BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
NGUYỄN THỊ THU HÀ
THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA NGƯỜI VIỆT
QUA CA DAO – DÂN CA
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TSKH. LÊ NGỌC TRÀ
TP. HỒ CHÍ MINH - 2006
MỞ ĐẦU
1 –MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI :
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, ca dao–dân ca được xem là “viên ngọc
quý”, được lưu truyền sâu rộng và có sức sống bền lâu cùng với lòch sử dân tộc. Ngoài
nội dung thể hiện tâm tư, tình cảm của người bình dân, những câu hát dân gian còn ẩn
chứa những suy tư, quan điểm của họ về mọi mặt. Bên cạnh giá trò về nội dung, ca daodân ca còn mang giá trò lớn lao về nghệ thuật. Vì thế, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu đã
đến với ca dao-dân ca để làm sáng rõ những giá trò về nội dung và nghệ thuật của nó.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh ca dao-dân ca mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc
qua nhiều khía cạnh. Nghiên cứu về ca dao–dân ca luôn là đề tài thú vò, đa dạng và
dường như là nguồn cảm hứng vô tận với các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu ca dao-dân ca
là trở về với cội nguồn dân tộc. Nếu thống kê các công trình nghiên cứu về ca dao-dân
ca, chúng ta sẽ thấy một khối lượng đồ sộ các tác phẩm, từ đó chúng ta thấy các nhà
nghiên cứu đã chú trọng đến ca dao-dân ca như thế nào và chúng ta thêm tự hào, yêu quý
kho tàng văn học dân gian của dân tộc.
Việc nghiên cứu đề tài “Thò hiếu thẩm mó của người Việt qua ca dao” rất quan
trọng vì nó giúp chúng ta hiểu được ý thích, tình cảm và tâm hồn của ông cha ta. Ý thích
của con người bộc lộ trong đời sống hàng ngày, từ đó hình thành nên thò hiếu. Thò hiếu
thẩm mó thuộc lónh vực văn hoá mà khái niệm về văn hoá đã được Chủ tòch Hồ Chí Minh
khái quát như sau: “Văn hoá là sự tổng hợp của một phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn” [91]. Do đó, việc tìm hiểu thò hiếu thẩm mỹ cũng là để tìm hiểu
đặc trưng, bản sắc văn hoá dân tộc mà theo GS. Lê Ngọc Trà: “Đặc trưng và bản sắc của
văn hoá dân tộc có thể được quan sát từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Có thể tiếp
cận vấn đề này từ phương diện ngôn ngữ, tâm lí, văn học, âm nhạc, kiến trúc, từ góc độ
dân tộc học, văn hoá dân gian hay y đức.v.v… Mỗi cách nhìn giúp chúng ta nhận biết một
nét nào đó chung cho mọi lónh vực, có mặt trong hầu khắp các hoạt động văn hoá hoặc ít
ra cũng là đặc điểm riêng của mỗi loại hình, tạo thành nét đặc trưng dân tộc của nó trong
tương quan giữa các nền văn hoá khác” [99, tr.6].Và “khám phá cho được đặc trưng ấy là
một mục tiêu quan trọng không phải chỉ có ý nghóa trong phạm vi văn hoá mà còn có
những giá trò thực tiễn- xã hội to lớn” [99, tr.6]. “Việc khảo sát văn hoá dân tộc dưới
nhiều góc độ khác nhau cho phép hiểu về dân tộc đầy đủ, phong phú hơn” [99, tr.6].
Theo GS. Nguyễn Văn Huy trong “Tìm hiểu bản sắc văn hoá các dân tộc ở nước ta nhìn
từ góc độ bảo tàng dân tộc học” thì “Bản sắc văn hoá dân tộc không phải là cái gì cao xa,
cổ kính, khó nhận thức được mà trước hết là cái bình dò, đời thường, đương đại, được cộng
đồng tiếp nhận, sử dụng và sáng tạo” [99, tr.102].
Luận văn cung cấp tư liệu thống kê số lượng các mặt thò hiếu thẩm mó của người
Việt qua cách cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của con người. Từ đó, người đọc
có thể dễ dàng tìm hiểu những giá trò văn hoá truyền thống, bản sắc dân tộc, thò hiếu
thẩm mó dân gian của nhân dân ta. Khi nghiên cứu về ca dao- dân ca, chúng tôi muốn tìm
hiểu về thò hiếu thẩm mó của nhân dân ta, dân tộc ta. Việc nghiên cứu thò hiếu thẩm mó
của người Việt qua ca dao- dân ca giúp ích nhiều trong công tác giảng dạy ca dao-dân ca
ở trường phổ thông.Vì từ đó, học sinh hiểu thêm về đời sống tâm tư, tình cảm của người
lao động, có cái nhìn đúng đắn về họ.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Thò hiếu thẩm mó của người Việt qua ca
dao-dân ca” với mong muốn góp phần giúp mọi người hiểu thêm về tâm tư , tình cảm,
quan điểm của người lao động; hiểu thêm về bản sắc văn hoá dân tộc, văn hoá dân gian
Việt Nam.
2- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Từ lâu, các nhà nghiên cứu cũng đã viết về thò hiếu của người Việt nhưng các bài viết
còn riêng lẻ từng vấn đề, từng mặt nhỏ, chưa tạo thành một chỉnh thể. Các bài viết chỉ
chú ý đến khía cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam chứ chưa chú ý đến
thò hiếu thẩm mó của người Việt. Luận văn của chúng tôi sẽ nhấn mạnh đến khía cạnh
này.
Nguyễn Văn Huyên trong “Góp phần nghiên cứu Văn hoá Việt Nam” với chương
“Bức tranh đòa lý hành chính của một tỉnh Việt Nam xưa: Tỉnh Bắc Ninh”, tác giả nghiên
cứu rất kỹ về tỉnh Bắc Ninh trong các thời kỳ lòch sử khác nhau cùng số liệu các thôn xã,
qua đó thể hiện niềm tự hào về non sông gấm vóc: “Đòa danh Bắc Ninh, ngày nay là tỉnh
Bắc Ninh, của xứ Bắc Kỳ….ở phần giữa tỉnh có con sông đào Thiên Đức (nay là sông
Đuống), chảy qua từ tây sang đông, phía tây và tây nam có sông Nhò Hà, tức sông Hồng
bao bọc; mặt bắc có sông Cầu và mặt đông có sông Thái Bình” [49, tr.253]. Ở chương
“Làng, thành phố”, hình ảnh làng quê hiện ra với vẻ đẹp quyến rũ: “Làng người Việt
thường được lập gần sông và kênh. Từ xa, trông nó như một cụm cây xanh trong đó mọc
lộn xộn những cây tre với hình dạng uy nghi, cây xoài lá thẫm màu, cây bông gạo, cây
mít, cây cọ… Màu xanh thẫm của lùm cây nhiều vẻ này nổi bật ở chân trời trên màu xanh
nhạt hơn ở ruộng lúa. Về mùa xuân, màu đỏ của hoa phượng và bông gạo làm nổi rõ ở
đấy một phong cảnh vô cùng đẹp mắt” [49, tr.668]. Tác giả còn miêu tả chi tiết vẻ đẹp
hình thể của người Việt qua chương “Chủng tộc Việt” như sau: “Người Việt, lúc còn là
trẻ con, có những nét rất thanh tú và quả là duyên dáng như ta thường nói. Lúc đứng tuổi,
sự biểu hiện của diện mạo ít dễ chòu hơn; một số người thậm chí rất xấu xí ở thời kỳ này.
