Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRẼN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 23 trang )

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRẼN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO
Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1945
Ta Thi Bích Liên*




1. Sự xuất hiện vấn đề Phụ nữ ở Việt Nam trước năm 1945 và thái độ của báo chí
Phật giáo
1.1. Sự xuất hiện vấn đề phụ nữ ở Việt Nam trước nám 7945
Đ ầu th ế kỷ XX, dưới tác động của chương trình khai thác th u ộ c địa lẩn 2 của Pháp,
xã hội Việt N am có sự chuyển biến rõ rệt. Giai cấp công n hân xuất hiện từ sau cuộc khai
thác th u ộ c địa lấn 1 ( 1 9 1 4 - 1918), đã tăng lên nhanh chóng. K hông chỉ có nam giới, phụ
nữ cũng đã xuất hiện trong đội ngũ những người lao động làm thuê này. Số công n h ân nữ
cũng tăng nhanh. T h eo Niên biểu thống kê Đồng Dương năm 1939 - 1940, năm 1908, nữ
công nhân là 6.687 người, chiếm 41% tổng số công nhân. Đ ến năm 1912, số n ữ công
nhân tăng lên 7.500 người chiếm 45%. Ở m ột số ngành như ngành dệt tỷ lệ nữ công nhân
khá cao. Ví dụ, nhà m áy D ệt N am Đ ịnh năm 1900 số công nhân nữ chiếm 66%, đến năm
1937, tỷ lệ nữ công nhân lên tới 71% (N guyển T hị Thập, 1981, tr 171). T h ế nhưng, họ lại
là tầng lớp có trình độ chuyên m ôn thấp nhất, bị bóc lột sức lao động, bị xúc p h ạm đến
phấm giá và có thê’ bị sa thải bất cứ lúc nào.
C ùng với sự xuất hiện và gia tăng đáng kể của số lượng nữ sinh, đội ngũ nữ giáo
viên là sự xuất hiện của tần g lớp ph ụ nữ tri thức. H ọ không chỉ th am gia vào lực lượng
lao động xã hội m à còn th am gia các hoạt động báo chí, làm công tác xã hội, khởi xướng
nhiều phong trào phụ nữ. M ặc dù vậy, họ cũng vẫn phải chịu sự đối xử bất b ìn h đẳng.
Vào năm 1918, lương của giáo viên nữ chi bằng khoảng 60-80% lương của giáo viên nam
* H V C H - Khoa Lịch sừ, Trường Đại học Khoa học Xà hội và Nhân vãn, Đ H Q G H N .


VẤN ĐẼ 'HU Nữ TRẼN BÁO CHÍ PHÁT GIÁO ở VIẼT NAM TRƯỚC NÁM 1945


353

cùng cip. N h ư vậy, bên cạnh những th ay đổi trong đời sống kinh tế, xã hội của các tầng
lớp p h i n ữ lao động, tro n g những năm đầu th ế kỳ XX, ở V iệt N am còn xuất hiện tầng
lớp p h i n ữ tiểu tư sản th à n h thị gồm những người thợ th ủ công; tiểu thương, vợ con các
viên đ ứ c làm việc tro n g các công sở của Pháp và của tư nhân, các nữ công chức (giáo
viên, th í ký, y tá, hộ sin h ) và các nữ h ọ c s in h ... (Đ ặng T hị Vân Chi. 2011, tr 397).
Sụ thay đổi lớn tro n g đời sống văn hoá của ph ụ nữ đã tác động đến tầng lớp trí
thức trong xã hội cũng n h ư n h ận thức của phụ nữ vể quyền của p h ụ nữ trên tất cả các
m ặt c h n h trị, k inh tế, văn h ó a và giáo d ụ c ...
Và? thập niên 1920, P han Bội c h â u viết cuốn V ấn đề p h ụ nữ đã cho rằng “phụ nữ
là m ộ t lạng người ở tro n g loài người, cũng là m ột xuất dân ở tro n g dân nước... m uốn
nghiên cứu vấn để về loài người và vấn đề về quốc dần m à lại b ỏ vấn để ph ụ nữ, thiệt là
khuyết iiểm cho n h à luân lý; và đến khi cải lương xã hội, th iệt là m ộ t chốn tệ hại rất to ”
(1 9 2 9 :1 9 2 ). Và ông đã đặt vấn để cẩn th iết phải vận động p h ụ nữ và liên kết các đoàn
th ể phv nữ, tạo nên sự th ố n g n h ất m ột lòng đè’ “bẻ đôi gông vô đạo, chặt đứt xiểng bất

nhân”. ;Phúc khi viết V ấn để p h ụ n ữ ở V iệt N am cũng đã m ạnh dạn cất tiếng nói thay cho p h ụ
nữ “chị em cần phải biết gió m át trời xanh. Luổng gió tự do đả thổi khắp đám phụ nữ tân
thời... trèn m ảnh đất V iệt N am này, p h ụ n ữ đã thành m ộ t v ấn đ ề rổi đ ó ”.
N ăm 1934, báo H oàn cãu tân văn ngày 1 1 /8 /1 9 3 4 có nh ận xét:
Đã láu p h ụ nữ xứ này nổi ỉên cái phong trào vận động nữ quyển m ột cách nhiệt liệt.
N hững tiếng bỉnh đãng, bình quyển, giải phóng hàng ngày vang rền trên diễn đàn. Ngoài việc
mở báo làn cơ quan chính thức cho cuộc vận động họ lại viết sách. Đến như các báo hàng
ngày cũngohải dành riêng mỗi tuần m ột chương viết về p h ụ nữ. N h ư vậy cho biết rằngvấn
đ ề p h ụ nũ đã chiếm m ộ t địa vị quan trọng ở xứ này.
Q ụa ih ữ n g cuốn sách đã xuất b ản và từ những cuộc th ảo luận trê n báo chí vể vấn
đề n ữ qu^ển và b ìn h đẳng nam nữ, giải phó n g ph ụ n ữ ... th eo Đ ặng T h ị V ân Chi
(2 0 1 1 ) n )i d u n g củ a v ấn đ ể p h ụ n ữ ở V iệt N a m tập tru n g vào m ộ t số vấn để sau:

-

TruVc h ế t đó là vấn đề vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. T ro n g

điểu kiện Việt N a m là m ộ t nước th u ộ c địa nửa phong kiến thì vấn để vai trò của phụ nữ
tro n g xã h)i còn gắn ch ặt với vắn để vai trò của phụ nữ tro n g cuộc đấu tranh giải phón g
dân tộ c và cuộc đấu tra n h chống lễ giáo phong kiến.


Tạ Thị Bích Liên

354

- T h ứ hai là vấn đề quyến của phụ r»ư trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, kinh tế,
chính t r ị ...
- T h ứ ba là vấn để giải phóng phụ nữ khỏi lễ giáo phong kiến, quan niệm vế trinh tiết,
vấn để th ủ tiết của phụ nữ goá chồng, vấn để hôn nhân tự do, nạn đa thê và tảo hôn...
- T h ứ tư là đạo đức phụ nữ: Vấn đề các cô gái mới, vấn để m ãi dâm..., thế nào là người
phụ nữ lý tưởng thích hợp với xã hội mới.
N h ư vậy, ở thời kỳ này, vấn để ph ụ nữ đã trở thành vấn để quan tâm chung của
toàn xã hội, m ộ t vấn đề của lịch sử V iệt N am cận hiện đại và của cuộc vận động xã hội,
vận độn g giải p h ó n g dần tộ c của toàn thê’ nhân dân V iệt N am . T ro n g bối cảnh vận động
nữ quyển trên th ế giới nhữ ng năm đẩu thế kỷ XX, vấn để ph ụ nữ ở V iệt N am không chỉ
m ang yếu tổ nội tại m à còn là vấn đề m ang tính thời đại. T ro n g h o à n cảnh lịch sử đó,
các vấn để của ni giới cũng đã th u hút được sự quan tầm của giới P hật tử, các trí thứ c
Phật giáo và được th ảo luận trên báo chí Phật giáo.
1.2 Thái độ của báo ch í Phật giảo với vấn đề phụ nữ

Đ ẩu th ế kỷ XX, tro n g xã hộ i V iệt N am ; pho n g trào c h ấ n hưng P hật giáo xuất hiện,
bắt ngu ồ n từ sự suy vi của P hật giáo, sự giảm sút uy tín và ảnh hư ởng của Phật giáo đối

với dần chúng. V ể giáo lý, kinh sách thì bị th ất truyển, sai lạc nhiểu do sự thâm nhập của
lối sống th ế tụ c và các hìn h thứ c m ê tín, nhất là của đạo Lão th ần tiên. Sự tu hàn h của
giới tãng ni cũng có chiểu hướng sa sút. Bên cạnh đó, từ cuối th ế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, tư
tưởng duy tân, tự cường, dân chủ, phát sinh từ học thuyết dân quyển của châu  u cũng đã
du nhập vào T ru n g Q ụốc. Ả nh hưởng của những tư tưởng dân chủ này được thê’ hiện qua
cuộc vận động duy tân của các học giả kiêm chính trị gia: Lương Khải Siêu, Khang H ữu Vi,
Đàm Đ ổng Từ; đặc biệt là ảnh hưởng của Thái H ư đại SƯ (1890 - 1947) m ộ t thién sư xuất
sắc của Phật giáo T ru n g Q uốc. Vào đầu thế kỷ XX, pho n g trào c h ấ n hưng P hật giáo
diễn ra ở n h iểu nước, là kết quả tấ t yếu của nhữ ng biến đổi lớn vế kinh tế, văn hóa,
xã hội, tư tư ở n g và n h ấ t là sự sa sú t của P h ật giáo nói chu n g , tro n g đó có V iệt N am .
Ở T ru n g Q uốc, N h ậ t Bản, p h o n g trào c h ấ n hưng P hật giáo với các khẩu hiệu
cách m ạng giáo lý, cách m ạng giáo chế, cách m ạng giáo hội qua các sách báo, nhất là
T ạp chí H ải T riều  m cùng nhữ ng h o ạt động sôi nổi của các nhà sư T ru n g Q uốc đã làm
nức lòng nhữ ng tăng ni, CƯ sỹ trí thức yêu m ến P hật giáo ở V iệt N am . Đ ó cũng là động
lực, là sự nâng đỡ quan trọ n g của phong trào C hấn hưng P hật giáo ở V iệt N am .


