nhân tạo ra các tác động quản lý, chủ thể luôn là
con người hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các
công cụ với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định.
Đối tượng quản lý: Tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý.
Tùy từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý
khác nhau.


22
Khách thể quản lý: Chịu sự tác động hay sự điều chỉnh của chủ thể
quản lý, đó là hành vi của con người, các quá trình xã hội.
Mục tiêu của quản lý: Là cái đích phải đạt tới tại một thời điểm nhất
định, do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực
hiện các động tác quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý thích
hợp. Quản lý ra đời chính là nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất công việc.
Ngày nay, việc dùng thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, đặc biệt ở
các nước phát triển, nhưng chưa có định nghĩa nào thống nhất. Tổng hợp các
ý kiến chung từ nhiều định nghĩa có thể đưa ra “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đưa ra”. Do vậy, quản lý cần đảm bảo hai yếu tố cơ bản là: Đối
tượng thực hiện chức năng quản lý và đối tượng bị quản lý. Chính vì thế,
quản lý là một trong những khái niệm khá rộng, bao gồm nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng… Ở
lĩnh vực nào cũng cần có chức năng này, nhằm định hướng cho các chương
trình, kế hoạch hoạt động đi đúng hướng, đúng lộ trình và thời gian đề ra, từ

đó mang lại hiệu quả cao hơn trong việc thực hiện mục đích đề ra.
* Quản lý hiện vật bảo tàng
Trong quá trình nghiên cứu bước đầu tác giả đưa ra quan niệm “Quản
lý hiện vật bảo tàng là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến hiện vật
bảo tàng bằng cơ chế và công cụ quản lý nhằm bảo tồn và phát huy giá trị
của chúng trong công tác nghiên cứu và giáo dục của bảo tàng”.
Quản lý hiện vật bảo tàng còn có thể hiểu là một quá trình theo dõi,
định hướng nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của các hiện vật bảo
tàng; đem lại lợi ích to lớn, nhiều mặt, lâu dài cho cộng đồng. Quản lý hiện
vật bảo tàng là một hoạt động nằm trong công tác quản lý di sản văn hóa.
Theo quan điểm khoa học phổ biến hiện nay, quản lý di sản văn hóa không


23
chỉ đơn thuần là quản lý những giá trị vật thể mà quan trọng hơn là người
làm công tác quản lý phải biết cách “đánh thức” những giá trị văn hóa phi
vật thể để có tác động tích cực đến đời sống cộng đồng.
Quản lý hiện vật bảo tàng cũng chính là sự định hướng, tạo điều kiện
tổ chức, điều hành việc bảo vệ, gìn giữ các hiện vật, làm cho các giá trị của
các hiện vật được phát huy theo chiều hướng tích cực. Các hiện vật cần được
tôn trọng và bảo vệ vì đây là tài sản vô giá, là tài nguyên kinh tế, du lịch
không bao giờ cạn kiệt nếu chúng ta biết khai thác một cách khoa học. Việc
bảo vệ, khai thác, sử dụng có hiệu quả những hiện vật bảo tàng có ý nghĩa
quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, phục vụ cho công tác nghiên
cứu khoa học, tham quan du lịch, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và văn hóa của
nhân dân. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
như đặc thù của nước ta hiện nay thì các hiện vật cần được quản lý và định
hướng để phục vụ cho mục tiêu phát triển KT - XH của đất nước, đồng thời
bảo tồn được các giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2. Mục đích và nguyên tắc quản lý hiện vật bảo tàng

1.1.2.1. Mục đích
Mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho kỳ được. Trong bảo
tàng thuật ngữ này cũng được sử dụng để nói rõ mục đích quản lý hiện vật
bảo tàng. Mỗi bảo tàng có thể có hàng ngàn, hàng vạn hiện vật hoặc hàng
triệu hiện vật. Nếu không quản lý khoa học khối lượng hiện vật này thì không
thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu sử dụng cũng như không thể
đảm bảo an toàn cho chúng. Việc quản lý khoa học các hiện vật bảo tàng cần
được tách biệt theo từng bước và theo phương pháp nhất định nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị của chúng.
* Mục đích của việc quản lý hiện vật bảo tàng là bảo vệ an toàn (cả số
lượng và chất lượng) cho toàn bộ tài liệu, hiện vật, hình ảnh và các mẫu vật tự
nhiên trong bảo tàng, đề phòng thất thoát, hư hỏng.


×