Trái lại, những khuôn mặt có chòm râu nhỏ và tóc bạc và cứng thì lại đẹp và không thiếu
một vẻ oai vệ thật sự…Về đại thể, người Việt rất mềm mại và có khiếu về vận động thân
thể”[49, tr.555]. Khi viết về “Y phục của người Việt”, tác giả đã miêu tả nón, áo, quần,
tóc, guốc, giày, nữ trang của người Việt xưa và nay (người lớn và trẻ con). Tác giả còn
miêu tả lễ phục và quần áo tang của họ. Tác giả đã cho biết: “Lập nên lòch sử của bộ y
phục của người Việt là cực kì khó khăn, bởi vì thiếu gần như hoàn toàn những tư liệu về
tình trạng xã hội của đất nước này” [49, tr.465]. Viết về con vật, tác giả chú ý đến con
rồng–con vật linh thiêng, quen thuộc với người Việt–cho rằng: “Rồng vẫn được coi là kẻ
ban phát ân huệ và hạnh phúc. Mọi người dùng hình ảnh nó để tạo nên mưa thuận gió
hoà… Mùa xuân, người ta đôi khi mang rồng đi trong các đám rước thần. Nó phải đóng
góp cho sự thành công của vụ lúa chiêm… Rồng đan bằng tre, phủ giấy và vải. Người ta
cho nó một cái mình đầy vảy và gai màu lam hoặc xanh, một cái đuôi lởm chởm, cái đầu
có râu ria rậm rạp, mắt sáng quắc liếc đi liếc lại, bốn chân lủng lẳng với móng vuốt
khủng khiếp…”[49, tr.113]. Như vậy là tác giả đã cho người đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của
thiên nhiên, đất nước qua các đòa danh, làng xã,…Tác giả còn cho thấy được nét đẹp hình
thể con người, sở thích của người Việt xưa và nay qua y phục, thò hiếu của người Việt qua
hình ảnh con rồng. Tác giả Nguyễn Văn Huyên đã có công rất lớn đối với nền Văn hoá
Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan với “Tục ngữ-ca dao-dân ca Việt Nam” khi viết về “Tình yêu
của nhân dân Việt Nam trong ca dao” đã cho rằng: “Lòng yêu đất nước của nhân dân
Việt Nam không thể hiện một cách bóng gió khắp toàn bài ca dao như những thơ văn
“thời thế” của những người nho só. Lòng yêu đất nước của nhân dân Việt Nam hoà với
lòng yêu đồng ruộng, cảnh chợ, con đò; trong tình yêu ấy, nhân dân nói lên những cái
đặc biệt, những cái phong phú của từng miền, những cái lớn lao của sông núi, của thác,
của rừng, những cái hiểm trở nó làm cho giặc ngoại xâm khiếp sợ… Có yêu cảnh thiên
nhiên của đất nước với lòng yêu thắm thiết, nhân dân Việt Nam mới thấy một con sông
tuy không lớn mà nước chảy tràn trề, dãy núi tuy không cao mà rừng cây thật là rậm rạp…
Tình yêu của nhân dân Việt Nam biểu hiện muôn màu muôn vẻ, đối với người cũng như
đối với cảnh, đối với đất nước” [76, tr.57-58-59]. Trong chương “Về vũ trụ, con người, xã
hội”, tác giả đã đưa ra ý kiến như sau: “Gần gũi với thiên nhiên, nhân dân lao động Việt
Nam có những nhận xét tế nhò đối với các hiện tượng thiên nhiên cũng như đối với cảnh
vật thiên nhiên” [76, tr.90]. Ý kiến này đã thể hiện quan niệm của người Việt về thiên
nhiên hay cũng chính là tác giả muốn đề cập đến vấn đề thò hiếu thẩm mó của người Việt
qua thiên nhiên. Tuy nhiên, vấn đề này tác giả mới chỉ nêu lên và đưa ra những dẫn
chứng tiêu biểu, chưa xoáy sâu vào vấn đề. Ở chương “Đất nước và con người qua tục
ngữ - ca dao”, tác giả viết: “Đất nước và con người có quan hệ mật thiết với nhau” [76,
tr148]. Tác giả cho rằng: “Đất nước ta tươi đẹp không chỉ ở núi rừng, ở sông hồ, biển cả
mà còn ở những mặt rất thực tế, nó là cơ sở kinh tế nước ta như đồng ruộng bao la, vừa
nhiều cây lương thực, vừa nhiều cây công nghiệp, sông bể lắm cá, lắm tôm cua, rừng lắm
gỗ quý, núi nhiều đá đẹp, dưới đất nhiều khoáng sản như than, vàng và nhiều kim loại
khác,…”[76, tr.155].Tác giả khi viết về con vật đã chú ý nhiều đến con trâu, con cò và
con bống, ông cho rằng: “…đối với con trâu người nông dân cũng biểu lộ tất cả sự chăm
sóc, trìu mến của họ. Con trâu là công cụ lao động rất quan trọng của người nông dân, nó
đóng vai trò quyết đònh trong công việc đồng áng. Cho nên con trâu cũng trở thành “nhân
vật” quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Tình cảm của người nông dân Việt Nam đối
với con trâu thật là thắm thiết…Chẳng những đối với con trâu mà đối với tất cả cái gì có
quan hệ hay gắn liền với đời sống lao động của người nông dân, người nông dân đều yêu
mến đặc biệt” [76, tr.60-61]. Và “Người dân lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và
con bống vào ca dao là đưa môït nhận thức đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào
văn nghệ, lấy cuộc đời của những con vật trên đây để tượng trưng vài nét đời sống của
mình, đồng thời cũng dùng những hình ảnh ấy để khêu gợi hồn thơ” [76, tr.79]. Con người
Việt Nam qua ca dao theo quan niệm của tác giả thì: “thân hình, dáng dấp người Việt
Nam rất đẹp… thân hình cân đối nở nang, vẻ mặt tươi giòn, miệng cười như hoa, cặp mắt
trong sáng, sắc sảo, dáng đi nhanh nhẹn” [76, tr.163]. Tác giả cũng tìm hiểu về cách ăn
mặc, trang sức, chất liệu may y phục của người Việt: “n và mặc mỗi nơi có khác nhau
về màu sắc, như về vải, lụa, về y phục, về thức ăn của người Việt thì ở khắp mọi nơi trên
đất nước ta đều giống nhau, chứng tỏ về ăn mặc, một nếp sống chính của con người, dân
tộc Việt Nam cũng thống nhất suốt từ Bắc đến Nam… Cô gái nông thôn nước ta ăn mặc
giản dò: cái áo cánh, cái quần vải thâm, cái khăn mỏ quạ”[76, tr.163]. Như vậy là, tác giả
Vũ Ngọc Phan đã đi vào việc tìm hiểu vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người
Việt Nam qua tục ngữ-ca dao. Bài viết mới đứng ở mức độ miêu tả, thể hiện ở tư thế
người cảm nhận, chưa đi sâu vào nghiên cứu việc cảm nhận về thiên nhiên và con người
của người Việt.
Toan nh trong “Ta về ta tắm ao ta” đã góp phần tìm hiểu về văn hoá dân tộc qua
việc miêu tả, thể hiện thò hiếu của người Việt trên các mặt: cây đa đầu làng, sông làng,
ao làng, giếng nước làng quê, bến đò, làng dưới nước và luỹ tre làng. Ở bài “Cây đa đầu
làng” tác giả đi sâu vào: ý nghóa tượng trưng, công dụng (chính, phụ), những điều huyền
bí của cây đa đối với dân làng và đưa ra cảm nhận:“Cây đa đầu làng ăn vào lề thói của
nếp sống dân quê, và cây đa có liên quan mật thiết với người dân” [5, tr.6]; Khi xa quê
hương, hình ảnh cây đa luôn trong kí ức. Trong bài “Sông làng”, tác giả viết về công
dụng của con sông, tình cảm của dân làng đối với con sông, ý nghóa của con sông đối với
dân làng, nguồn gốc phát sinh ra sông: “Ý nghóa đầu tiên là uống nước thì phải nhớ
nguồn… Sông thì phải có nguồn, có nơi phát nguyên của sông là rừng núi, nơi đây những
dòng nước nhỏ ẩn dưới lùm cây từ từ chảy về xuôi, gặp nhau tạo thành những suối, rôì
đôi ba con suối mới hợp lại thành sông. Những con suối này có khi chảy qua những ghềnh
đá tạo nên những thác rất đẹp, thường là những thắng cảnh của đất nước” [5, tr.24-25].
Trong bài “Ao làng”, tác giả viết về ý nghóa linh thiêng của ao đối với dân làng,miêu tả
ao, công dụng của ao, đặc biệt nhấn mạnh: “Nước ao làng chính là sợi dây thân tình của
dân làng, tạo sự thắm thiết giữa người với người. Cùng chia nhau một nguồn nước, ngườøi
làng giống như những đứa con trong một gia đình cùng chia nhau một nguồn sữa mẹ” [5,
tr.44], “ao làng tạo niềm tin giữa dân làng, duy trì đạo đức và khuyến khích trong việc
giữ gìn, bảo vệ làng từ tinh thần đến vật chất” [5, tr.48]. Ở bài “Giếng nước làng quê”,
tác giả miêu tả một số giếng làng, tín ngưỡng của người Việt đối với giếng: “Với phương
diện siêu hình, giếng cũng có thần giếng! Đối với sự tin tưởng của dân làng bất cứ cái gì
có ích hoặc hại được người đều có thần, nếu không có thần thì cũng có ma trú ngụ…”[5,
tr.61]. Trong bài “Bến đò”, tác giả cũng miêu tả bến đò, công dụng của bến đò, viết về
khách đi đò,…kết lại bằng câu: “Hình ảnh con đò bến nước mãi mãi còn lại trong mỗi
chúng ta” [5, tr.70]. Ở bài “Làng dưới nước”, tác giả miêu tả những sinh hoạt, tập tục, tín
ngưỡng, nghề nghiệp của dân làng với lời kết: “Làng thuỷ cơ nằm trong nếp sống Việt
Nam, góp phần vào sự thònh vượng của đất nước…”[5, tr.85]. Bài “Luỹ tre làng”, tác giả
viết rất chi tiết qua các mục: Nguồn gốc luỹ tre, ý nghóa tượng trưng, công dụng, luỹ tre
với hào nước quanh làng, tình thắm thiết của dân làng với luỹ tre: “Luỹ tre làng đối với
dân làng thật là thắm thiết. Người dân quê yêu quý quê hương, họ không thể thờ ơ với
luỹ tre. Những ai phải ly hương, tới ngày về quê cũ, từ xa xa làng đã rộn ràng khi trông
thấy cây đa đầu làng cao ngất và luỹ tre làng xanh mướt mòn màng, lòng không dâng lên
một cảm giác nồng nàn da diết”[5, tr.106]. Như vậy là tác giả Toan nh đã viết về thò
hiếu của người Việt qua các hình ảnh thân thuộc: cây đa, sông, ao, giếng, bến đò, làng
dưới nước, luỹ tre nhưng giới hạn ở làng quê Việt Nam.