VẤN ĐẼ PHU Nữ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ở VIẼT NAM TRƯỚC NĂM 1945

355

C hịu ảnh hư ởng từ p h o n g trào c h ấ n hưng P hật giáo th ế giới và tro n g điều kiện nền
văn học báo chí quốc ngữ đã có những p h át triển nhất định, báo chí P hật giáo Việt N am
đã có m ặt từ cuối th ập n iên 1920 là m ộ t tro n g những phư ơng tiện quan trọng, công cụ
sắc bén, góp p h ần làm làm lan tỏ a tư tưởng c h ấ n hưng P hật giáo. Bên cạnh việc thực
hiện nhiệm vụ h o ằn g pháp, xây dựng n ền văn học P hật giáo tro n g văn học chữ quốc
ngữ, bảo tổ n di sản văn h ó a cổ V iệt N am , báo chí P hật giáo đã bước đầu quan tầm tới
vấn để b ìn h đẳng giới, n h ấ t là vấn đế ph ụ nữ.
T ạp chí Đuốc Tuệ - cơ quan ngôn luận của Ban trị sự P hật giáo Bắc kỳ, ra số đẩu
tiên ngày 1 0 /1 2 /1 9 3 5 do ông N guyễn N ăn g Q uốc làm chủ nhiệm . Đ ứng tên chủ bút là

thién sư T ru n g T h ứ trụ trì chùa Bằng Sở. Phó chủ b ú t là th iển sư D oãn H ài (D ương
V ăn H iển ); trụ tri chùa T ế Cát. Q u ản lý là ông C ung Đ ình Bính. T ro n g hơ n m ười năm
tồ n tại, Đ uốc T u ệ đã cho ra m ắt gần ba m ươi bài viết vê' ph ụ nữ - n h ữ ng người có nhiểu
đóng góp tro n g p h o n g trào chấn hưng P hật giáo và ngày m ộ t tăng dần tỷ lệ trong giới tu
sĩ. N ổ i b ật có các bài Đ ịa vị đàn bà con gái đối với đạo Phật (T h iể u C h ử u ), Phải giải thoát
trí tuệ cho phụ nữ (N g u y ễn T rọ n g T h u ậ t) giảng tại chùa Q ụán Sứ, H à N ộ i đã th u h út rất

nhiểu th ín h giả. Bài diễn thu y ết Phật giáo với phụ nữ Việt N am , của bà Đ inh C hí
N ghiêm tại chùa Sơn T h ủ y (N o n N ước), N in h Bình; đã có ảnh hư ởng lớn trong quần
chúng. Lời than phiền của ni cô Tâm Nguyệt; Vấn để ni học của các sư ni Đ àm Hướng,
Đ àm H o a v.v. p h ản án h n h u cầu m ở trường P hật h ọc cho ni giới lúc b ấy giờ. T u y nhiên,
so với thời gian tồ n tại h ơ n mười năm , vấn để p h ụ nữ vẫn chưa được đặt vị trí tương
xứng trên các số báo.
T ạp chí T ù Bi Ả m được th ố n g đốc N am Kỳ ký giấy p hép th àn h lập vào ngày 31-41931, và ra số đẩu tiê n vào ngày 1-1-1932, là cơ quan ngôn luận của N am Kỳ N ghiên
cứu P hật học H ội. T rụ sở tờ T ừ Bi  m đặt ở số 149 đường D o u au m o n t (nay là đường
Cô G iang) Sài G òn. T ờ b áo này p h át h àn h vào ngày m ổng 1 và 15 m ỗi tháng. N h ờ phẩn
đông độc giả là các chùa và đ ồng bào P hật tử nên số lượng xuất bản khá nhiều, đổng
thời tờ báo có n h iểu m ạ n h thư ờng quân là hội viên N am kỳ N g h iên cứu P hật học H ội
ủng hộ tài chính. T ừ Bi  m ra đ ư ợ c hơn 200 số (tín h đến th án g 8 năm 1945) với những
nội dung p h o n g p h ú góp phần đáng kể vào hoạt động hoằng dương P hật pháp. Đặc
biệt, tro n g lịch sử báo chí P hật giáo, có th ể nói T ừ Bi  m là diễn đàn đẩu tiên của N i
giới. Các bài viết “Lời than phiền của m ột cô vãi” số 27 năm 1933, “Cái án ngụy quyển
chánh Pháp" số 73 n ăm 1935, “Vấn đê hoãtĩg dương Phật pháp bên nữ giới” số 116, 117,


356

Tạ Thị Bích Liên

1 1 8 /1 1 ,1 2 /1 9 3 6 , các bài biết của ni sư D iệu Tịnh, D iệu M in h ... đểu tập trung vào mục

đích kêu gọi chấn hư ng N i giới và sự bình đẳng. Là m ộ t trong nhữ ng tạp chí đi tiên
p h o n g khi cất tiếng nó i đầu tiên của ni nữ, T ừ Bi Ả m cũng đã ph ần nào phản án h được
tâm tư, nguyên vọng, tầm nguyện phùng hưng P hật giáo của p h ụ nữ.
T ạp chí Duy tâm Phật học ra đời số đầu tiên ngày 0 1 /1 0 /1 9 3 5 dày 53 trang. T rong
quá trình h o ạt động, có nhiều cây b ú t nữ xuất hiện với các bài: Sự tích cô H uệ Tâm vào
N am của Sa di ni Lê T h ị T rầm , bài Cái khổ của con người của T h ích nữ D iệu H ữu, Cảm
tưởng đối với Phật, Pháp, Tăng và tại gia tín ngưỡng của N guyễn T h ị N g ọ c ... Đặc biệt là
T hích N ữ D iệu H ư ờng với loạt bài trìn h bày Ỷ kiến của nữ lưu được đăng trên 3 số liền.
T ro n g bài ph át biểu tại lễ khai giảng T hích họ c đường của Lưỡng X uyên P hật học, đăng
ở số 1 ra ngày 0 1 /1 0 /1 9 3 5 , sư cô T h ích N ữ D iệu H ư ờ n g trình bày nguyện vọng m ong
sớm có trường Thích nữ học đường cho giới nữ lưu: “Việc khai trường hôm nay mới
là Thích học đường cho nam giới. C òn bên nữ giới chúng tôi cũng ước m ong sao quý vị
để lòng quan niệm m à chiếu cố đến thì chúng tôi đặng m ãn vọn g ”. H ội trả lời n hư sau:
“Vì lúc đầu tiên sơ b ộ của Hội, công việc thì phiển phức, m à tài chính lại hiếm hoi,
th àn h th ử Thích nữ học đường phải tạm đình bản tro n g m ộ t khoảng thời gian n h ất định.
V ấn để cấn kíp hệ trọ n g này, đặng thành tựu viên m ãn, hãy n h ờ nơi quý ngài tâm đạo,
giàu lòng từ bi bác ái ngoại hộ P h ật pháp quan niệm đ ế n ”. N h ư vậy, th ô n g qua diẽn đàn
báo chí, nữ lưu đã p h ấn nào bày tỏ được tâm tư, nguyện vọng của m ình.
N gày 1-12-1933, N guyệt san Viên Ẳ m - cơ quan h o ằn g pháp của H ội An N am Phật
h ọ c (H ộ i P hật học T ru n g kỳ) ra số đầu tiên. Ban Biên tập gồm hai c h ứ n g m in h Đ ạo sư
là H ò a thư ợng Giác T iên - trụ trì chùa D iệu Đế, H ò a thư ợ ng Giác N hiên - trụ trì chùa
T ú y Ba và cư sĩ Lê Đ ình T h ám . C hủ nhiệm là C hánh H ội trưởng N guyễn Đ ình H òe,
C hủ b ú t là Bác sĩ T âm M inh Lê Đ ình T hám . T ò a soạn đặt tại số 113 (5 ) đường
C ham peau (tứ c đường H à N ội hiện nay), H uế. (từ 1940 là R oute N am Giao, H u ế), in
tại nhà in V iên Đế, H u ế (từ năm 1943, in tại nhà in Đ uốc T uệ, 73 phố R ichaud tức phố
Q ụán Sứ; Hà N ộ i ngày nay). T ro n g 78 số được xuất bản từ 1935 đến 1945 có 19 bài của
10 cây bú t nữ là Sa di ni và T ỷ khiêu ni. Đ ặc biệt tro n g số đó phải kể đến 3 cây b ú t tiêu
biểu, đại diện cho giới N i lưu ba m iền: T ỷ khiêu ni H u ệ T âm với bài “Ý kiến phụ nữ đối
với Phật học ở xứ t à ’ đăng trên số 17 (tháng 9 -1 0 /1 9 3 5 ); ni sư H uệ Phước với bài “Phụ
nữ với Phật pháp", đăng trên sổ 17, “M ột bức thư dài xin hỏi ý kiến của các chị em nữ lưu”

số 17; ni sư D iệu K h ò n g với h àn g loạt bài “Chị em thanh niên có nên học P hật không?”


VẤN ĐẾ PHỤ Nữ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ở VIÈT NAM TRƯỚC NĂM 1945

357

Số 15, ra tháng 5 -6 /1 9 3 3 , “Câu chuyện phụ nữ” số 21 th án g 5 -6 /1 9 3 6 ... C ó thể nói,
m ỗi bài viết của các T ỷ khiêu và Sa di là m ột nỗi niềm thao thức và tâm huyết đối với nữ
lưu tro n g sự nghiệp C h ấn hưng P h ật giáo. N ó có sức lan tỏ a và hấp dẫn chị em phụ nữ
trên bước đường h ọ c Phật, p h ần nào thức tỉnh chị em nữ lưu lâu nay bị trói buộc trong
lễ giáo K hổng M ạnh; hoặc sa sút bởi lối sống Âu hóa vươn lên làm chủ cuộc sống, vươn
lên tự giải p hóng m ình.
N h ìn chung vấn đề p h ụ nữ đã từng bước xuất hiện trê n các trang báo P hật giáo.
T u y nhiên, so với dung lượng của các số báo, vấn để này chưa được quan tâm m ộ t cách
tương xứng. N goài Bồ đề tạp chí có riêng m ục thứ 7 là “Ý kiến của p h ụ nữ” thì chưa có tờ
báo nào dành cho ni nữ m ộ t m ục riêng như vậy. T uy nhiên, vấn để p h ụ nữ đặc biệt là
bình đẳng giới được hầu khắp ni lưu và giới ni chúng lên tiếng th ô n g qua các bài viết
trên các trang báo. C ác vấn để được đề cập, dù ít dù nhiểu đã làm được những điểu mà
tác giả m ong đợi.

