Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận kinh tế du lịch giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.69 KB, 32 trang )

1. TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
1.1. Du lịch
1.1.1. Định nghĩa du lịch
Trong hội nghị năm 1993 với chủ đề Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường:
hướng tới một sự hòa hợp lâu dài, Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourism
Organization - UNWTO), một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc đã đưa ra khái niệm du
lịch như sau: Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú,
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ
ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa,
trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định
cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một
dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
1.1.2. Phân loại du lịch
Hoạt động du lịch có thể phân nhóm theo các nhóm khác nhau tùy theo yêu cầu và
mục đích khác nhau:
a. Phân loại tổng quát
- Du lịch sinh thái

- Du lịch văn hóa
b. Phân loại cụ thể các loại hình du lịch
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến du lịch: du lịch quốc tế, du lịch nội địa.
- Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch: du lịch chữa bệnh, du lịch
nghỉ ngơi giải trí, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch tôn giáo, du lịch khám phá,
du lịch thăm hỏi, du lịch quá cảnh,…
- Căn cứ vào phương tiện giao thông: du lịch bằng xe đạp, du lịch bằng tàu biển,
du lịch bằng tàu hỏa, du lịch bằng ô tô, du lịch bằng máy bay,…
- Căn cứ vào phương tiện lưu trú mà khách sử dụng: du lịch ở khách sạn, du lịch ở
motel, du lịch nhà trọ, du lịch cắm trại,…
- Căn cứ vào thời gian đi du lịch: du lịch dài ngày từ 2 đến 5 tuần, du lịch ngắn
ngày, du lịch cuối tuần,…
- Căn cứ vào vị trí địa lý của địa điểm du lịch: du lịch miền biển, du lịch vùng núi,


du lịch đô thị, du lịch đồng quê,…
- Căn cứ vào hình thức tổ chức đi du lịch: du lịch theo đoàn, du lịch cá nhân,…
2


- Căn cứ vào thành phần của du khách: du khách thượng lưu, du khách bình
dân,…
- Căn cứ vào phương thức kí kết hợp đồng đi du lịch: du lịch trọn gói, du lịch mua
từng phần của tour du lịch,…
1.2. Du lịch cộng đồng
1.2.1. Định nghĩa du lịch cộng đồng
Theo nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas (2000): “Du lịch cộng
đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát
triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”.
Theo tổ chức Responsible Ecological Social Tours (2003) thì “Du lịch cộng đồng
là phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch cộng đồng
do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận
thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ”.
Ý tưởng đằng sau vế “dựa vào cộng đồng” của chiến lược môi trường là tạo cơ hội
trao quyền cho cộng đồng, tăng cường sự tham gia của họ trong việc ra quyết định,
nhưng cũng chỉ đơn giản là những điều này sẽ khuyến khích sự tham gia từ bản thân
cộng đồng.
Tóm lại: Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch do cộng đồng tổ chức, dựa vào
thiên nhiên và văn hoá địa phương với mục tiêu bảo vệ môi trường. Du lịch cộng đồng
đề cao quyền làm chủ, chú ý phân bổ lợi ích rộng rãi và nâng cao chất lượng cuộc sống
cho cộng đồng. Với khách du lịch, du lịch cộng đồng tạo cơ hội tìm hiểu, nâng cao nhận
thức về môi trường và giao lưu văn hoá, trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của cộng
đồng.
Như vậy, du lịch cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch
bền vững. Du lịch cộng đồng nhấn mạnh vào cả ba yếu tố là môi trường, du lịch và cộng

đồng.
1.2.2. Các hình thức du lịch cộng đồng
Dựa trên cơ sở tiêu chí sản phẩm du lịch cộng đồng, người ta phân thành các loại
hình du lịch: du lịch văn hóa truyền thống, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp – nông
thôn, du lịch làng, bản và du lịch làng nghề truyền thống.
- Du lịch văn hóa: là một trong những thành phần quan trọng nhất của du lịch
cộng đồng bởi sức hấp dẫn của văn hóa bản địa, lịch sử, khảo cổ học, đó là yếu tố thu 3