Trần Quốc Vượng với bài viết “Văn hoá–Văn nghệ dân gian Việt Nam–Cội rễ–
Tảng nền-Bản lónh–Bản sắc–Cần gìn giữ và phát huy trong việc xây dựng một nền văn
hoá Việt Nam mới –tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” đã nhấn mạnh, đề cao nhân tố con
người trong văn hoá–văn nghệ dân gian Việt Nam. Tác giả cho rằng “con người có
nhiều chiều quan hệ:
+ Quan hệ với Tự nhiên (Trời–Đất): chiều Cao.
+ Quan hệ với Xã hội–nhân gian: chiều Rộng.
+ Quan hệ với chính mình: chiều Sâu tâm linh.
+ Quan hệ với Tổ tiên (đã qua), với con cháu mai sau:chiều lòch sử”[49,tr.15].
Tác giả khẳng đònh: “Có con người là có văn hoá, gồm các hệ biểu tượng, chuẩn mực,
giá trò, mã và sự giải mã”[49, tr.17]. Từ đó, tác giả kêu gọi mọi người trong Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam: “Gắng sức tiếp tục đi đúng hướng, liên kết chặt chẽ 5 khâu: sưu
tầm, nghiên cứu, phổ biến, truyền dạy, phát huy di sản văn hoá dân gian của mọi cộng
đồng người” [49, tr.23-24]. Vì vậy, trong luận văn này chúng tôi cố gắng góp phần tìm
hiểu thêm về con người Việt Nam qua ca dao–dân ca.
Nguyễn Xuân Kính trong “Thi pháp ca dao” viết về cây, hoa (trúc, mai, hoa nhài),
con vật (con cò, con bống) dưới góc độ biểu tượng. Sau khi so sánh với văn học viết, tác
giả đã kết lại là: “Tác giả dân gian không mấy khi tả thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc
đến “mai”, “trúc” là nhằm để thể hiện con người” [53, tr.191]. Về “hoa nhài”, tác giả
nhận xét: “Hoa nhài có những nghóa biểu cảm khá đặc biệt, thể hiện quan niệm thẩm mó
của từng dòng văn học, từng thời đại… Hoa nhài được ví với nụ cười đáng yêu của người
con gái ”[53, tr194]. Về “Con bống, con cò”, Nguyễn Xuân Kính đồng ý với nhận xét của
nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan và sau khi đưa ra các dẫn chứng để phân tích, tác giả kết
lại như sau: “Như vậy là trong kho tàng dân ca, ca dao của người Việt có hai bộ phận
nhắc đến con cò. Những lời trong bộ phận thứ nhất có ý nghóa đúng như Vũ Ngọc Phan
đã phân tích khá đầy đủ và sâu sắc trong bài tiểu luận Một đặc điểm trong tư duy hình
tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc đời: đời người với đời con cò và con bống. Trong
những lời này, con cò là hình ảnh của người nông dân xưa. Những lời thuộc bộ phận thứ
hai là loại ca dao thanh mà tục, tục mà thanh. Trong những lời đó, con cò không phải là
hình ảnh của người nông dân cũng không phải là phong kiến thống trò” [53, tr.214]. Trong
“Thi pháp ca dao”, tác giả cũng viết về: “Cách dùng tên riêng chỉ đòa điểm” (đòa danh),
cách phân loại đòa danh trong ca dao và số lần xuất hiện, cho rằng: Những tên riêng đó
gồm ba loại: “Tên các đơn vò hành chính: làng, xã, huyện, tổng, phủ, tỉnh, trấn, xứ, nước.
Tên những đòa điểm vốn là đối tượng lao động và những đòa điểm phục vụ giao thông:
sông, suối, ao, đầm, giếng, núi, rừng, đèo, hang, động, phá, cù lao, mũi, biển, cầu, đường,
bãi, bến… Tên những đòa điểm thực hiện sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng: Chợ, quán, đền,
chùa, miếu, đình…”[53, tr.101]. Cuối cùng, tác giả kết lại là: “Ca dao nhắc nhiều đến tên
làng, tên các tỉnh và tên Thăng Long, Hà Nội… chứng tỏ người dân Việt đã gắn bó với
làng từ rất sớm và rất bền vững, đồng thời lại sớm có ý thức dân tộc…”[53, tr.101]. Trong
luận văn này, chúng tôi viết về cây cối, con vật trong ca dao–dân ca dưới khía cạnh thò
hiếu của người Việt; Còn về “đòa danh” thì chỉ giới hạn trong những đòa danh mà người
Việt thích, những đòa danh gắn với cảnh đẹp của thiên nhiên. Như vậy, tác giả Nguyễn
Xuân Kính đã phần nào nói đến tình yêu thiên nhiên, đất nước, con vật của người Việt
qua ca dao–dân ca.
Nguyễn Tấn Phát trong tiểu luận “Vài nét về nội dung ca dao–dân ca Nam
bộ” đã so sánh thiên nhiên ở miền Bắc, miền Trung với miền Nam, để rồi rút ra nét đặc
trưng riêng cho thiên nhiên miền Nam. Tác giả viết: “Thiên nhiên Nam bộ mang nhiều
sắc thái độc đáo rất dễ phân biệt với các miền khác của đất nước. Đấy là xứ sở của đồng
lúa, vườn cây và sông ngòi. Nắng sáng mưa chiều, khí hậu điều hoà, đất đai phì nhiêu
nuôi cho cỏ cây đâm bông kết trái. Sông rạch chằng chòt cho đất phù sa, cho người tôm
cá, nước uống, khêu gợi ý thơ. Dưới bầu trời cao xanh bát ngát là những cánh đồng lúa
chạy hút mắt người, những vùng bốn mùa đông vui như đô thò, trên bến dưới
thuyền…”[36, tr.351]. Tác giả rút ra kết luận: “Nhưng khác với ca dao-dân ca các miền
khác, ca dao dân ca Nam Bộ phản ánh đậm nét nhất hai mặt của cùng một đối tượng:
Cảnh hoang vu khắc nghiệt của một vùng đất chưa có bàn tay con người khai phá; những
trở lực mà con người phải dày công phấn đấu qua nhiều năm tháng mới có thể khắc phục
được. Sự ưu đãi của thiên nhiên khi đã được con người chinh phục, sự giàu có và phong
phú của những sản vật do bàn tay con người tạo ra”[36, tr.352]. Viết về tôm cá ở Nam
Bộ, tác giả cho rằng: “Sông nước Nam Bộ trước đây đâu mà chẳng nhiều cá tôm. Ở một
số vùng, đã có thời kì khi đóng đáy, tát đìa, người ta chỉ lựa bắt loại cá lớn, thòt thơm
ngon. Cá ăn không hết phải làm mắm…Tôm cá nhiều nên nghề đánh bắt cũng chia thành
nhiều loại….”[36, tr.353]. Tác giả đã phân biệt nét riêng của ca dao- dân ca miền Bắc và
miền Nam khi viết về làng xóm như sau: “Hình ảnh một cái làng với những truyền thống
văn hoá riêng, với những nghề nghiệp riêng không đậm nét trong ca dao dân ca Nam Bộ.
Làng ấp Nam Bộ thường trải dài dọc các sông rạch và các trục đường giao thông. Điều
kiện đòa lí và tính chất trẻ trung của nó không tạo ra sự cách biệt với các làng khác. Điều
này cũng là sự khác biệt khá quan trọng so với các làng xã đã được quây quần trong luỹ
tre xanh và được lập từ rất lâu đời ở miền Bắc. Đây chính là nguyên nhân giải thích vì
sao làng xã lại có một ý nghóa to lớn trong tâm tình của người dân Bắc Bộ” [36, tr.354].
Tình yêu quê hương trong ca dao–dân ca Nam Bộ được tác giả đúc kết bằng lời văn mượt
mà: “Quê hương, đó là tất cả những gì thân thuộc nhất đối với mỗi người, là ruộng lúa,
vườn cà, bóng dừa bên sông, hàng cau gọi nắng, là những điệu hò, điệu lí, những chiều
nước lớn, những buổi nước ròng, chiếc cầu tre bắc ngang sông nước, chiếc ghe bầu trở
lái, tiếng bìm bòp gọi nước vơi đầy, là câu hẹn hò của đôi trai gái, là những tên đất, tên
làng nghe thân thương, trìu mến như: Giồng Dừa, Rạch Miễu, Ba Làng, Xa Nó, Bến Tre,
Nhà Bè, Đồng Nai, Gia Bình, Rạch Gầm, Xoài Mút, Gò Công… Những tên làng, tên đất
ấy đã thấm biết bao mồ hôi nước mắt của cha ông, đã đi vào ca dao–dân ca như một hình
anûh gần gũi, thân thương” [36, tr.355-356]. Ở đây, tác giả chỉ mới đi vào việc tìm hiểu
nét riêng ở Nam bộ, còn chúng tôi tìm hiểu chung cả ba miền về thiên nhiên và con
người qua ca dao-dân ca.