2. Vấn đề phụ nữ trên diễn đàn báo chí Phật giáo trước năm 1945
2.7. Vấn đề giải thoát trí tuệ cho phụ nữ
N gay từ thời P h ật tại thế, ni chúng được xem là m ột tro n g bốn chúng xuất gia của
đệ tử Phật. L òng từ bi bình đằng của đức T h ế T ô n là thế, như ng khi đạo pháp truyển
sang các nước láng giếng, có m ộ t số nước ni chúng không được dự vào hàng tăng. Ở
V iệt N am ta, vấn để ni giới k h ô n g đến nổi quá khắt khe n h ư các nước truyển thống
N am T ông, nhưng vẫn th eo quán lệ k hông coi trọng ni giới lắm, đặc biệt là việc giáo dục
ni giới. T rê n tạp chí D uy tâm số 3 2 /1 9 3 8 có nêu:
Phật giáo lưu nhập vào nước ta trên m ột ngàn năm mà cơ quan giáo dục phụ nữ chưa

thấy thiệt hiện. Ấ y cũng bởi phãn nhiêu các sư tăng nghĩ rẵng: "Phụ nữ thường có tánh ngã
mạn, e cho phụ nữ biết rõ giáo lý của Phật, chẳng khỏi miệt thị tăng g ia ’ thành thử lâu nay,
có đại đa số phụ nữ học Phật, chỉ đem cái đời xu ấ t gia của mình, thù phụng với cái chủ
nghĩa, đun nước sủa con, k h â u ỵ vá áo, chịu thiệt thòi dưới cái chế độ bất bình đẳng.
(T h ích nữ D iệu H ường; 1938; tr.354)
C ũng chính vì vậy, vấn đề giải th o át trí tuệ cho phụ nữ là vấn đề được các báo Phật
giáo đặc biệt quan tâm .
Giải thoát trí tuệ cho ph ụ nữ theo tạp chí Đuốc Tuệ sổ 84 năm 1938 là “m ộ t nghĩa
cứu cho nhau th o át m ọi sự khổ sở, được m ọi sự sung sướng trong đào từ bi của Phật đó.”


358

ĩạ Thị Bích Liên

T h eo đó, tro n g bài viết này, tác giả N guyên T rọng T h u ậ t đã nêu ra bốn cái hại cho gia
đình, xã hội khi p h ụ nữ khô n g có học:
1. Sự sinh hoạt ngày nay tranh thi phức tạp, không giản dị như ngày trước. L àm ruộng
có nông họCj buôn bán có thương học, vậy các bà không có học thực, tất không đủ sức
kinh doanh được những công việc lớn lao như của người ta ngày nay, sự nghiệp vỉ thế
mà không p h á t đạt được. Đ ó là m ộ t cái h ại cho nền k ỉn h tế của x ã hội.
2. Vợ không có học thức, không đủ khuỵến khích ảược’chổng, mẹ không có học thức,
không biết giáo dục cho con thơ, có khi những vợ những mẹ dốt nát không hiểu lẽ
còn làm ngăn trở cả chí khí của chổng cùa con đi nữa. Đ ó là m ộ t cái h ạ i cho nên
giáo dục g ia đình.
3. Phụ nữ càng cẩn thiết đến tông giáo. Đạo Phật là đạo chính tín, rất thiết thực cho đời
có chủ nghĩa chân chính, có nghĩa lý rất vi ảiệu, bổ ích cho tâm thân người ta, đơn củ
như mõi hiệu Phật đểu có nhiểu ý nghĩa rất hay, nếu những tín nữ không biết chữ,
thấy lẽ thì lễ, thấy niệm thì niệm, còn hiểu gi đến nghĩa lý thực hành ảược chù nghĩa
cùa P hật nữa. Đ ó là m ộ t sự h ạ i về chính tín.

4. Phụ nữ m à không có học, không biết phần biệt thế nào là lẽ chính, thế nào là ý tà, tất
không giữ được lòng chánh tín mà bị dụ hoặc vế đường mê tín. Suy theo lời Phật dạy
ở kinh Di giáo thì những cái thuật lên đồng xem số, xem bói, xem đất, cúng nhảm,
đều là ngoại đạo, là mê tin nên bài trừ c ả ....
5. (1 9 3 8 :7 -8 )
T ừ việc phân tích tác hại của việc phụ nữ không được đi học, Nguyền T rọ n g T huật hô
hào cải cách mà trước hết là bình đẳng giáo hóa, thực hành giải thoát trí tuệ cho ph ụ nữ. Việc
đầu tiên đê’ giải phóng trí tuệ cho phụ nữ ấy chính là m ở trường học cho nữ giới. Bài đầu tiên
của m ục Nhời đàn bà có nêu lên nguyên nhân căn bản cho cuộc vận động “nữ quyển”, đó
chính là việc phụ nữ được đến trường học: “N hờ Nhà nước mở nữ học đường, để cho lũ đào tơ
được tập tành kim chỉ bút nghiên,... giá có được ăn nói thì củng khả dĩ có kinh có điển được, không
phải bàn hú họa như năm xưa nữa" (Đông Dương tạp chí, m ục Nhời đàn bà, 1913).
T ạp chí Duy tâm số 3 2 /1 9 3 8 cũng đã nêu ý kiến của ni lưu vế vấn để tổ chức
trường P hật học giáo dục cho phụ nữ: “nếu phụ nữ được cái đặc ân giáo dục, theo m ột
chương trìn h như nam giới; thì sự kết quả thành công chưa chắc N am hơn N ữ ”, “N hưng
Phật pháp chẳng n h ữ n g đ ọ c hiểu, lại củng phải tin t h ành, m u ố n th ật h à n h cho có


VÂN Đ É PHU N ữ TRÊN BÁO CHÍ PH ẬT GIÁO ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1945

359

đoàn th ể có hệ thống, có trật tự trang nghiêm , thì cẩn phải có trường đặc biệt cho phụ nữ
tu h ọc, trường đấy n ên chia làm hai lớp, m ộ t lớp dạy về hạng ph ụ nữ xuất gia, m ột lớp dạy
vế hạng phụ nữ tại gia, đâu đó đểu có qui giới chuẩn th ẳn g ” (T hích nữ Diệu Hường,
1938, tr.354-357). H ơ n thế, tro n g bài “Luận vể chấn hư ng P hật giáo nước ta ”, T hích T ử
T h iện Q uả còn vạch rõ chương trình cho các trường P h ật học:
“Trường Phật học chia làm ba lớp: sơ học, trung học và cao học, phải có N am học đường và
N ữ học đường. Học sinh chãng luận tăng đổ hay tín đổ. Lớp sơ học và trung học phải đóng tiễn,
trừ ỉớp cao học khỏi đóng."

Cách dạy: 20 người thì để 10 người học sinh tăng đổ chuyên vể p h ậ t học để lấy bâng
p h ậ t học) còn 10 người học sinh tín đô' học lấy bằng trung học rối xâỵ q u a y học cho ỉấy bâng
y học tốt nghiệp.
Học sinh gần ra ừường thì hội ỉấy tiển dự định mõi năm là 1000$00 trên đem ra lập nhà in....
Lại lập y viện cho học sinh tín đồ đậu bầngy học tốt nghiệp ra giúp việc. Làm vậy thì học sinh đặng rõ
thông đạo lý, đặng nghề nghiệpđặng có cơ sở làm, vi y học củng là một phương cứu tế.
Còn nữ học sinh, bên ni cô cũng để hai phẩn: 1. Chuyên vẽ P hật học đến đậu bâng phật
học tốt nghiệp, còn m ột phẩn tín đổ nữ học lấy bâng trung học, ni cô chuyên v ể y học, còn tín
đồ nữ thi xây vê' nữ công, học đến đậu bâng nữ công tốt nghiệp. Làm vậy thì phụ nữ cũng
đặng rõ đạo lý, đặng trọn công dung ngôn hạnh, trở nên m ột người phụ nữ có đủ chức nghiệp.
T ro n g y viện, tăng thì chữa bệnh nam, còn ni thì chữa bệnh bên nữ.
(T h ích T ử T h iệ n Q ụả - T akeo, 1936, tr.409-410)
N i cô T âm N g u y ệt - m ộ t “người tro n g cuộc”, từ sự ít họ c của chị em m à “đánh bạo
viết bài này, m ong rằng các vị có lòng nghĩ đến phật pháp, đoàn thể, giơ tay m ở m ang trí
thức cho chị em, k h ô n g n ên th iên vị bên nào, khinh thư ờ n g chị em ni giới”. T h ô n g qua
đó hô hào để m ở trư ờ ng p h ậ t học “tôi m ong rằng các trường p h ật họ c vể bên ni giới
m au chóng m ở cửa đ ể chị em n ữ niên th iếu có nơi họ c hành, có thầy dậy bảo, m ong
m ột ngày kia cũng xin đương vai gánh vác P hật pháp tuyên dương giáo hóa cho nhân
d â n ... ” (Sa di ni T â m N guyệt, 1937, tr.5).
H ọ còn thuyết phục việc m ở trường bằng cách lấy dẫn chứng ở nước bạn “Hiện nay ở
bên Ấn Độ, thậm chí đàn bà còn lập trường Phật học m à thuyết pháp giảng kinh; để tuyên
truyễn giáo nghĩa cho hạng phụ nữ quẩn xoa trong nước” (D uy tâm Phật học, 1937, tr.308)