hút khách chủ yếu của cộng đồng địa phương. Cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp
vào quá trình quản lý của hình thức du lịch này, dựa trên nguyên tắc bảo tồn hay thậm
chí phục sinh lại văn hóa địa phương.
- Du lịch sinh thái: là một hình thức du lịch diễn ra trong khu vực tự nhiên (đặc
biệt là trong các khu vực cần được bảo vệ) và kết hợp tìm hiểu bản sắc văn hóa – xã hội
của địa phương có sự quan tâm đến vấn đề môi trường. Nó thúc đẩy một hệ sinh thái
bền vững thông qua một quá trình quản lý môi trường có sự tham gia của tất cả các bên
liên quan.
- Du lịch nông nghiệp – nông thôn: đây là một hình thức du lịch tại các khu vực
nông nghiệp như vườn cây ăn trái, trang trại nông lâm kết hợp,… đã được chuẩn bị
phục vụ cho khách du lịch xem hoặc tham gia vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp mà
không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái hoặc năng suất của gia đình chủ nhà. Hình thức
du lịch này đặc biệt hấp dẫn các đối tượng khách du lịch có mong muốn đến những
vùng quê yên tĩnh, thích khám phá những hoạt động sản xuất ở nông thôn.
- Du lịch làng, bản: khách du lịch chia sẻ các hoạt động trong cuộc sống thôn bản,
dân làng cung cấp dịch vụ ăn ở, nhà trọ cho khách nghỉ ngơi qua đêm. Khách du lịch
cũng có thể chọn nhà nghỉ - nhà nghỉ này được hoạt động bởi một hợp tác xã, làng, hoặc
tác nhân cung cấp cho du khách không gian riêng tư hơn, thoải mái cho cả họ và đôi khi
cũng là thoải mái hơn cho chủ nhà.
- Du lịch làng nghề truyền thống: nghệ thuật và sản xuất thủ công mỹ nghệ ở địa
phương có một lịch sử lâu dài. Nó không phải là một hình thức độc lập của du lịch mà

chính là một thành phần của các loại hình du lịch.
1.2.3. Vai trò của du lịch cộng đồng
Đối với công tác bảo tồn tài nguyên:
− Góp phần bảo vệ bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái.
− Bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng
đồng.
Đối với du lịch:
− Tạo ra sự đa dạng sản phẩm dịch vụ du lịch của một vùng, một quốc gia.
− Góp phần thu hút khách du lịch
− Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên du lịch nói
riêng.
4


Đối với cộng đồng:
− Du lịch cộng đồng mang lại lợi ích kinh tế cho các thành viên trực tiếp tham
gia cung cấp dịch vụ du lịch cho khách hàng. Đồng thời những thành viên khác
của cộng đồng cùng được hưởng lợi ích từ sự tái đầu tư của nguồn doanh thu
du lịch vào việc hỗ trợ cung cấp phát triển cơ sở hạ tầng góp phần thay đổi xã
hội địa phương.
− Du lịch cộng đồng nhận ra trách nhiệm của mình đối với việc bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường của địa phương tại khu du lịch, từ đó tác động đến
nhận thức của các cộng đồng khác về vấn đề nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên
môi trường của cộng đồng
1.2.4. Các nguyên tắc tham gia phát triển du lịch cộng đồng
Võ Quế (2006) cho rằng các nguyên tắc để phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
bao gồm:
− Cộng đồng được quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện
và quản lý, đầu tư và có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng.
− Phù hợp với khả năng của cộng đồng.

− Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng.
− Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với tài nguyên và văn
hoá.
Theo tổ chức UNWTO (2004) các nguyên tắc để phát triển du lịch cộng đồng cần
phải dựa trên các nguyên tắc của du lịch bền vững:
− Sử dụng tối ưu nguồn môi trường, duy trì các tiến trình sinh thái học chủ yếu
và giúp bảo tồn nguồn tự nhiên và hệ sinh thái được thừa hưởng.
− Khía cạnh xác thực nền văn hoá - xã hội của cộng đồng địa phương, đảm bảo
họ đã xây dựng, kế thừa văn hoá và giá trị truyền thống, đồng thời góp phần
vào sự hiểu biết và thông cảm đối với các nền văn hoá khác nhau.


Đảm bảo sự vận hành nền kinh tế lâu dài ổn định, cung cấp các lợi ích kinh tế
xã hội đến tất cả những người có liên quan nhằm phân bổ công bằng.
1.2.5. Điều kiện hình thành và phát triển du lịch cộng đồng

− Tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú và mang tính đặc trưng cao.
− Sự tham gia rộng rãi và hiệu quả của cộng đồng.
5


− Có cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển du lịch và sự
tham gia của cộng đồng.
− Nguồn cầu của du lịch là động lực để phát triển du lịch cộng đồng của địa
phương.
− Sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước về nhân
lực, tài chính và kinh nghiệm phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
− Sự liên kết với các doanh nghiệp du lịch trong vấn đề tuyên truyền quảng cáo
thu hút khách du lịch.
1.2.6. Xu hướng phát triển du lịch cộng đồng trên thế giới hiện nay