Trần NgọcThêm trong “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” qua chương “Đối phó
với môi trường tự nhiên: Mặc và làm đẹp con người”-đã viết về vấn đề “Quan niệm về
mặc và nguồn gốc nông nghiệp trong chất liệu may mặc của người Việt” như sau: “Mỗi
dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc, đã trở thành biểu tượng của
văn hoá dân tộc. Cách ăn mặc, trang sức truyền thống của người Việt Nam không thể nào
trộn lẫn với cách ăn mặc của người Trung Quốc, n Độ, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái
Lan,… Mọi âm mưu đồng hoá sau khi xâm lăng đêù bắt đầu từ việc đồng hoá cách ăn
mặc…”[94, tr.375]. Như vậy là tác giả đã cố gắng đi tìm cái riêng trong cách ăn mặc của
người Việt. Theo tác giả, cái riêng đó là do cái “chất nông nghiệp” thể hiện qua chất liệu
may mặc: tơ tằm, tơ chuối, tơ đay, tơ gai,… Tác giả cũng viết về “Cách thức trang phục
qua các thời đại và tính linh hoạt phù hợp với môi trường trong cách mặc của người
Việt”. Ở mục này, tác giả viết về đồ mặc phía dưới , đồ mặc phía trên của phụ nữ, nam
giới Việt Nam. Tác giả còn viết về áo mặc lễ hội cho cả hai giới và “những bộ phận phụ
khác” như: guốc, dép, hài, giày, thắt lưng, khăn đội đầu, nón, mũ, trang sức; Những tục
lệ: nhuộm răng, ăn trầu, nhuộm móng chân, móng tay. Cuối cùng, tác giả đã kết luận:
“Người Việt Nam đã biết tận dụng thế mạnh của nền văn minh thực vật để chế tạo trang
phục đối phó với khí hậu nhiệt đới nóng bức… Bên cạnh chức năng đối phó với môi
trường tự nhiên, việc may mặc còn luôn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người” [94,
tr.394]. Đây là công trình nghiên cứu công phu, có giá trò cao, như vậy là tác giả Trần
Ngọc Thêm đã tìm hiểu thò hiếu thẩm mó của người Việt Nam qua trang phục, tục lệ,…
Còn chúng tôi, trong luận văn này cũng tìm hiểu thò hiếu thẩm mó của người Việt qua
trang phục nhưng giới hạn ở ca dao- dân ca.
Nguyễn Nghóa Dân (sưu tầm và biên soạn) với “Lòng yêu nước trong Văn học Dân
gian Việt Nam” đã tuyển chọn, sắp xếp các thể loại Văn học dân gian có nội dung yêu
nước theo các thời kì. Trong chương “Lòch sử –Đất nước–Con người”, tác giả đã viết về
ca dao thể hiện nội dung trên trong thời kì xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc
lập [18]. Bài viết cũng có nói về vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước nhưng vẫn chỉ bao quát
chung, sơ lược.
Cũng nghiên cứu về ca dao Nam Bộ như tác giả Nguyễn Tấn Phát, tác giả Nguyễn
Văn Hầu trong “Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ” cho rằng: “Thưởng thức ca dao,
người ta sẽ cảm và sẽ thấy được những hình tượng vó đại của lòch sử dựng nước của cha
ông, những cảnh sắc dòu dàng nên thơ, những đồng vườn căng no màu mỡ nhờ bàn tay
của nhiều thế hệ lao động cần mẫn khai phá” [41, tr.66]. Tác giả đã cho thấy tác động
của ca dao đối với tình cảm, thò hiếu của con người.
Hà Châu trong “Văn học dân gian sau luỹ tre xanh” đã nhận xét như sau: “Lòng
yêu quê hương xóm làng, tình cảm thiết tha gắn bó với cảnh vật nơi chôn nhau cắt rốn là
nguồn vô tận cho sáng tác dân gian. Dòng sông, ngọn núi, mái đình, ngôi chùa, giếng
nước, bờ tre, bụi lúa… đã trở thành hình tượng quen thuộc của ca dao, dân ca, truyện kể.
Cũng một dòng sông, một ngọn đồi nhưng dòng sông ngọn đồi của quê hương sẽ khơi dậy
biết bao tình nghóa sâu nặng… Cũng cái giếng nước nhưng giếng nước làng ta mới là
nguồn cảm hứng trực tiếp cho cô gái nhắn nhủ người yêu… Cái giếng nước ấy bao giờ
cũng đi liền với tâm sự con người… Đặc sắc nhất là hình tượng cây cổ thụ. Cây đa, cây
gạo hàng trăm năm sống với xóm làng tượng trưng cho những gì bền vững nhất, chung
thuỷ nhất… Các cụ già lấy tuổi cây đa để tính tuổi mình. Đời sống của cây gắn liền với
vận mạng của dân làng” [84, tr.26-27]. Như vậy là tác giả đã tìm hiểu lòng yêu nước, yêu
cảnh vật của người Việt ở nét bao quát, chưa cụ thể.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu có liên quan đến việc tìm hiểu thò hiếu
thẩm mó của người Việt qua ca dao- dân ca và chúng tôi cố gắng tìm hiểu sâu hơn về vấn
đề này trong giới hạn của luận văn thạc só.
3- PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tìm hiểu thò hiếu thẩm mó của người
Việt với hai vấn đề: thò hiếu thẩm mó bộc lộ qua việc cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên và
qua cách cảm nhận về vẻ đẹp con người. Những vấn đề khác như thò hiếu trong đời sống,
trong thưởng thức nghệ thuật, chúng tôi tạm không đề cập đến ở đây.
Ở luận văn này, chúng tôi khảo sát ca dao–dân ca của người Việt ở cả ba miền đất
nước (không khảo sát ca dao- dân ca của các dân tộc ít người). Vì số lượng các lời ca dao
rất nhiều nên chúng tôi chỉ khảo sát thò hiếu thẩm mó của người Việt qua ba tập của “Kho
tàng ca dao người Việt” mà thôi. “Kho tàng ca dao người Việt” do Nguyễn Xuân Kính,
Phan Đăng Nhật chủ biên. Tư liệu này gồm ba tập, với số lượng là 11.825 lời (chưa kể
các dò bản). Tư liệu này chủ yếu tập hợp những lời ra đời từ trước Cách mạng tháng Tám
(1945). Tổng số sách dùng để biên soạn là 37 cuốn (46 tập), trong đó có cả sách Hán
Nôm và sách quốc ngữ. Đây là một công trình biên soạn công phu, qui mô, tập hợp ca
dao cả ba miền đất nước. Các số liệu thống kê trong luận văn đều lấy từ ba tập của “Kho
tàng ca dao người Việt”. Ba tập của tư liệu này có số trang liên tiếp nhau. Do đó, để tiện
theo dõi và kiểm chứng, khi dẫn các bài ca dao, chúng tôi đều ghi kèm theo đòa chỉ (số
câu, trang) ở dưới lời ca dao. Ví dụ: (Câu 47- tr.1727).
4- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau :
4.1. Phương pháp thống kê :
Việc sử dụng phương pháp thống kê cho phép chúng tôi tính toán được số lượng nhiều
hay ít trong việc cảm nhận về thiên nhiên, con người của người Việt. Nhờ sử dụng
phương pháp thống kê, chúng tôi có thể đưa ra được những cứ liệu cụ thể, chính xác trong
quá trình nghiên cứu, từ đó mới có thể đánh giá đúng người Việt yêu thích hay ghét điều
gì nhất. Nguyễn Xuân Kính đã viết: “Kết quả của việc thống kê khách quan cho phép
nhà nghiên cứu đi đến những kết luận, những khái quát khoa học, tránh được những suy
luận chủ quan, gò ép”[115, tr.139].
4.2. Phương pháp hệ thống :
Đây là một trong những phương pháp chủ yếu của nghiên cứu văn học. Hệ thống là một
tập hợp gồm những bộ phận có liên quan chặt chẽ với nhau, hay nói cách khác là mối
liên hệ gắn bó chặt chẽ các bộ phận nhỏ với nhau. Việc tìm hiểu thò hiếu thẩm mó của
người Việt qua ca dao phải sử dụng phương pháp hệ thống. Từ những lời ca dao riêng lẻ,
chúng tôi phải tập hợp lại thành hệ thống, từ đó mới có thể tìm hiểu đúng thò hiếu của
người Việt.
4.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành :
Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài này là ca dao, mà muốn hiểu rõ về ca dao phải vận
dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau như: lòch sử, đòa lí… nên phương
pháp nghiên cứu liên ngành rất hữu ích cho việc nghiên cứu.
5- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN :
Chúng tôi thực hiện đề tài này với mong muốn :
- Góp phần tìm hiểu thò hiếu thẩm mó của người Việt qua thái độ đối với thiên nhiên và
con người thể hiện trong ca dao- dân ca.
- Góp phần thiết thực vào việc nghiên cứu, phân tích, giảng dạy ca dao trong nhà trường
phổ thông.
- Góp phần hiểu thêm về bản sắc văn hoá dân tộc, văn hoá dân gian Việt Nam.
6- KẾT CẤU LUẬN VĂN :
Luận văn bao gồm các phần sau đây :
- Mở đầu :
+ Mục đích, ý nghóa của đề tài
+ Lòch sử vấn đề
+ Phạm vi nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu
+ Đóng góp của luận văn
+ Kết cấu luận văn
- Chương 1 : Quan niệm về thò hiếu thẩm mó.