Tạ Thị Bích Liên

360

V iệc lập các trư ờ ng P hật học đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo tăng ni
trong to àn quốc. Lúc đầu họ nhờ sự trợ giúp của các tăng ni "nếu bảy giờ các vị thượng

tọa bên ni hiệp sức cùng nhau, nhờ bên tăng giúp đỡ phương pháp, thì trường học của chúng
ta dựng thành dễ như giở bàn tay, ỉại chắc có nhiêu người giúp đỡ, vê' phấn các bà lại được
nhiều hơn nữa” (Sa di ni T âm N guyệt, 1937, trS). H ọ được th ọ giới n h ờ nhận các vị H òa
thượng làm thầy. C ô n g việc chính yếu của họ, ngoài chuyện tu h àn h là hỏ trợ cho công
việc tu tập và h o ằn g dương Phật pháp của tăng chúng. Bên cạnh đó, họ th eo T ăng
chúng đê’ học các trường gia giáo do các vị H òa thư ợng m ở đê’ dạy cho chư Tàng. T h ế
nhưng, m ộ t khi đội ngũ N i chúng ngày càng đông, các vị N i sư đã nghĩ đến xu hướng
tách ly khỏi m ôi trường giáo dục chung với chư Tăng. Đ ược sự động viên của các vị H òa
thượng b ổ n sư, họ m ạnh dạn bước ra xã hội để hoạt động độc lập. Bước ngoặt đầu tiên
được ghi nhận là sự xuất hiện của lớp học ni giới m ở ở chùa Giác H oa (Bạc Liêu) năm
1927 do T ỳ kheo ni H ổ n g N ga - D iệu N gọc (1885-1951) lập nên bằng chính gia sản
của bà. Đ ây là trư ờ ng P hật học N i đẩu tiên và đẹp nh ất của m iền T ây N am Bộ. T ừ đó,
trường là nơi quy tụ N i chúng theo học và khi đông nhất lên đến hàng trãm người, là nơi
khởi đẩu cho m ộ t quá trìn h gieo giống và p hát triển của m ạng m ạch N i giới.
T ín h đến n ăm 1940, các ni học đường được m ở ra ở nh iều nơi, số ni chúng được
đào tạo tăng dẩn. T ro n g tập th ơ của ni sư D iệu T ịn h có viết:
Bao giờ N i chúng hiệp hòa
Đồng tâm đồng chí m ột nhà đởm đương (đảm đương)
Sáng tạo thành m ột trường vĩnh viễn
Đ úng kỳ thi ỉựa tuvển học sinh
Phái đi thuyết pháp giảng kinh
Đ ủ tài biện bác thông minh phi thường.
Bà còn vạch ra m ộ t chương trình hoạt động:
Công nghệ củng tạo ra nhiểu chỗ
Lấy số lời bổ trợ mọi bề
Vừa tu vừa củng có nghề
T ự thực kỳ lực ai chê được nào


361


VẤN ĐẾ PHỤ NỬ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ớ VIÉT NAM TRƯỚC NĂM 1945

Rồi m ột m ặt hô hào cổ vũ
Lập nhà nuôi trẻ nhỏ cô bấn
Hẳng ngày un đúc tinh thẩn
T u h àn h từ thiện theo chung P hật đà. (T ỳ kheo ni N h ư Đức, 2009, tr.92-93)
C h ín h từ đây, đội ngũ T ỳ kheo ni trí thức xuất hiện, họ b ắt đầu ý thức được vấn để
xây dựng đội ngủ kế thừa bằng cách tham gia tổ chức th ọ giới cho T ỳ kheo ni, tổ chức
các h o ạt động giáo dục... T rư ờng gia giáo Giác H oa đã sản sinh nhiều vị danh ni sau này
đứng ra vận đ ộng kêu gọi giới nữ lưu tham gia tu hàn h và h o ạ t động xã hội với tư cách là
người đệ tử xuất gia của Đ ức Phật; như sư H ông Khoái D iệu C hí (1904-1988), H ồng
T ích D iệu Kim (1 9 0 8 -1 9 7 6 ), H ổng T h ọ D iệu T ịn h (1 9 1 0 -1 9 4 2 ), v .v...
Sau trư ờ ng Giác H oa, hàng loạt các trường ni giới lẩn lư ợt được th àn h lập: trường
Kim Sơn m ở tại Sài G ò n - Gia Đ ịnh, trường H uê Lâm, T ừ N ghiêm , D ược Sư, T rà
V in h ... C o n đường giáo dục Ni chúng đã thành nếp và có hệ th ố n g từ đây. Bảng dưới
đầy là m ộ t ví dụ vế sự tồ n tại của các trường h ọc dành cho ni nữ.
Bảng 1. THÍCH NỮ HỌC ĐƯỜNG TRÀ VINH
Phương danh Ni cô học sinh tại Thích Nữ Học đường Trà Vinh năm 1936 -1937

STT

Tên họ

Phép danh

Tuổi

Chùa


Làng

Hạt

1

Lê T rấm Anh

Huê - Chơn

28

Tiên linh

M inh Đ ứ c

Bến Tre

2

Lê Ngọc Trinh

Kim Viên

28

An Xuyên

Bạc Liêu


3

Dương Thị Kiến

Diệu Linh

23

Giác Hải

Phú Lâm

Chợ Lớn

4

Lê Thị Thanh

Diệu Tầm

23

Giác Hải

Phú Lâm

Chợ Lớn

5


Thái Thị Anh

Diệu Kim

20

Giác Hải

Phú Lâm

C hợ Lớn

6

Thái Thị N guyệt

Diệu Kim

19

G iác Hải

Phú Lâm

C hợ Lớn

7

Võ Thị Lựu


Diệu T rư ớ c

16

G iác Hải

Phú Lâm

Chợ Lớn

8

Lưu Thị Nhan

Diệu Tánh

29

An Xuyên

Bạc Liêu

9

T rư ơ n g Th ị Lý

Huệ Hoa

25


M inh Đ ứ c

Bến Tre

Tiên linh

(D uy tâm P hật học, 1937, tr.308)


362

Tạ Thị Bích Liên

N h ìn chung lại, việc lập trường cho ni lưu là m ột trong những nội dung quan trọng
trong công cuộc giải p h ó n g trí tuệ cho phụ nữ. Và theo như ni lưu, thì việc lập trường
m ang lại những lợi ích rất lớn: “Với m ục đích tối cao, là chấn hưng P hật giáo đúng chơn
lý, thì rất có lợi ích cho chúng sinh, chớ không phải là sự nhỏ nhen, để m ứ u cầu hạnh
phúc riêng cho cá n h â n ” (T h íc h nữ D iệu Hường, 1938, tr.359).
2.2. Vân đề hoằng dương Phật pháp bên n ữ giới

H oằng dương P hật p háp (hay còn gọi là H oâng pháp) theo tiến sĩ H uệ D ân trên báo
Đạo Phật ngày nay được định nghĩa là “m ột sự ươm m ầm hay m ột cách gieo hạt giống từ bi
hỷ xả vào lòng người để hướng mọi người đến m ột đời sống chân thiện m ỹ” (TS Tuệ Dân,
2012). H oằng pháp không phải chỉ !à m ột ý niệm đê’ nắm bắt hay m ột ý thức hiểu biết m à
không thực hành, m à là cái cần phải biết làm thế nào để cho sự nó được sâu sắc, hiệu quả,
thực tiễn trong sự quan hệ giữa chúng sinh ý thức rõ ràng được về b ổ n phận thành thực
với chính m ình, để cùng nhau đạt được sự m ưu cầu hạnh phúc chung cho m ọi người m ột
cách trọn vẹn tro n g cuộc sống hiện thực. T heo nghĩa này thì hoằng pháp là cách giúp cho
người ta chú ý để tìm thấy thêm những lời hay ý dẹp của Đức Phật dạy m à đem đạo vào
đời m ột cách thiết thự c n h ư Ngài đã làm.

Việc hoằng dương P h ật pháp thông qua rất nhiểu hình thức, tro n g đó phải kê’ đến
báo chí. Vai trò của báo chí tro n g việc hoằng pháp phục vụ dần tộ c kh ô n g bao giờ bị
đánh giá thấp. Với sự xuất hiện và hoạt động m ạnh m ẽ của các tờ b áo thì vai trò của nó
đóng góp vào sự nghiệp h o ằn g dương chính pháp phục vụ dân tộc lại càng th ể hiện to
lớn hơ n bao giờ hết. M ỗi tờ báo có m ột thế m ạnh riêng, và có cách tiếp cận riêng đối với
đổng bào P hật tử, chính vì th ế nó có sự hỗ trợ lẫn nhau tro n g việc hoằn g dương chính
pháp. N ếu Phật tử k h ô n g có điều kiện tiếp cận với loại hình báo chí này th ì sẽ có loại
hình báo chí kia h ỗ trợ b ổ sung. Đó là m ột thế m ạnh m à chỉ báo chí m ới có.
T ạp chí T ừ Bi Ă m xuất hiện với nội dung p hong phú và số lượng trang chiếm nhiểu
nhất tro n g m ỗi kỳ là nhữ ng đoạn dịch kinh, luật và luận, đăng nhiếu kỳ liên tiếp. Bên
cạnh có nhiểu bài viết b à n vể giáo lý hoặc nghi lể P hật giáo như: Lược th u ậ t lý N iết
bàn của Liên T ô n , n h ữ n g bài vấn đáp vể đạo T iên và đạo Phật; N g h ĩa lý kinh pháp...
của H ò a thượng Bích Liên; N h ữ n g bài Biện nghĩa vô thủy, Phép sám hối... của H òa
thư ợng K hánh H òa; V ọ n g tư ở ng chân n hư của T h ích H u y ền Ý. T rê n T ừ Bi Âm còn
có Sự tích Đ ức P h ật T h íc h Ca, sự tích các vị Bồ T át, các vị T ổ sư T ầy T h iên , Đ ông
Đ ộ , t i ể u s ử c á c VỊ c a o t ă n g đ ư ơ n g th ờ i... và m ụ c V ă n u y ể n h a y m ộ t s ổ t i ể u t h u y ế t


VÃN ĐỀ PHỤ Nữ TRẼN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ờ VIẼT NAM TRƯỚC NĂM 1945

363

ngắn, nội d u n g giải th ích giáo lý Phật giáo. T h ô n g qua n h ữ ng nội dung này, tăng ni
nói chung, ni giới nói riêng được hiểu b iết hơ n về P hật giáo, vế cách tu tập và tu thân.
Báo Đuốc Tuệ cũng d àn h nhiều thời lượng của các số báo để đăng tải nhiều bài
kinh, dịch, luận của các tác giả T h iều Chửu, T ố Liên, N guyễn V ăn N gọc; N guyễn T hiện
C h í n h . . . n h i ề u bài có tín h thời sự cao như Bàn vế tục đ ố t vàng mã, Đ ạo Phật với việc
làng, P hật h ọ c vấn đ á p ... góp phần làm rõ giáo lý nhà Phật, cụ th ể hóa để nó gần gũi và
dễ hiểu hơ n với ni chúng.
Viên âm tạp chí, cơ q u an ngôn luận của An N am phật học hội cũng là m ột diẻn đàn