- Chương 2 : Thò hiếu thẩm mó của người Việt bộc lộ qua cách cảm nhận vẻ đẹp
thiên nhiên.
-Chương 3 : Thò hiếu thẩm mó bộc lộ qua cách cảm nhận về vẻ đẹp con người.
- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.
CHƯƠNG 1 : KHÁI NIỆM THỊ HIẾU THẨM MĨ
1.1.KHÁI NIỆM THỊ HIẾU THẨM MĨ :
Đây là một thuật ngữ được sử dụng nhiều trong ngành: mỹ học, nghệ thuật học và lý luận
văn học không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Thò hiếu thẩm mó là một cách con
người khám phá, cảm nhận thế giới thẩm mó. Bồi dưỡng thò hiếu thẩm mó sẽ giúp con
người loại bỏ cái sai, cái xấu, cái phi lý, cảm nhận cái đúng, cái đẹp, cái hài hoà. Thò
hiếu thẩm mó là khái niệm bao hàm những nội dung đa dạng. Từ xưa, mỗi dân tộc có
cách đònh nghóa khác nhau: có khi thò hiếu được coi là sự thích thú, là sự lựa chọn, là sở
thích của cá nhân hay nhóm người nào đó ; Có khi nó được coi là cảm giác, khẩu vò. Mỗi
người có những sở thích khác nhau. Có nhiều quan niệm khác nhau về thò hiếu thẩm mó.
Dẫn theo “Giáo trình Mỹ học đại cương” của Trường Đại học Xã hội và Nhân văn–khoa
Triết học thì Gracian Moralis–nhà tư tưởng Tây Ban Nha (1601–1658)- quan niệm thò
hiếu thẩm mó là cảm giác về cái đẹp và nghệ thuật [63, tr.203]; L.N.Stôlôvích–nhà tư
tưởng Nga-coi thò hiếu thẩm mó là giá trò thẩm mó của cá nhân, là năng lực tập trung đánh
giá và phân biệt giữa giá trò thẩm mó chân chính và giả hiệu, là năng lực phát hiện sắc
bén giá trò thẩm mó trong các sắc thái của nó [63, tr.206]. Một số nhà nghiên cứu quan
niệm thò hiếu thẩm mó là bản năng bẩm sinh, vốn có của con người. Một số người lại cho
rằng thò hiếu thẩm mỹ là sự thần bí của thiên nhiên. Nhưng lại có người chủ trương không
nên bàn về thò hiếu thẩm mó. Mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp ở các thời đại khác
nhau đều có sự đánh giá thò hiếu thẩm mỹ khác nhau. Sở thích biểu hiện trong mọi lónh
vực hoạt động xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của con người. Sở thích có nhiều
loại: tốt, xấu, không tốt cũng không xấu. Thò hiếu thẩm mó là sở thích của cá nhân về
phương diện thẩm mó. Thò hiếu thẩm mó là một khái niệm rất phức tạp.
Tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ có nhiệm vụ gây nên tình cảm mà nó còn
phải truyền đạt cái đẹp đến cho mọi người. Xuất phát từ việc cố gắng tìm hiểu cái “tình
cảm đặc thù của cái đẹp và tìm cái khả năng tri giác tương ứng” [122, tr.101], Hêghen
trong cuốn“Mỹ học” cho rằng: “Ta phải tìm hiểu văn hoá với tính cách một điều kiện
chuẩn bò cho tri giác tương ứng và cái tình cảm về cái đẹp được văn hoá trau dồi mang
tên gọi là thò hiếu. Thò hiếu tuy là do văn hoá bồi dưỡng nên song vẫn còn giữ tính chất
một tình cảm trực tiếp” [122, tr.101]. Các nhà nghiên cứu trước đây đã cố gắng tìm cách
“bồi dưỡng thò hiếu” bằng các lý thuyết trừu tượng nhưng “thò hiếu ấy vẫn là một cái gì ở
bên ngoài và phiến diện” [122, tr.101]. Các lý thuyết này không làm cho người ta thoả
mãn vì khi phê bình tác phẩm nghệ thuật đã không đủ sức xây dựng một “phán đoán
minh xác” mà chỉ lo góp phần phát triển thò hiếu. Bồi dưỡng thò hiếu mà chỉ dừng lại ở
những câu nói mơ hồ và cố gắng tư biện thì làm sao có thể tìm thấy cái đẹp dù cái đẹp
xuất hiện ở mọi nơi và ở bất cứ thời đại nào ? Vì thế, Hêghen cho rằng: “Trình độ sâu sắc
thực sự của đối tượng không thể chỉ dựa vào thò hiếu mà tìm được” [122, tr.101]. Quan
điểm này rất đúng bởi vì: một trình độ sâu sắc không những đòi hỏi năng lực tri giác cái
đẹp ở trong các “tư biện trừu tượng” mà còn đòi hỏi phải có một trí lý hoàn chỉnh và sức
mạnh của tinh thần. Trong khi đó: “Thò hiếu lại chỉ bó hẹp vào cái vẻ bề ngoài hời hợt,
xung quanh đó các tình cảm khác nhau tha hồ hoạt động, và ta có thể dùng những cách
quy đònh phiến dòên đối với cái bề ngoài này. Chính vì vậy mà cái được gọi là một thò
hiếu tốt sợ mọi hậu quả sâu xa hơn do các tác phẩm nghệ thuật đưa đến, và nó sẽ câm
lặng ở nơi nào chính thực chất tác phẩm nghệ thuật bắt đầu lên tiếng và các nét bề ngoài
và thứ yếu tan đi” [122,tr.102]. Tác giả đưa ra lời giải thích đầy hình tượng như sau: “Bởi
vì nơi nào các dục vọng to lớn và các vận động của cái tinh thần sâu thẳm bộc lộ trước
mắt chúng ta, thì ở đấy đừng nói đến những sự phân biệt tế nhò của thò hiếu và những
điều tế toái vụn vặt. Thò hiếu cảm thấy thiên tài là vượt ra ngoài giới hạn của lónh vực
này, rồi nó ngơ ngác bàng hoàng trước sức mạnh kì vó của thiên tài, và nó chòu thua,
chẳng còn biết nói gì nữa” [122, tr.102]. Hêghen đã lí giải một cách chủ quan hay thần bí
thò hiếu thẩm mó vì tính dân tộc của thò hiếu. Có những hiện tượng thẩm mó mà dân tộc
này cho là phù hợp, dân tộc khác không chấp nhận. Do điều kiện tự nhiên và sinh hoạt xã
hội mà mỗi dân tộc hình thành những phong tục, tập quán riêng biệt. Hêghen cho rằng:
“Khi bàn về các tác phẩm nghệ thuật, người ta bắt đầu chú ý, không những đến việc giáo
dục thò hiếu mà còn chú ý cả đến việc phát hiện một thò hiếu tốt. Lúc đó người sành nghệ
thuật chiếm đòa vò dành cho thò hiếu của nhà phê bình” [122, tr.102]. Sau khi gạt bỏ
những con người cá biệt cùng các thò hiếu cá nhân ngẫu nhiên, Hêghen cho rằng: “Nếu ta
bước sang khảo sát thò hiếu của các dân tộc, chúng tôi sẽ thấy rõ ràng thò hiếu này cũng
hết sức khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Chúng ta thường nghe nói rằng người Trung
Quốc không thích những đàn bà đẹp Châu u, và người Hôttentôt lại càng không thích,
bởi vì người Trung Quốc có những quan niệm khác hẳn về cái đẹp so với người da đen và
người da đen đến lượt họ cũng có một quan nòêm khác người Châu u” [122, tr.117].