để các tác giả thê’ hiện tâm nguyện hoằng dương Phật pháp. Các bài Kinh, luận xuất hiện
ở hầu hết các số báo, trong đó kể đến: Kinh T h ủ Lăng nghiêm , Phật giáo vấn đáp, Phật
giáo yếu đ iể m ... N h iểu bài viết với nội dung rất phong phú, gẩn gũi với người đọc m à qua
đó toát lên giáo lý P hật giáo, góp phần đem Phật giáo thẩm thấu trong tăng ni phật tử.
T rên D uy tâm p h ậ t học cũng dành nhiều thời lượng để hoằng dương Phật pháp đến
tăng ni ph ật tử. N h iề u bài kinh, luận như: Kinh ư u bà Tắc Giới của H u ệ Giải, Diệu pháp
Liên Hoa kinh của T â m Đ iển, Luận về sự ăn của N gô T rí T ín, Luận vể tài thí và pháp thí
của K hánh A nh, Lu ậ n vê niệm Phật của Phan V ãn N h â n ...
T h ô n g qua n h ữ n g bài kinh, dịch, luận trên các trang báo, ni chúng có thê’ tiếp cận
m ộ t cách dễ dàng giáo lý P h ậ t giáo. K hông dừng lại ở đó, họ còn tìm cách đưa tiếng nói
của m ình lên các tran g báo để trước hết nói lên tâm tư nguyện vọng của m ình, sau đó có
thể m ang lại ch út b ìn h đẳng cho ni giới nói riêng.
T h a m gia viết báo là m ộ t tro n g n hữ ng cách m à các ni sư ch ọ n đê’ thự c hiện việc
hoằng dương, đưa P h ật giáo đến với ni chúng và quần chúng nói chung. N gười xuất
hiện đẩu tiên trê n T ừ Bi Á m là N i sư D iệu T ịnh. N i sư tê n th ậ t là P hạm T h ị T h ọ , pháp
danh H ồ n g T h ọ , h iệu D iệu T ịn h , sinh năm 1910, người G ò C ông, th u ộ c dòng họ
P hạm Đăng. N ăm 1930, N i sư th ọ giới T ỳ kheo ni tại núi Đ iện Bà, do H òa thượng N hư
N h ãn T ừ P h o n g chùa Giác H ải làm Đ ường đầu. T hờ i gian đẩu sau khi thọ giới, ni sư
dành nhiều thời gian để h ọ c và tự dịch kinh Vu Lan, Phổ M ôn, Pháp Bảo Đàn, in ấn
tống. N ăm 1933, ni sư viết bài “Lời than phiền của m ột cô vãi” đăng trên T ừ Bi Á m số 27
năm 1933, tiếp th eo là bài “Cái án ngụy truyền Chánh p h á p ” số 73 năm 1935. H ai bài
viết trên đã gây chú ý tron g cả T ăng giới và N i giới. T ất cả các bài đăng vế sau của ni sư
trên tờ báo này cũng đều tập trung vào mục đích kêu gọi chấn hưng ni phái và sự bình đẳng.


364

Tạ Thị Bích Liên

Là người rất nỗ lực đón g góp cho Phong trào Chấn hưng Phật giáo, các bài viết của Ni

sư D iệu T ịn h gióng lên tiếng chuông tập hợp ni giới tham gia trùng hưng Phật giáo
nước nhà: “T h ờ i kỳ này là thời kỷ P hật m a lẫn lộn, tà chánh chẳng phân, đạo tục xen trò,
giả chơn khó biện. Bởi th ế nên dầu xuất gia hay là cư sĩ, dấu T ăn g lữ hay N i lưu, ở về
thời đại này, nếu ai đã có cái quan niệm đối với Phật pháp, m à m uốn duy trì chánh giáo
cho tư ơng lai, thì ai lại không đem hết tinh thán nghị lực ra đánh đổ những lối tà thuyết
dị đoan m à nắm tay n hau bước lên con đường quang m inh chánh đại...” (bài giảng tại
chùa L inh Sơn h ô m khai n h ó m đại hội của N K C N P H ); đổng thời kêu gọi N i giới dẹp
b ỏ tín h tự ti m ặc cảm, tập tru n g ý chí nghị lực cho việc h oằn g hóa, trùng hưng Phật giáo:
... nhưng vi chúng tôi đã phát tâm cấu lấy sự lợi ích chung cho tất cả loài người, thì chúng tôi
sẽ thực hành theo bản nguyện, dãu khó, dầu dễ, dấu khen, dầu chê thế nào thì chúng tôi vẫn một
lòng hăng hái, để mà đối phó với trào lưu, đặng cho rõ rệt cái "bản lai diện mục", chớ đừng đề
"Trưởng tha nhơn chi chí khí, diệt tự kỳ chi oai phong" (Đừng nâng cao chí khí cùa người mà
đem quăng cái oai phong của mình), phải nhớ câu "bỉ kỳ trượng phu ngã diệt nhi" (kia đã trượng
phu, đây ta củng trượng phu).
(T ừ Bi Âm, 1936, tr.42-43).
V ăn n gôn của N i sư D iệu T ịn h ngắn gọn, rất đanh thép, m ang tín h thuyết phục
cao, tác đ ộ n g m ạn h m ẽ đến nhận thức của tất cả m ọi người, kể cả nam giới. “N h ư trong
tỉnh G ia Đ ịnh, vể làng T â n Sơn N h ì có cô vãi D iệu T ịnh, trụ trì chùa H ài Án, xuất gia từ
nhỏ, nay tuổi gẩn ba mươi, tá n h tìn h th an h tịnh, giới h ạnh nghiêm m inh. H ớ n tự Q uốc
văn cả hai đều am hiểu, thư ờ n g thấy đắp y lên diễn đàn m à thuyết pháp, làm trong phái
tò n g lâm có n h iểu người thấy vậy m à bắt hổ th ẩ m ” (C ư sĩ M inh Ký, 1936).
C ác bài viết của ni SƯ D iệu T ịn h được đăng tải trên Từ Bi Ầm có sức lan tỏa m ạnh,
đổng thời khởi xướng diễn đàn Ni giới và hoằng pháp trên báo chí P hật giáo về sau.
R iêng tro n g tờ báo này cũng đã xuất hiện nhiểu cây bút ni giới khác, gây tiếng vang đáng
kế, n h ư Sư cô D iệu N gôn với bài “Đối với nữ lưu hiện thời, chị em ta có nên ghé m ắt
không?" (T ừ Bi Âm số 100, ngày 15-1-1936). Đặc biết sư cô D iệu M inh với bài “Vấn để
hoẳng dương Phật pháp bên nữ giới” (T ừ Bi Âm số 1 ] 6 ,1 1 7 và 118 từ tháng 11 đến tháng
12 -1936). T ro n g bài này, D iệu M inh có đưa ra những biện pháp rất cụ thê’ để có thê’
hoằn g dương P hật pháp b ên nữ giới, từ việc chia ra các thờ i kỷ: T h ờ i kỳ ấu niên, T rung
n iê n ... M ỗi thời kỳ đểu có những biện pháp cụ th ể và khác nhau. Ví dụ tro n g thời kỳ

tru n g niên, sư cô D iệu M in h có đặc biệt chú ý tuyên truyền cho 6 hạng người:


365

VẤN ĐÉ PHU Nữ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIAO ở VIẼT NAM TRƯỚC NĂM 1945

1. T u y ê n truyền cho những người đang tật bệnh.
2. T u y ên truyền cho những người m ất người thương yêu.
3. T u y ê n truyền cho những người góa phụ.
4. T u y ên truyền cho những b ọ n học giả.
5. T u y ê n truyến cho những hạng quan sang.
6. T u y ên truyển cho những hạng p h ụ nữ có chức nghiệp.
C h o rằng đây thời kỳ m à trung niên đang rất hoài nghi về tôn giáo song lại rất hữu
dụng với chúng sinh. Bởi thế, việc tuyên truyền đối tượng này được coi là nhiệm vụ
không th ể thiếu đối với các n h à hoẳng pháp.
Sư cô cò n hô hào chị em:
N ếu chị em có cái quan niệm m ật th iết đối với N i lưu và tín nữ, là những bạn đổng
m ột tá n h cách với chúng ta thì cũng nên ráng sức h ồ hào th êm m ột p h en nữa, làm sao

cho Ni lưu cũng có chùa riêng; có am riêng và cũng có Phật giáo hội như bên Tăng già
vậy... P h ật giáo cũng có th ê m m ộ t cái quang ảnh vẻ vang ở trên còn đường hoẳng h ó a là
khác nữa....
(Sư cô D iệu M inh, 1936, tr.40)
T u y tổ n tại tro n g th ờ i gian ngắn ngủi, nhưng những đóng góp trê n diễn đàn của N i
giới ở bán nguyệt san T ừ Bi  m trong giai đoạn này rất đáng trân trọng, không chỉ làm
pho n g p h ú trang lịch sử b áo chí P hật giáo, m à góp phần không nh ỏ tro n g cuộc cách
m ạng làm th ay đổi n h ận thứ c của m ọi người vể nữ giới nói chung và về ni giới nói riêng.
V iệc h o ằn g dương P h ật pháp còn đạt được kết quả tố t th ô n g qua việc trự c tiếp
giảng bài tại các chùa. Báo Đuốc Tuệ ghi lại nhiểu bài giảng của các ni sư như Đ àm

H ư ớng với bài Lời than phiền của ni cô Tâm N guyệt; Vấn đẽ ni học, bà Đ inh C hí
N ghiêm tại chùa Sơn T h ủ y (N o n N ư ớc); N in h Bình với bài diẻn th u y ết P hật giáo với
phụ nữ Việt N am , nữ giáo h ọ c N in h Bình có đưa ra các lý do để p h ụ nữ đi th eo con
đường tu tập P hật giáo: “T u theo được đạo P hật rồi thì bỏ được ba cái độc: tham , sân,
si, giải th o á t được m ọi điểu p h iến não. D ẩu cho ph ụ nữ đa sầu, đa khổ; như ng n ếu đã
giác ngộ, tâm p h ụ n ữ trở lại tâm Phật, tín h p h ụ nữ quay về tín h Phật, sẽ n h ờ pháp lực
Phật m à lấp được “khổ ải vô b iê n ”.


366

Tạ Thị Bích Liên

T ạp chí D uy tâm p h ậ t h ọ c cũng ghi lại nhiều bài giảng. Lời yêu cầu của cô T hích nữ
D iệu H ư ờng đọc bữa khai trư ờ ng hội Lưỡng Xuyên P hật h ọ c ....
T rên tạp chí Viên Ă m cũng có hàng loạt các bài giảng của các ni SƯ: Ni sư H uệ T âm
với bài "Chúng ta phải nên tín ngưỡng phật pháp, tín ngưỡng phật pháp không phải là mê tín”
giảng tại Chi hội P hật giáo chùa Đ ồng Q uang - H à Đ ông (này là chùa N am Đổng, phố
T ây Sơn, H à N ộ i). T ro n g bài giảng này, ni sư chỉ rõ khoa học dẫu có lợi ích cho đời vế
đường thực tế đi chăng nữa, nó cũng chỉ là sự tiến h óa tương đối riêng về vật chất m à thôi,
chứ vế m ặt tinh th ần thì chưa tháy bổ ích gì. Và sự tiến hóa ấy không thể cứu thế gian khỏi
T h am - Sân - Si ( . . . ) K hoa học đã không phải là th ẩn dược cứu đời, thì chi bẳng ta theo
Phật pháp m à nương tựa dưới bóng Bồ đề, Phật pháp cứu cánh là trí tuệ, là giải thoát, là từ
b i;b ác ái...
Với sự hỗ trợ của báo chi, công cuộc hoằng pháp không những đạt được tiến bộ rất
nhanh vể m ặt tốc độ m à còn có tính thời sự, hiệu quả rất lớn tác động đến Phật tử và các
tẩng lớp nhân dân.
2.3. Vấn đề vận động, tập hợp ni giới tham gia gánh vác công việcxâ hội

Các vị Ni sư đâ đổng thời chú tâm tới công tác xã hội. Ở Bạc Liêu, Ni sư Hồng Nga

p h át động pho n g trào cho các ph ú hộ, điển chủ vùng Bạc Liêu xây dựng chùa, vận động
các tín đồ cùng m ình p h át tảm in Kinh Đại Bi Xuất T ượng và Kinh T am Bảo. Bà cũng
tham gia công tác cứu trợ cho bà con nghèo để cứu đói trong giai đoạn 1945-1947. Ni sư
D iệu T ấn, ngoài việc m ở trường dạy N i chúng, cũng tham gia xây dựng ký nhi viện, viện
dưỡng lão để giúp đỡ những người cơ nhỡ; chùa Phước Huệ, Sa Đ éc cũng là cơ sở cô nhi
viện. N i sư N h ư T h an h , bắt đầu từ việc xây dựng hệ thống trường Kiểu Đ àm dạy thiếu nhi
nhà nghèo, hiếu học m iễn phí, thành lập nhiểu ký nhi viện, cô nhi viện cũng m ang tên
Kiều Đàm, tồ chức các lớp dạy nghể, m ở các phòng thuốc Nam, th u ố c Tây, cấp phát
thuốc cho dân nghèo... T ấ t cả đểu hoàn toàn m iẻn phí.
T ạp chí Tiến H óa số ra m ắt đã đăng hình cô nhi viện này, m ộ t cô nhi viện có thế
gọi là cô nhi viện P h ật giáo đẩu tiên tại V iệt N am tổ chức theo kiểu T ây phương. Tiến
Hóa số 1 cũng đăng h ìn h hộ i P hật H ọc Kiêm T ế cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá
và cho biết rằng hội đã nuôi ăn từ 200 đến 300 nạn nhân bão lụt tại trụ sở của hội trong
thời gian hai tháng. H ìn h chụp ngày 26-9-1937. N goài chủ ý m uốn chứng m inh rằng
hội P hật H ọ c Kiêm T ế khô n g phải là hội “chịu n ó i suông”, Tiến Hóa lại tuyên bố rằng


367

VẤN ĐỀ PHỤ Nữ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1945

tờ báo khô n g những sẽ “tu y ên tru y ền ” cho P hật học m à còn ‘tuyên tru y ền ” cho “bất cứ
h ọ c thuyết nào có đ ủ p h ư ơ n g pháp làm chúng sanh khỏi khổ được vui”. T h e o Tiến Hóa,
những h ọ c thuyết n ào có tín h cách từ bi bác ái thì đều được Tiến Hóa công nhận là
“P hật p h á p ” cả (T ạ p chí Tiến hóa, 1938).
Đuốc Tuệ số 11 ngày 2 5 /2 /1 9 3 6 có ghi rõ những việc P hật tử có th ể làm, đề nghị
tất cả các vị tăng sĩ trụ trì các tu viện sử dụng m ộ t hàn h lang ở chùa m ình đê’ làm ký nhi
viện, và đ ộ n g viên m ộ t số nữ P h ật tử tình nguyện đến dạy dỗ, chăm sóc và chữa bệnh
đau m ắt cho trẻ em. N h ữ n g đứa nào suốt ngày đã la cà nơi xó chợ sần đình đểu nên đem
vế ký nhi viện “h à n h lan g ” ấy.

P h o n g trào C h ấn hư ng P hật giáo đến cuối năm 1937 đã có ảnh hưởng sâu rộng
đến quần chúng. T h e o đó, tăng ni p h ậ t tử đả kích những điểu cấm kị: N i giới trên diễn
đàn T ừ Bi Ầ m củng có tiếng nó i m ạn h m ẽ, đả p h á vào những điểu cấm kỵ:
Vậy th ủ hỏi hết thảy P hật giáo đổ trong ba kỳ ngày nay ai là người vào trong nhà đĩ,
quán rượu mà thân tâm thanh tịnh như ở chõ đạo trường được chưa? A i là người thấỵ sâc
không mê sãc, nghe tiếng m à không mê tiếng được chưa? - H ay là: nhãn bị sắc khiển qui ngạ
quỉ, nhĩ tùy thinh khứ nhập a tỳ? (Con m ắt bị sãc đẹp ảắt đến đường ngạ quỷ, lỗ tai bị tiếng
hay dẫn vào ngục a tì).
(T â m Đ ăng cư sĩ, 1937, tr.28)
Và k hô n g chỉ có N i giới; m à b ạn đọc nữ lưu gần xa cũng rất quan tâm :
Trong thế gian thường có nhiều kẻ mượn danh Phật làm nghể sanh nhai... Chừng nào
họ chết xuống âm phủ, D iêm vương hành tội thì họ mới biết, chớ bây giờ trên dương thế này,
thì họ cứ làm nghê' “mượn P hật làm d an h " đó, sung sướng hơn các nghê kháCj được ăn trên

ngồi trước mà có rượu th ịt ăn uốngê h ề- Tội lắm! - Tội lắm !..." (D iệu Q uang; 1937, tr.40).
Đuốc Tuệ còn d ành nhiều bài trên nhiêu số báo để phê phá n tục đốt vàng mã "cho
nên đến như những th u ậ t xem tướng sốj p h ậ t còn cấm chỉ, rặn lại ở trong kinh Di- giáo
nữa là cái việc giả dổi n h ư đốt vàng m ã ... ", coi đó như cái nghề vô vị, có hại cho đời "làm
ra nó há không có tâm não m à không biết chán không m uốn tự bỏ" (T u ệ Quang cư sĩ,
1938, tr. 12-13).
Song song với n h ữ n g công việc xã hội, việc tập hợp, th àn h lập m ộ t hội P hật học
củng là m ộ t yêu cầu th iế t yếu. T ro n g bài "Ỷ kiêh phụ nữ đối với Phật học ở xứ ta", số 17,


Tạ Thị Bích Liên

36 8

ra tháng 9,10 năm 1935, T ỷ khiêu ni H uệ T âm chỉ rõ: hiện nay p h o n g trào chấn hưng
Phật học đã sôi nổi lan khắp ba kỳ. N h iều H ội P hật học được th à n h lập nhằm hai m ục

đích cốt yếu là ch ỉn h đ ố n T ăn g già và H oằng dương C h án h pháp. Bà trông m ong những
vị chủ trương các H ộ i dầu là T ăng sĩ hay cư sĩ, hãy gắng sức thực h àn h Phật pháp để làm
gương cho đời, ném p h ứ t bỏ lợi danh, xé tan m àn vật chất, để cho ai nấy trông vào đểu
sinh lòng tín ngưỡng. V ậy m ới gọi là “Phật pháp đống lương, T h u y ề n lầm long tư ợng”.
T h eo bà, cái cốt yếu cần phải làm trước để cho thiên hạ trô n g vào là các H ội cần phải
thực h àn h chủ nghĩa Lục hòa, hợp n h ất cùng nhau để chung lo P h ật sự. Bà để xướng các
H ội Phật học hợp n h ất để bàn luận cùng nhau giải quyết nhữ ng vấn để trọ n g yếu, nhắt
là bốn việc sau:
- Giảng biệt P h ật p h áp và ngoại đạo.
- Đ ịnh rõ giới tướng và p h ầm cách của các bậc xuất gia.
- Đ ịnh rõ giới tướng và b ổ n p h ận của các bậc tại gia.
- Kiểm sát những cơ quan tuyên truyền Phật giáo.
M uốn hợp n h ất thì các H ội P hật học và các sơn m ôn tro n g ba kỳ đểu ủy đại biểu
hội họp cùng n hau tro n g m ộ t Đại tùng lâm, hoặc ba năm m ộ t lẩn, hoặc m ộ t năm m ột
lẩn để cùng n hau b àn đ ịn h và th ảo luận chương trình ho ằn g ph áp của m ỗi xứ để cho
thích hựp với trìn h độ dân c h ú n g ... Có th ể nói, T ỷ khiêu ni H u ệ T â m là người đẩu tiên
trong N i giới để xướng vấn để T h ố n g nhất P hật giáo V iệt N am . Và, bà đâ dấn thân
không m ệt m ỏi vào sự nghiệp này: “Tôi trực tiếp với thiển gia ngoài Bấc trong N a m ngót
10 năm trời, biết rõ nội dung nên p h á t sinh ý kiến như vậy” và khi được hầu tiếp H òa
thượng C h án h T ổ n g lý H ội Phật học Lưỡng Xuyên, bà đã bày tỏ ý kiến hợp nhất các
H ội P hật học tro n g ba kỳ “nhưng chưa rõ N gài sẽ định liệu th ế n à o ”.
M ộ t tro n g n h ữ n g h o ạ t đ ộng nổi b ật n h ắt đối với N i giới n ó i riêng và P h ậ t giáo
m iển N am n ó i ch u n g là tiế n trìn h vận độ n g th à n h lập N i b ộ Bắc tô n g m iển N am .
N h â n vật vật nổi b ật n h ấ t là N i trư ởng N h ư T h a n h . Bà ìà ngư ời có tấm n h ìn khá
rộng và có uy tín rất lớ n tro n g cộng đồ n g N i giới khắp m ién N a m thờ i bấy giờ. Khi
n h ận được lời giáo h u ấ n của chư vị H ò a thư ợng tô n tú c và của G iáo hội T ăn g già
N am V iệt, bà đã đi vận đ ộ n g các tổ đình N i trê n khắp m iền N a m để th à n h lập N i bộ.
Đ ây được xem là m ộ t h o ạ t đ ộ n g khá sôi nổi của N i giới khi tiế n đến h in h th à n h m ộ t
tố chức riêng cùa m ình.