Trong cuốn “Mỹ học cơ bản nâng cao” do giáo sư M.F.p-xi-an-nhi-cốp chủ
biên, khái niệm thò hiếu thẩm mó được đònh nghóa như sau: “Thò hiếu thẩm mó là một
hình thái của ý thức thẩm mó. Hình thái này thống nhất được trong nó tình cảm thẩm mó
với lý tưởng. Nó phản ánh mối liên hệ của con người với tự nhiên và với thế giới xã hội”
[124, tr.151]. Thò hiếu thẩm mó tổng hợp hai mặt: “Một mặt, thò hiếu thẩm mó thể hiện ở
khả năng nói lên những nhận xét về phẩm chất thẩm mó của các đối tượng và hòên tượng
tự nhiên và xã hội, các sản phẩm của sản xuất vật chất và tinh thần, mặt khác- ở sự biểu
hiện cảm xúc, nhờ đó thể hiện nhân tố chủ quan của cá nhân, sự độc đáo cá thể của họ”
[124, tr.151]. Thò hiếu thẩm mó không thể chỉ mang yếu tố lý tính hay cảm tính mà đó là
sự đồng hoá thực tại bằng cả cảm tính. Theo nghóa này thì chúng ta thấy thò hiếu thẩm mó
lại được đònh nghóa như sau: “Thò hiếu thẩm mỹ là một năng lực biểu hiện sự hài hoà
giữa bản chất tự nhiên với bản chất xã hội của con người” [124, tr.152]. Như vậy là “sự
thống nhất giữa cảm tính với lý tính trong thò hiếu thẩm mó bộc lộ cả ở mối liên hệ qua lại
giữa lý tưởng thẩm mó và tình cảm thẩm mó” [124, tr.152]. Vấn đề “thò hiếu thẩm mó”
trong lòch sử mó học ngay khi vừa mới ra đời đã có hai cách kiến giải đối lập nhau về bản
chất, đó là: duy cảm và duy lý (rõ rệt nhất là mỹ học của phong trào Khai Sáng Tây u
thế kỷ XVIII). Các tác giả đã đưa ra dẫn chứng: “Chẳng hạn Mông-te-xki-ơ, mặc dù gắn
thò hiếu với các khái niệm về trí tuệ, nhưng vẫn đònh nghóa nó là: “Cái thu hút chúng ta
chú ý tới đối tượng bằng tình cảm”. Đối với Rút–xô, “thò hiếu chỉ là năng lực nhận xét
cái mà đông đảo mọi người thích hay không thích”. Trong mỹ học của phong trào Khai
Sáng Anh cũng lộ rõ hai xu hướng kiến giải này về thò hiếu thẩm mó. Chẳng hạn, Sép-tơ-
xbe-ri khẳng đònh rằng “nhận xét về vẻ đẹp theo ấn tượng ban đầu thật là ngu ngốc, cần
phải suy nghó, tư duy”. Còn Khát-che-xơn hiểu thò hiếu thẩm mó là “tình cảm về cái đẹp
hoặc năng lực phát triển hơn để lónh hội những quan niệm hay”” [124, tr.152]. Các tác
giả đã làm rõ bản chất của thò hiếu thẩm mỹ như sau: “Thực chất của thò hiếu thẩm mó là
sự thống nhất hài hoà giữa nhận xét với cảm xúc” [124, tr.153]. Điều đó làm cho “thò
hiếu thẩm mó” trở thành một hiện tượng xã hội chung, còn trong những điều kiện lòch sử
nhất đònh thì thành một “hiện tượng giai cấp”, nhưng vẫn giữ được tính cá nhân sâu sắc.
Như vậy là bản chất của thò hiếu thẩm mỹ vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội:
“Thò hiếu thẩm mó biểu hiện ở những đánh giá vừa cảm tính vừa lý tính rất muôn hình
nhiều vẻ. Ở đây tính xác đònh về mặt xã hội của lý tưởng là điều kiện cần cho sự tồn tại
thò hiếu thẩm mó của cá nhân, nhóm xã hội hay giai cấp” [124, tr.153]. Về mặt lòch sử,
một thò hiếu thẩm mó phát triển ở mức độ đáng kể thì đã thấm nhuần một lý tưởng thẩm
mó. Khía cạnh cá nhân của ý thức thẩm mó được phản ánh trong thò hiếu thẩm mó rõ hơn
trong lý tưởng thẩm mó. “Không thể có thò hiếu thẩm mó nếu như thiếu tư duy, vì nó phản
ánh những thuộc tính của khách thể thẫm mó. Đặc điểm này của thò hiếu thẩm mó bộc lộ
rõ nhất và mạnh mẽ nhất trong nghệ thuật” [124, tr.154]. Các tác giả cho rằng: “Trên
bình diện nhận thức, thò hiếu thẩm mó là phản ánh sự thống nhất nội dung khách quan–tự
nhiên giữa tình cảm thẩm mó và lí tưởng thẩm mó. Nó dường như là một khâu thuộc khía
cạnh nhận thức nhưng lại tạo nên sự lệ thuộc giữa chúng, là nhân tố phần nào có sự trọn
vẹn của lí tưởng thẩm mó, nhưng vẫn chưa tách rời tình cảm thẩm mó. Ngay E.Căng trước
đây cũng đã nhận thấy sự độc đáo này của thò hiếu thẩm mó. Đối với ông, phép biện
chứng của thò hiếu thẩm mó là mâu thuẫn tương phản, không giải quyết được giữa tính
đơn nhất và tính phổ biến. Trên bình diện xã hội, thò hiếu thẩm mó gắn bó hữu cơ với vấn
đề sự trọn vẹn của cuộc sống thẩm mó của cá nhân, tức là với vấn đề giáo dục thẩm mó,
với quá trình hình thành con người hoàn thiện về tự nhiên–xã hội và tinh thần. Ở đây
điều quan trọng là nhấn mạnh rằng với tính cách một tổng thể hiện mối liên hệ qua lại
giữa lý tưởng thẩm mó và thò hiếu thẩm mó, thò hiếu thẩm mó không chỉ hình thành bởi
riêng nghệ thuật mà bởi toàn bộ hoạt động tinh thần–thực tiễn của con người. Và theo
nghiã này, “công thức” của Tsêkhốp: “Trong con người mọi thứ đều phải đẹp: cả khuôn
mặt, quần áo lẫn tư tưởng”- đã vạch ra những dấu hiệu căn bản của một thò hiếu thẩm mó
phát triển. Chỉ cần thêm rằng trong cuộc sống “thể xác” của con người (trong cách cư xử,
đi lại, tiếng nói, điệu bộ, cử chỉ…) cũng bộc lộ thò hiếu thẩm mó của anh ta không kém gì
lónh vực tinh thần” [124, tr.160-161]. Quá trình hình thành nhân cách hài hoà thông qua
thò hiếu thẩm mó rất phức tạp và có khi gặp mâu thuẫn. Đôi khi ta gặp thò hiếu thẩm mó
phiến diện hay kém phát triển thể hiện ở sự tách rời thế giới tình cảm với thế giới lí trí
của con người hoặc phóng đại quá mức tình cảm, lí trí. Ví dụ như lối cảm thụ thiên về
cảm xúc trước các tác phẩm nghệ thuật hay các hiện tượng. Điều này đã xác nhận rằng
thò hiếu đó kém phát triển, người đó đã không có khả năng nâng thò hiếu lên thành sự
đánh giá đúng đắn hay sự đánh giá này quá đơn giản. Ngoài ra, trong xã hội còn có
những thò hiếu “tiểu thò dân” mong muốn mang nặng tính bản năng: “thích màu mè, vẻ
đẹp bề ngoài trong đời sống sinh hoạt, trong trang phục, trong hành vi. Con người ăn mặc,
xử sự trong xã hội như thế nào- tất cả những điều đó đều nói lên trình độ thò hiếu thẩm
mó của họ” [124, tr.160]. Một khía cạnh khác của “sự méo mó về thò hiếu” là cố làm ra
vẻ thâm thuý, là chủ nghóa duy mó cố ý, là đònh hướng hời hợt chạy theo mốt, điều này
dẫn người ta đến chỗ lónh hội các giá trò xã hội, tinh thần và nghệ thuật một cách hình
thức, thiên về bề ngoài, đến chỗ quan điểm thẩm mó không rõ ràng. Điều này chứng tỏ
thò hiếu thẩm mó như vậy thiếu hẳn nhân tố chủ đạo là lý tưởng hay thò hiếu đó sáo mòn
và không rõ. Trong trường hợp này, người ta đã “vi phạm sự thống nhất giữa tình cảm và
lí tưởng với tính cách là một biểu hiện của bản chất thò hiếu thẩm mó” [124, tr.162]. Sự
hình thành thò hiếu thẩm mó phát triển toàn diện đòi hỏi chủ thể phải nghiêm khắc với
bản thân mình và có những nỗ lực nào đó. Khi giáo dục được cho bản thân khả năng cảm
thụ tinh tế những nỗi niềm của người khác, hiểu được mục đích và ý nghóa của đời sống
hiện tại, tiếp xúc với di sản nghệ thuật cổ điển và nền nghệ thuật mới, con người đã làm
phong phú thêm tiềm năng tinh thần của mình, phát triển thò hiếu thẩm mó và làm cho
cuộc sống của mình mang một ý nghóa cao cả. Trong điều kiện xã hội phát triển, việc
giáo dục thò hiếu thẩm mó gắn bó hữu cơ với quá trình hình thành con người phát triển hài
hoà, với việc giáo dục về đạo đức, trí tuệ và thể chất. Việc hình thành thò hiếu thẩm mó
tốt là một trong những nhân tố quan trọng của sự phát triển văn hoá tinh thần của xã hội .