VẤN f)Ế PHU Nữ TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ờ VIÊT NAM TRƯỚC NÁM 1945

369

2.4. Vấn đ ề tuyên truyền phụ n ữ tham gia phong trào giải phóng dân tộc trong
cuộc vận động Cách m ạng tháng Tám 1945

P hật giáo xuất hiện ở V iệt N am từ rất sớm. Phật giáo nguyên thủy không phải là
m ộ t học thuyết về chủ nghĩa yêu nước. N hư ng để tồ n tại ở V iệt N am , vốn là vùng đất có
truyển th ố n g yêu nước chố n g ngoại xâm oanh liệt, P hật giáo không thể không thấm

đượm tin h th ắn yêu nước ấy. Có lẽ chính người V iệt N am đã thổi vào P hật giáo tinh
thẩn yêu nước (N guyễn T ài T hư , 1986, tr.24-39).
T rên thực tế, nhìn chu n g P hật giáo luôn đồng hành cùng dần tộc. Khi T ổ quốc lảm
nguy rất nhiếu P h ật tử sản sàng “cởi cà sa, khoác chiến b à o ” n h ư lời tuyên bố của nhà sư
T hích M inh N guyệt:
Phật giáo Việt N a m chỉ bến vững và có ý nghĩa khi đã biết gắn mình vào với dân tộc Việt
N am , hòa mình trong cộng đổng các dân tộc Việt Nam , không thể khép khín hoặc tách rời khỏi
cộng đồng đó. Đứng trước họa xâm lăng đang đe dọa tổ quốc, Phật tủ không thể ngối yên gõ
m õ tụng kinh cău nguyện, m ặc cho kẻ thù đem súng đến tàn sát những người ruột thịt của

mình. Có ý thức như vậy và hành động đúng như vậy, tăng ni, Phật tủ mới thể hiện đúng tinh
thẩn "vô ngã, vị tha” của Đức phật, nghĩa là Phật tủ luôn quên mình để cứu độ chúng sinh”.
(H à T h ú c M inh, 1986, tr.47)
Vì vậy, ở m iến N am , vào nhữ ng năm 1925 - 1926; khi các nh à sư trẻ tham gia
những cuộc vận động yêu nước, bị chẩt vấn “ai xui thầy chùa đi biểu tìn h ”, giáo thụ
T h iện C hiếu ở chùa L inh Sơn đã viết bài trả lời trên báo rằng: “T h u y ế t từ bi cứu khổ
của P hật T ổ xui P hật tử th am gia những cuộc vận động yêu nước thư ơng dân chớ không
ai xui cả” (T rần V ăn Giàu, 1975, tr.230)

T hời kỳ diễn ra p h o n g trào chấn hưng Phật giáo cũng là thời kỹ ph o n g trào cách
m ạng ở H à N ộ i cũng n h ư các tỉnh thành khác trong cả nước p h át triển sôi động nhất.
Bắu khòng khí cách m ạng đó đã cuốn hút tầng lớp n h ân dân, tro n g đó có bộ phận
khô n g nhỏ giới tăng ni, P h ật tử vào phong trào cách mạng.
Sát ngày diẻn ra C ách m ạng tháng T ám , trước khí th ế cách m ạng sôi sục, ngày
15.08.1945 trên số báo cuối cùng (257 - 258) Đuốc Tuệ đăng tin ủ y ban nhân dân cách
m ạng Tăng già Cứu quốc đ o àn p h ủ bộ T h ủ y N guyên th u ộ c chiến đấu khu thứ tư (Đ ệ
tứ chiến khu Đ ô n g T riều ) đã th àn h lập ngày 23 tháng 7 Ất D ậu (30.8.1945). H ội quán
tại chùa Phương M ỹ, cách p h ủ lỵ T h ủ y N guyên 2 cây số và kêu gọi: “Tăng N i các hạt


370

Tạ Thị Bích Liên

mau mau thành lập đoàn Tăng già Cứu quốc, theo mục đích m à tham gia vào công cuộc
cách mạng hiện thời, nếu vị nào có nhiệt tâm nhưng vì địa phương chưa tiện nơi tổ chức xin
kíp về chùa Phương M ỹ, T hủy Nguyên, chúng tôi hết sức hoan nghênh và sẽ trình bày công
việc tiến hành”. Bìa sau c u ố n sách Đuốc Tuệ này đăng nhữ ng khầu hiệu và nhữ ng lời kêu
gọi như sau:
ủ n g hộ chính quyền N h â n dân
M au mau gia nhập Đội Quân Giải Phóng Việt N am !
Chống mọi cuộc xâ m lăng!
Việt N a m Độc Lập H oàn Toàn!
Hãy sủa soạn nghênh tiếp Chính Phủ Lâm Thời và Đoàn Quân Giải Phóng sấp vế tới nơi!
H ãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của M ặ t Trận Việt M inh!
(N g u y ễn Lang, 2000, tr.9 0 l)
Số báo nó i trên là số b áo ch ót cùa tạp chí Đuốc Tuệ, số 257-258 ra ngày 15.8.1945.
N hữ ng tạp chí khác ở T ru n g và ở N am củng đểu nhất loạt đình bản. Q ụ ần chúng Phật
tử tro n g nước chấp n h ận sự đình trệ của công việc ho ằn g p háp để th a m dự h ết lòng vào

việc nước. C ác đ o àn th ể T h a n h th iếu niên phật tử không còn giữ được nhữ ng b u ổ i sinh
ho ạt riêng. C ác K huôn T ịn h Đ ộ (đ ơ n vị xã của các hội P h ật giáo) cũng khô n g còn giữ
đ ư ợ c những buổi sinh h o ạ t riêng. T ấ t cả đểu đi tham dự vào các tố chức cứu quốc:
T h iếu niên T iển pho n g , T h a n h niên T iển phong, Phụ lão cứu quốc, T ăn g già cứu quốc,
Phật giáo cứu q u ố c ... G u ồ n g m áy h o ạt động của các Sơn M ô n và các hội P h ật giáo từ
cấp tru n g ương đến cấp xã đ ều được coi như tạm thời ngưng h o ạ t động.
C uối năm 1946, th ự c dân Pháp tái chiếm Việt N am , nh ân dân ta bước vào cuộc
kháng chiến trường ki. T rư ớ c khí th ế sôi động của cuộc kháng chiến, nhiểu nh à sư các
tỉnh th àn h Bắc Bộ tìn h nguyện lên đường phục vụ hoặc trực tiếp th am gia chiến đấu bảo
vệ N h à nước V iệt N am n o n trẻ.
T h ư ợ n g to ạ T h a n h c h â n là U ỷ viên T hư ờ ng trực M ặt trậ n Liên K hu 3 tro n g suốt
thời ki kháng chiến ch ố n g Pháp. Đ áng kể nhất là p h o n g trào "cởi áo cà sa khoác chiến
bào" diễn ra m ộ t cách sôi nổ i tại nhiều tỉnh thành Bắc Bộ. Sau ngày toàn quốc kháng
chiến, tăng ni tỉnh K iến A n đã th àn h lập Bộ đội T ăng già, có 15 nh à sư tình nguyện cởi
áo cà sa xung phong ra chiến trường. Ngày 27 tháng 2 năm 1947, H ội Phật giáo Cứu quốc


V Ấ M Đ Ể PH U N ữ T R ÊN BÁ O C H Í P H À T G IÁ O ở V IÊ T N AM TR Ư Ớ C N ĂM 1 9 4 5

371

tinh N am Đ ịnh, long trọ n g làm lẽ cởi áo cà sa, tiễn đưa 24 nhà sư (có 2 nữ) tòng quân
tại trụ sở của H ộ i ở chùa C ổ Lễ (huyện N am T rự c). T rư ớ c lúc nhập ngũ, sư Đ àm
T hanh, tu h àn h tại chùa C ổ Lễ, đã viết bài th ơ nói lên tâm trạn g náo nức ra trận chiến
đấu chống ngoại xâm , bảo vệ T ổ quốc:
Cởi áo cà sa khoác chiến bào
Việc quân đâu có quản gian lao
Gậy thiền quét sạch loài xâm lược
Theo gót Trưng Vương tỏ nữ hào.
T ro n g h àng ngũ đ ô n g đảo tự vệ xung phong của thị xã N in h B ình và huyện Gia

K hánh (tỉn h N in h B ình), có tới 60 sư nữ. H ọ vốn tu tại các chùa C h ù a Bát; Phúc Am,
Phúc C hỉnh, N o n N ước, Bộ Đầu, Ba V u ô n g ,... Các nhà sư ấy nai n ịt gọn gàng trong bộ
quần áo nâu, th ắ t lưng nâu, khăn vuông nâu, hăng hái trong đội ngũ làm công tác tiếp tế,
tuần tiễ u ,... và sau đ ó p h ần lớn trở thành cứu thương của các đơ n vị bộ đội chiến đấu
hoặc hộ lí tro n g các trạm quân y (Bộ chỉ huy Q uân sự tỉnh H à N a m N in h . 1 9 8 6 :1 1 0 ).
T rên thự c tế, số tăn g ni, Phật tử phục vụ hoặc trực tiếp th a m gia chiến đấu không
phải là hiện tư ợ ng đặc b iệt của pho n g trào Phật giáo tham gia kh án g chiến. Số đông
giới Phật giáo th am gia kháng chiến m ộ t cách gián tiếp, bằn g n h iề u h ìn h thức, từ bất
hợp tác với kẻ ngoại xâm và ngụy quyền đến nuôi dưỡng người kháng chiến trong cơ sở
trụ trì của m ình, đặc b iệ t là ni giới. N h ư ng những h o ạt động tô n giáo và nuôi dưỡng tình
cảm, tâm h ồ n dân tộ c cũng là m ột sự đóng góp lớn lao vào công cuộc kháng chiến. Đó
là m ột sự đ ó n g góp th ẩm lặng; m ột sự đóng góp không tiếng súng. N h ữ n g chiến sĩ cách
m ạng, những người cộ n g sản đã nhận ra điểu đó và trong quá trìn h đấu tranh đã tận
dụng tối đa sự th am gia kháng chiến không tiếng súng này.
Rải rác khắp nơi, n h ữ n g vị N i sư như những bà m ẹ hiền lu ô n dang rộng vòng tay,
đón nhận và che chở cho cán bộ ho ạt động cách mạng. T ê n tu ồ i của họ còn lưu lại
nhiều tro n g các trang sử của dân tộc.

Kết luận
‘‘Vẩn đ é p h ụ n ữ ” rõ ràng là m ộ t vấn để thực tế trong xã hội V iệt N am trước Cách
m ạng th án g T ám 1945. C ùng với những chuyển biến vế kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục từ sau C h iến tra n h th ế giới th ứ I, vấn đế ph ụ nữ ngày càng trở th à n h m ột vấn đế bức


372

Tạ T h ị B íc h L iê n

xúc hơn bao giờ hết. Đ ặc biệt, dưới tác động của phong trào C hấn hưng Phật giáo, vấn
đề phụ nữ nổi lên trê n các diễn đàn báo chí tiếng V iệt nói chung và diễn đàn của báo chí

Phật giáo nói riêng m ộ t cách công khai, được thảo luận rất sôi nổi.
Sự p h át triển của các tờ báo Phật giáo đã thể hiện xu hư ớng phát triền chung của
báo chí và vai trò tiên p h o n g tro n g việc phản ánh tình hình xã hội V iệt N am đầu th ế kỷ
XX, cũng như vai trò, địa vị của ni giới - m ột bộ phận không nh ỏ của tầng lớp p h ụ nữ
V iệt N am lúc bấy giờ.
Vấn đề phụ nữ được thảo luận trên báo chí Phật giáo đã phản ánh rõ những tác động
của phong trào p h ụ nữ th ế giới không chỉ đối với phụ nữ V iệt N am nói chung mà còn tác
động đến nội dung thảo luận về ni giới trên báo chí Phật, giáo nói riêng. Đó là các vắn để
vể giải tho át trí tuệ cho ni giới, m ở trường học cho ni giới; vấn để ni giới tham gia các hoạt
động xã h ộ i.... Đ ặc biệt những vấn để phụ nữ trên báo chí P hật giáo cũng phản ánh thực
trạng địa vị của ni giới ở V iệt N am cũng như phản ánh truyển thống nhập th ế của giới
P hật giáo Việt N am khi đặt vấn đề vận động ni giới tham gia các hoạt động xã hội cũng
như th am gia vào p h o n g trào giải phóng dân tộc của nhân dân V iệt N am .
T ừ sau Chiến tranh th ế giới thứ nhất, trên báo chí P hật giáo bắt đầu xuất hiện tiếng nói
của những tâng lớp trí thức ni sư. N hiểu cuộc thảo luận vể vấn để p h ụ nữ trên các tờ báo
này đã thúc đầy xã hội quan tâm hơn đến phụ nữ nói chung và ni giới nói riêng. M ục riêng
dành cho ni giới trên các tờ báo Phật giáo đã trở thành phương tiện giúp ni giới nâng cao
trình độ vể m ọi m ặt như trí thức, kỹ năng sống, kiến thức khoa học, văn chương, nghệ
th u ậ t... Sự có m ặt ngày càng đông của các ni giới trên báo chí thể hiện sự trưởng thành của
ni giới trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. T ừ việc nhận thức vai trò và vị trí của m ình trong xả
hội, ni chúng đã dấn thân vào các hoạt động thực tiền. Đ ó là sự tự nguyện tham gia đông
đảo của ni giới vào các cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng.
N àm 1950; H ộ i P h ật giáo th ế giới được thành lập và P hật giáo V iệt N am là thành
viên sáng lập, được đặt chi bộ tại chùa Q uán Sứ (H à N ộ i). N ăm 1951, T ổ n g h ộ i Phật
giáo V iệt N am ra đời, th ay vào "Hội Phật ^iáo" ở ba kỳ là ba danh xưng "Giáo hội T ăng
Già Bắc Việt, T ru n g V iệt và N am Việt" đểu trực th u ộ c T ổ n g hội P hật giáo do H òa
thượng T h ích T ịn h K hiết làm H ộ i chủ. Dưới sự tổ chức đó; N i giới ngay từ đầu đã có
m ặt tro n g hàng ngủ lãnh đạo - đó là ni sư T hích N ữ N h ư T h a n h (D iệu T á n h ). Vai trò
ấy bắt đầu được n h ận lãnh khi G iáo hội T ăng Già N am V iệt được hình th à n h năm 1952,
do H ò a th ư ợ n g T h iệ n H ò a làm T rị sự h ư ở n g . Q ua tài liệu ít ỏi chú n g tô i có được.



V Ấ N Đ Ế PHỤ N Ữ T R Ê N BÁ O C H Í P H Ậ T G IÁ O ờ V IÊ T N A M TR Ư Ớ C N ẨM 1 9 4 5

373

chưa điy đ ủ để khẳng định dứt khoát, nhưng qua điểu 13; 14, chương II của N ội quy
điểu lệ jiá o hội T ă n g G ià N am Việt, có thể m ạnh dạn nói rằng lần đầu tiên tổ chức N i
b ộ đượ: chính thức h ìn h thàn h và được Giáo hội công nhận bằng văn bản tồ chức hẳn
hoi. Đ â/ chính là n iềm vinh dự to lớn, cũng là hoài b ão của bao th ế hệ N i chúng Việt
N am trẽn con đường đấu tranh vì quyển con người và quyển của p h ụ nữ.

TÀI Llệj THAM KHẢO
1.

P hai Bội C hâu, Văn đề phụ nữ, D uy tân thư xã, H u ế, 192,1929.

2.

Đ ặig T h ị V ân Chi, V ấn đế p hụ nữ ở V iệt N am trước C ách m ạng tháng T ám 1945:
N ộ du n g và giải pháp. Hội thảo quốc tế V ỉệ tN a m học lần thứ 3 - Việt N am hội nhập
và jh á t triển. N xb Đ ại h ọc Q uốc gia H à N ội, T ập 1, 397, 2011.

3.

Đ ặig T h ị Vân Chi, V ấn để p hụ nữ ở V iệt N am trước cách m ạng tháng T ám 1945:
N ộ dung và giải pháp. Hội thảo quốc tế Việt N am học lần thứ 3 - Việt N am hội nhập
v à jh ả t triển. N xb Đại họ c Q ụốc gia H à N ội, T ập 2, 2011.

4.


TS T uệ Dần, Vài dòng giới thiệu vể bốn chữ H oằng dương Phật pháp. T ruy cập từ
h t t j : / / w w w .daophatngaynay.com /vn/phat-phap/giao-phap/np-thp/ 10520-Vai-donggio)thieu-ve-bon-chu-Hoang-duong-Phat-phap-.html (truy cập ngày 10/4/2015), 2012.

5.

T â n Đ ăn g n ữ CƯ sĩ, “Cái tu sơn lâm với cái tu th à n h th ị”, T ạ p chí T ừ Bi Ă m .
SỐ 133, 28, 1937.

6.

T ỳ cheo ni N h ư Đức, Lược sử ni giới Bấc tông Việt Nam, Nxb T ô n giáo, tr.92,93.2009.

7.

T rá i V ăn G iàu, Sự p h á t triển cùa tư tưởng Việt N a m từ thể kỷ X I X đến cách mạng
tháig T ám , N xb K hoa h ọ c Xã hội, H à N ội, T ập 2, 1975, tr.230.

8.

T h c h nữ D iệu H ư ờng, “Ý kiến ni lưu”, T ạp chí D uy T â m p h ậ t học, Sổ 32, 1938,

tr.354-359.
9.

N giyễn Lang, Việt N a m Phật giáo sử luận. Nxb V ân học, H à N ội, T ập I-II-III, 2000,
tr.9 )l.

10. H à rh ú c M inh, “L ịch sử tư tưởng Việt N am và m ấy vấn để P hật giáo”. T ro n g cuốn
M â' vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt N am , ủ y ban Khoa học xã hội Việt Nam,

việi T riế t học, H à N ội, 1986, tr.47.


T ạ T h ị B íc h L iê n

374

11. Sư cô D iệu M inh, "Đối với nữ lưu hiện thời, chị em ta có nên ghé m ắt không?”, Tạp
chí T ừ Bi Âm , số 100, ngày 15 tháng 1,1936, tr.40.
12. Sa di ni T ằ m N g u y ệt, “Lời th an phiền của ni cô T ầm N g u y ệ t”, T ạp chí Đuốc Tuệ,
số 60, 1937, tr.5.
13. Bộ chỉ huy quần sự tỉn h H à N am N inh, Lịch sử kháng chiến chống Thực dân Pháp,
1986, tr.110.
14. D iệu Quang; “H iện trạng P hật giáo đồ ở nước ta hiện nay”, T ạp chí Từ Bi Ầ m , sổ
140,1937, tr.40.
15. T u ệ Q u an g n ữ cư sĩ, “T h ư cho b ạn nữ cư sĩ P hư ơ ng H ư ơ n g giáo sư ”, T ạ p chí
Đuổc Tuệ, số 85, 1938, tr.12-13.
16. T h ích T ử T h iệ n Q u ả - T akeo, “Luận vể chấn hưng p h ật giáo nước ta ”, T ạ p chí
D uv tâm, Lưỡng xuyên P h ật học T rà Vinh, số 0 7 , 1936, tr.409-410.
17. Cư sĩ M inh Ký, “M ộ t cuộc điểu tra vể Ni giới”, Tạp chí T ừ Bi Ảm , số 117, ngày 1-12,
1936.
18. N guyẽn T h ị T hập, “Lịch sử pho n g trào ph ụ nữ V iệt N a m ”, N xb Phụ nữ, H à Nội,
T ập 1 ,1 7 1 ,1 9 8 1 .
19. N guyẻn Tài T hư , “P h ật giáo và th ế giới quan của người V iệt N am trong lịch sử”.
T ro n g cuốn M ấy vấn để Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt N am . ủ y ban K hoa học xã
hội V iệt N am , viện T riế t học, H à N ội, 1986, tr.24-39.
20. Nguyèn T rọng Thuật, “Giải thoát trí tuệ cho phụ nữ”, T ạp chí Đuốc Tuệ, số 84; 8 , 1938.
21. T rần T h iện Tỵ, Bùi T h ế Phúc, “Vấn để ph ụ nữ ở V iệt N a m ”, tr .6 5 ,1932.
22. “Bài diễn văn tại cuộc lẽ khánh thành chùa Hải Ấn”, T ạp chí Từ Bi Ẳnt/ số 111,1936,
tr.42-45.

23. Kính cáo độc giả, T ạ p chí Tiến Hóa, số ], tháng 1,1938,



×