Trong “Giáo trình Mỹ học đại cương” do GS. Lê Ngọc Trà chủ biên, “ thò hiếu
thẩm mó được xem là một bộ phận hợp thành của ý thức thẩm mó, thò hiếu thẩm mó thể
hiện sự bằng lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp nhận và đánh giá các đối tượng nhất
đònh” [100, tr.37]. Trong thò hiếu thẩm mó, những cảm xúc ổn đònh ở một con người “hợp
thành một thực thể tương đối bền vững” để biến thành một sở thích thẩm mó của người
đó. “Thò hiếu thẩm mó là một hiện tượng xã hội-lòch sử, trong đó kết hợp những yếu tố có
tính nhân loại, những yếu tố thuộc về tầng lớp, dân tộc, giới tính và những yếu tố cá
nhân” [100, tr.37].Các yếu tố này đều quan trọng như nhau, không thể tách rời nhau,
nhấn mạnh một yếu tố này mà xem nhẹ các yếu tố kia đều rơi vào quan điểm phi lòch sử
và phiến diện. Đặc điểm xã hội của thò hiếu là tính dân tộc. Tính dân tộc của thò hiếu
thẩm mó là bộ phận đặc biệt của mỗi chủ thể. Bất kì một sự ưa thích, một sự lựa chọn nào
trong lónh vực thẩm mó cũng mang dấu vết xã hội. Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò
quan trọng của yếu tố cá nhân: “Thò hiếu thẩm mỹ của một thời đại, một cộng đồng luôn
luôn biểu hiện thông qua những thò hiếu cá nhân đa dạng, riêng biệt, độc đáo” [100,
tr.37]. Thò hiếu thẩm mó cá nhân hình thành trên cơ sở thẩm mó của nhân loại, thời đại và
cộng đồng. Đồng thời thò hiếu thẩm mó cá nhân bao hàm những kinh nghiệm mới mà
chính cá nhân đó nếm trải khi tiếp xúc với đời sống thẩm mó không ngừng biến đổi và
phát triển. “Nếu cảm xúc thẩm mó thiên về khía cạnh trực giác, cảm quan và tình cảm; thì
trong thò hiếu thẩm mỹ đã có sự hoà hợp và cân bằng giữa cảm tính và lý tính, giữa trực
giác tức thời và sự nghiền ngẫm lâu dài”[100, tr.37]. Vì thế, những người có trình độ văn
hoá sâu, có sự từng trải và kinh nghiệm phong phú, đời sống đạo đức-tinh thần lành mạnh
sẽ có khả năng đạt tới thò hiếu thẩm mó cao. Thò hiếu thẩm mó là một hình thái biểu hiện
năng lực và nhu cầu tinh thần của cá nhân” [100, tr.38]. Một cá nhân ưa thích những
hiện tượng thẩm mó nào đó là do anh ta được hưởng thụ một nền giáo dục, có những thói
quen, tính cách, kinh nghiệm sống và giao tiếp tương ứng. Dưới ảnh hưởng của môi
trường chung quanh, lối sống, những nhân tố thẩm mó trong lao động và sinh hoạt, nhất là
của nghệ thuật mà thò hiếu của một thẩm mó cá nhân được hình thành. Thò hiếu không
tuyệt đối hoá mặt nào mà phải tạo ra một sự hợp lý đối với sự thẩm đònh thẩm mó trong
từng thời đại khác nhau, làm sao cho cái chung bao quát được cái riêng, cái hiện thực phù
hợp với cái lòch sử, cái cá nhân được mọi người chấp nhận. Bằng hoạt động sáng tạo và
những tác phẩm nghệ thuật đích thực của mình, các nghệ só đã góp phần quyết đònh vào
việc nâng cao thò hiếu thẩm mó của công chúng. “Theo ý nghóa đó, thò hiếu nghệ thuật là
biểu hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thò hiếu thẩm mó”[100, tr.38]. Trong hiện
tượng thò hiếu, chúng ta phải xem xét yếu tố nào có quan hệ đến những vấn đề xã hội,
yếu tố nào không quan hệ, không ảnh hưởng đến xã hội (về chính trò, đạo đức xã hội).
Hay yếu tố nào thuộc phạm vi xã hội, yếu tố nào thuộc phạm vi cá nhân. Vấn đề này có
ý nghóa thực tiễn trong việc giáo dục thò hiếu của xã hội và sự tu dưỡng rèn luyện thò hiếu
của bản thân mỗi người. “Khi nhận xét về thò hiếu thẩm mó ở một người, ta nên phát hiện
yếu tố xã hội chủ yếu ở mặt nội dung và yếu tố cá nhân chủ yếu về mặt hình thức. Thực
chất là nội dung không tách rời hình thức, nhưng trong vận dụng thực tiễn cũng có khi cần
phân biệt. Trong một hiện tượng thò hiếu, yếu tố nội dung thường thể hiện ở quan điểm,
cách nhìn trong khi lựa chọn cái đẹp và nghệ thuật, thể hiện ở ý nghóa, tác dụng của đối
tượng ta yêu thích đối với đời sống xã hội, đối với đạo đức, chính trò, thuần phong mó tục.
Biểu hiện về phương diện hình thức của thò hiếu thường là sự ham thích loại hình, loại thể
nghệ thuật và phong cách, bút pháp, ngôn ngữ, chất liệu….Những biểu hiện hình thức này
của thò hiếu thường là ít liên quan với những vấn đề xã hội, cho nên có thể xem là thuộc
phạm vi tự do sáng tạo, lựa chọn của cá nhân” [100, tr.119]. Những vấn đề nội dung ý
nghóa thường xuất phát từ nhân sinh quan đạo đức, lốùi sống của con người . Những vấn đề
hình thức bút pháp thường do đặc điểm riêng về năng lực, điều kiện giáo dục, kinh
nghiệm, cá tính. Ý thích của mỗi người hình thành trên cơ sở kinh nghiệm và những kỉ
niệm riêng. Cái độc đáo của thò hiếu cá nhân cũng dựa trên mặt sinh lý và di truyền. Thò
hiếu thẩm mó không phải là năng lực bẩm sinh hoặc thần bí. Thò hiếu thẩm mó biểu hiện
thế giới quan, nhân sinh quan, trình độ tâm lý–xã hội của chủ thể. Xã hội văn minh và
dân chủ luôn coi trọng việc nâng cao thò hiếu thẩm mỹ của con người, đồng thời bảo vệ
sự phát triển đa dạng của thò hiếu thẩm mó. Muốn thế cần phải đấu tranh chống lại sự
thỏa hiệp với những thò hiếu thấp kém, tầm thường hạ thấp đời sống tinh thần của con
người như: không nên xem việc cho ra đời những cuốn sách nhạt nhẽo, những bộ phim vô
vò là chuyện bình thường. Đồng thời phải kiên quyết bảo vệ sự tồn tại và phát triển hợp
pháp của các thò hiếu thẩm mỹ lành mạnh, đa dạng. Nếu không làm như thế thì xã hội sẽ
rơi vào sự nghèo nàn về văn hóa khi “nó chứa đựng nguy cơ bào mòn tất cả mọi khía
cạnh độc đáo và muôn màu muôn vẻ của thò hiếu, để chỉ còn một loại sở thích độc tôn”
[107,tr.38] và kéo cả sự xuống cấp của xã hội. “Một nền văn hoá phong phú, đa dạng
mới dẫn đến sự phong phú, đa dạng về thò hiếu của thẩm mỹ. Và ngược lại, có chấp nhận
sự đa dạng, phong phú của thò hiếu mới tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng phong
phú của văn hoá. Một nền văn hoá khô cứng và công thức tất sẽ đẻ ra những thò hiếu
nghèo nàn, què quặt; và ngược lại” [100, tr.39]. Thò hiếu thẩm mó là kết quả sự tổng hợp
những kinh nghiệm thẩm mó mang tính chất chủ quan, còn lý tưởng thẩm mó là sự đúc kết
mang tính khách quan và sâu sắc những kinh nghiệm không chỉ một người, một tầng lớp
xã hội mà còn của cả một thời đại nhất đònh. Thò hiếu thẩm mó còn được diễn đạt như
sau: “Thò hiếu thẩm mỹ là sự ưa chuộng, sự ham thích đối tượng có mang tính thẩm mỹ.
Nó là vấn đề ý thức được cụ thể hoá bằng hành động, bằng vật phẩm. Nó in dấu vết trên
hầu khắp những gì do con người tạo ra trong môi trường sống”[100, tr.121]. Những biểu
hiện tiêu cực về thò hiếu rất phức tạp và đa dạng nên cần phải qua một quá trình nghiên
cứu phân tích dựa vào lí luận khoa học và kinh nghiệm. Ta có thể thấy trong cái phức tạp
và đa dạng kia có những quy luật chung. Trong việc sáng tạo thưởng thức cái đẹp và
nghệ thuật, trong nhu cầu và thò hiếu thẩm mó, những biểu hiện xấu thường quy vào hai
hiện tượng sau đây: chủ nghóa hình thức và chủ nghóa tự nhiên. Mỗi một biểu hiện xấu về
mặt thò hiếu thẩm mỹ, dù có ý thức hay không có ý thức đều có thể rơi vào một trong hai
hiện tượng đó. Trong đời sống,những biểu hiện về hình thức và tự nhiên trong nhu cầu và
thò hiếu thẩm mó thường phát sinh từ lối sống. Bất cứ ai cũng có thể mắc phải bệnh hình
thức hay tự nhiên nếu không tu dưỡng rèn luyện một thò hiếu thẩm mó tiên tiến. Trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, ta có thể nhận thấy những biểu hiện khác nhau của thò
hiếu thẩm mó: kiến trúc nhà cửa, biển quảng cáo, lối ăn mặc, lời ăn tiếng nói,… đều thể
hiện rõ đặc tính về thò hiếu thẩm mó của con người. Tất cả những hiện tượng đó đều có
thể có mặt chủ nghóa hình thức và chủ nghóa tự nhiên. Do đó, khi nói đến việc tu dưỡng
rèn luyện thò hiếu thẩm mó tiên tiến thì phải đi đôi với việc phê phán và tránh chủ nghóa
hình thức và chủ nghóa tự nhiên–hai biểu hiện của thò hiếu xấu. Trong sinh hoạt thẩm mó
của con người, những biểu hiện không lành mạnh hay xuất hiện đồng thời, hiện tượng
này liên quan đến hiện tượng kia. Khi chủ nghóa hình thức xuất hiện thì chủ nghóa tự
nhiên cũng có mặt. Chủ nghóa hình thức thể hiện ở mặt xử lý, vận dụng hình thức một
cách quá mức, phô trương giả tạo, dùng hình thức để che lấp nội dung và phủ đònh xoá bỏ
nội dung. Chủ nghóa tự nhiên thì đề cao yếu tố tự nhiên: sao chép máy móc thô thiển và
tô đậm những yếu tố bản năng của con người. Chủ nghóa tự nhiên thể hiện trong mọi lónh
vực của đời sống. Tính chất tự nhiên thường gặp trong trường hợp thò hiếu thẩm mó của
con người chưa phát triển. Tuy nhiên, cần phân biệt thứ thò hiếu tầm thường với yêu cầu
nghiêm túc của sự tu dưỡng nghệ thuật là phải biết quan sát tỉ mỉ và thể hiện chính xác
các hiện tượng của đời sống. Để bồi dưỡng thò hiếu thẩm mó tốt, phải chú ý loại bỏ những
nhân tố hình thức và tự nhiên chủ nghóa, chú ý ngăn ngừa sự thâm nhập của hai nhân tố
đó. “Thò hiếu thẩm mỹ cũng như mọi hiện tượng khác đều mang tính chất quy luật. Có
nhiều loại quy luật chi phối, nhưng có ba loại thường xuyên tác động đến sự hình thành
và phát triển của thò hiếu. Đó là quy luật xã hội học, quy luật tâm lý học và quy luật
thẩm mỹ học. Quy luật xã hội học và quy luật tâm lý học có liên quan chặt chẽ với nhau,
nhiều khi cũng khó phân biệt. Còn luật thẩm mỹ học gần như là sự tổng hoà các quy luật
kia về nội dung” [100, tr.126]. Quy luật tâm lý là quy luật thích ứng giữa nhu cầu tính
cảm của con người và đối tượng bên ngoài. Về phương diện thẩm mó đó là sở thích của
con người về cái đẹp, về tác phẩm nghệ thuật và những cái đẹp, tác phẩm nghệ thuật đó
đã đáp ứng theo sở thích của con người. Ta thấy quy luật tâm lý của thò hiếu thẩm mó
cũng gần giống như thứ quy luật cung cầu trên thò trường, nói đến quy luật thì ta không
thể xử lý một cách chủ quan, áp đặt. Khi nói đến sự vận dụng quy luật tâm lý của thò hiếu
thẩm mó, cần chú ý đến hai chiều hướng khác nhau: nhu cầu tình cảm cao thượng và nhu
cầu tình cảm thấp kém. Một quy luật tâm lý khác trong thò hiếu thẩm mó của con người là
sự ham thích tình huống xung đột gay cấn trong nghệ thuật. Quy luật thẩm mó vận động
trên cơ sở xã hội và tâm lý, có thể xem đây là sự tổng hoà những quy luật xã hội học và
tâm lí học. Khi nói đến những quy luật thẩm mó cần nhấn mạnh tính đặc thù của nó so
với những quy luật tâm lý và xã hội. Quy luật nào của thò hiếu thẩm mó cũng có hai mặt,
hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, sức mạnh của hai chiều hứơng này rất lớn. Việc
phân tích quy luật của thò hiếu là nhằm đi sâu thêm một bước, tìm hiểu các yếu tố nào đã
tạo nên sự đa dạng phong phú của thò hiếu, và từ đó tìm cách giáo dục, tổ chức cho mọi
người có thể phát triển những biểu hiện của thò hiếu tốt và hạn chế, xoá bỏ các biểu hiện
của thò hiếu xấu…. Quy luật xã hội học của thò hiếu là quy luật của sự phát sinh, phát triển
và tiêu vong của các loại thò hiếu, của các loại “mốt”. Thò hiếu là sản phẩm tinh thần
của một xã hội nhất đònh, xã hội thay đổi thì thò hiếu cũng thay đổi. Mảnh đất sinh
trưởng trực tiếp của thò hiếu là lẽ sống, lối sống của con người. Đồng thời khi lối sống
thay đổi thì thò hiếu cũng bò tiêu vong” [100, tr.126-127]. Không thể làm công việc phê
phán thò hiếu đơn thuần tách rời sự cải tạo xã hội và lối sống, càng không thể chỉ làm
biện pháp tiêu diệt thò hiếu xấu. Sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của thò hiếu có
quan hệ với lẽ sống, lối sống của con người. Thò hiếu còn có những quy luật đặc biệt như
: quy luật đổi mới không ngừng và quy luật lây lan của thò hiếu. “Tình cảm thẩm mỹ, thò
hiếu thẩm mỹ là nét biểu hiện độc đáo của bản chất con người. Ngoài khả năng lao động
sáng tạo, ngoài những năng lực, những phẩm chất về đạo đức, thì thò hiếu thẩm mỹ đã
làm cho bản chất con người phong phú thêm rất nhiều. Nhưng tình cảm và thò hiếu
thẩm mỹ không phải là cái bẩm sinh, cũng như mọi điều hiền dữ, xấu đẹp ở con người
đều phải kinh qua giáo dục và rèn luyện”[100, tr.134]. Ba yếu tố hình thành nên các
phẩm chất con người, đó là: di truyền, giáo dục và tự rèn luyện. Ba yếu tố này đều quan
trọng nhưng yếu tố tự rèn luyện có tầm quan trọng đặc biệt. Yếu tố di truyền có vai trò
nhất đònh trong việc hình thành và phát triển thò hiếu thẩm mó. Yếu tố giáo dục có vai trò
rất lớn. Thò hiếu thẩm mó cấu tạo gồm ba chiều: chiều cao, chiều rộng, chiều sâu. Chiều
cao của tư tưởng, chiều rộng của sự hiểu biết, chiều sâu về nhận thức, cảm xúc. Một thò
hiếu được phát triển đầy đủ bao giờ cũng được phát triển cân đối cả ba phương diện.
Ngược lại, thò hiếu hình thành không cân đối sẽ là thò hiếu nghèo nàn, lệch lạc, méo mó.
Khi giáo dục và rèn luyện thò hiếu thẩm mó cũng như giáo dục con người, đầu tiên là phải
giáo dục tư tưởng thẩm mó tiến bộ, đó là chiều cao của thò hiếu. Nói thò hiếu thẩm mó có
chiều rộng tức là nói đến sự hiểu biết nhiều mặt , phong phú về đời sống, văn hoá khoa
học, nghệ thuật để làm nền tảng cho nhận thức thẩm mó. Trong những tri thức giúp cho sự
hiểu biết rộng thì tri thức về nghệ thuật có ý nghóa trực tiếp trong việc hình thành thò hiếu
thẩm mó. Trình độ học thức chỉ là cơ sở đầu tiên, chưa quyết đònh trình độ của thò hiếu
thẩm mó vì có những người học thức cao nhưng thò hiếu thẩm mó vẫn nghèo nàn hay lệch
lạc. Vì thế, có thể nói chiều rộng của thò hiếu thẩm mó chính là sự hiểu biết của con người
về cuộc sống, văn hoá, khoa học, nghệ thuật. Trong việc giáo dục thò hiếu thẩm mó, ngoài
việc bồi dưỡng lí tưởng thẩm mó cho xã hội, cần chú ý đến sự ổn đònh và phát triển của cá
nhân. Cần hướng dẫn cho mọi người nội dung xã hội tích cực, tiến bộ theo một lý tưởng
thẩm mó tiên tiến nhưng cũng cần chú ý đến đặc điểm riêng của từng người, lamø cho mỗi
người có một cá tính riêng trong sự am hiểu, sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp. Bồi
dưỡng thò hiếu thẩm mó là làm cho mọi người biết thưởng thức, cảm thụ, đánh giá cái đẹp;
biết phân biệt cái đẹp với cái không đẹp, cái đẹp với cái xấu, biết đònh hướng và tự điều
chỉnh về mặt thẩm mó, trên cơ sở đó hình thành quan niệm riêng về cái đẹp đúng đắn,
lành mạnh. Thò hiếu thẩm mó tốt là thò hiếu biết tiếp thu nền văn minh nhân loại, những
cái tốt đẹp nhất của truyền thống dân tộc mà thụ cảm và sáng tạo cái đẹp. Bắt nguồn từ
cái đẹp, cái tốt, thò hiếu thẩm mó sẽ đạt tới cái đúng, cái thật, cái tốt, đó là bản chất và
tiêu chí khoa học của thò hiếu thẩm mó.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi rút ra những kết luận sau:
Trong đời sống cũng như trong hoạt động tinh thần, mỗi người có những sở thích riêng.
Những sở thích riêng đó trong lónh vực thẩm mó gọi là thò hiếu thẩm mó. Thò hiếu của mỗi
người khác nhau vì con người sinh ra không ai giống ai. Thò hiếu thẩm mó cũng như những
biểu hiện khác của con người đều có nguồn gốc sinh thành và quá trình phát triển. Thò
hiếu được hình thành do sự kết hợp giữa hoàn cảnh xã hội và điều kiện chủ quan của mỗi