Ngày nay du khách có xu hướng muốn tìm đến những điểm du lịch mới lạ, được
trải nghiệm, được chào đón nồng nhiệt bởi người dân địa phương, được hòa mình vào
đời sống bản địa để tìm hiểu, cảm nhận và sẻ chia với cộng đồng điểm đến. Chính vì
những lý do này, du khách chọn lựa điểm đến thuộc các quốc gia đang phát triển hoặc
kém phát triển bởi tính đặc thù và chân thực của tài nguyên du lịch tự nhiên cũng như
tài nguyên du lịch văn hóa từ đó hình thành các sản phẩm du lịch cộng đồng hấp dẫn du
khách.
Theo kết quả điều tra của UNWTO (1996), 40% chuyến du lịch trên thế giới được
thực hiện bởi các nước phát triển. Năm 2014, lượng khách châu Âu đi du lịch chiếm hơn
một nửa tổng lượng khách toàn cầu đi du lịch (575 triệu lượt/1133 triệu lượt) trong đó
dự đoán 2-4% thị phần châu Âu tham gia trải nghiệm loại hình du lịch cộng đồng và 2040% thị phần này quan tâm đến những chuyến du lịch cộng đồng.
Xét về nhu cầu của khách du lịch, dựa trên kết quả cuộc khảo sát 4000 du khách
về du lịch bền vững của TUI Travel PLC (2010) thì cứ 2 du khách sẽ có 1 người sẵn
lòng đặt chuyến du lịch hướng đến tính bền vững và 2 trong 3 du khách sẽ thay đổi hành
vi của họ trong những chuyến du lịch để bảo vệ môi trường, bảo tồn giá trị văn hóa bản
địa.

6


2. PHÂN TÍCH ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
CỘNG ĐỒNG TẠI HÀ GIANG
2.1. Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng tại Hà Giang
2.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh Hà Giang phía đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào
Cai, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc
Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc thuộc tỉnh
Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng. Vùng cao núi đá
phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt

nhiều. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc,
đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp. Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung
lũng sông Lô và thành phố Hà Giang.
2.1.2. Tài nguyên du lịch
a. Tài nguyên thiên nhiên
Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà
Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Đây là điều kiện thuận lợi cho các loài hoa như hoa
đào, hoa mận, hoa tam giác mạch sinh trưởng. Vào mùa đông, Hà Giang có tuyết rơi,
cũng là một điểm thu hút khách du lịch trong nước vốn xa lạ với hiện tượng thời tiết
này.
Hệ thống các hang động
− Hang Phương Thiện: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) xuôi về phía
nam.
− Động Tiên và Suối Tiên nằm cách thành phố Hà Giang 2 km (1.25 dặm). Nhân
dân quanh vùng vẫn thường đến Động Tiên lấy nước và cầu may mắn vào lúc
giao thừa.


Hang Chui: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) về phía nam. Hang ăn
sâu vào lòng núi khoảng 100 m. Cửa hang hẹp phải lách người mới qua được.
Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang cao vút, nhiều nhũ đá. Hang có nhiều
dơi, có dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác.
7


b. Tài nguyên văn hóa
Các di tích lịch sử văn hóa
Cao nguyên đá Đồng Văn nằm trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh,
Đồng Văn, Mèo Vạc được công nhận là Công viên địa chất Toàn cầu vào năm 2010.

Đây là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch
sử phát triển vỏ Trái Đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ,
tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa
như các dân tộc Mông, Lô Lô, Pu Péo, Dao. Cao nguyên đá cũng là nơi có nhiều di tích
danh thắng quốc gia đã được công nhận như: Di tích kiến trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng
Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, núi Đôi Quản Bạ,…
Dinh thự họ Vương thuộc xã Sà Phìn là một công trình kiến trúc đẹp và độc đáo
được xếp hạng cấp quốc gia năm 1993. Đường dẫn vào dinh được lát bằng những phiến
đá lớn vuông vức, phẳng lỳ. Dinh được bao bọc bởi hai vòng tường thành xây bằng đá
hộc. Dinh thự được xây dựng chủ yếu bằng đá xanh, gỗ pơ-mu, ngói đất nung già, các
chi tiết được chạm trổ tỉ mỉ, công phu, đẹp mắt với các hình chủ đạo là rồng, phượng,
dơi,… tượng trưng cho quyền quý và hưng thịnh. Dinh thự mang vẻ đẹp bề thế, uy nghi
với kiến trúc hình chữ "vương", tọa lạc trên quả đồi hình mai rùa. Đây là một điển hình
về sự giao thoa nghệ thuật kiến trúc của người Mông và người Hán ở khu vực biên giới
Việt – Trung.
Tiểu khu Trọng Con cách đường quốc lộ số 2 20 km về phía đông nam, cách
Thành phố Hà Giang khoảng 60 km về phía bắc ở tại xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang,
tỉnh Hà Giang (đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử năm 1996). Đây được xem
là cái nôi của phong trào cách mạng ở Hà Giang.
Chùa Sùng Khánh cách Thành phố Hà Giang 9 km về phía nam thuộc thôn Làng
Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử nghệ
thuật năm 1993. Chùa được xây dựng thời Triệu Phong (1356), do thời gian, chùa bị hư
hại, đến năm 1989 được nhân dân xây dựng trên nền chùa cũ. Ở đây còn lưu giữ hai di
vật: Bia đá thời Trần (1367) ghi lại công lao của người sáng lập ra chùa và một quả
chuông cao 0,90 m, đường kính 0,67 m, được đúc thời Hậu Lê (1705). Nghệ thuật khắc
trên đá, trên Chuông đồng và kỹ thuật đúc Chuông là một bằng cứ nói lên bàn tay tinh
xảo của các nghệ nhân vùng biên giới phía bắc này, và từ đó biết thêm lịch sử phát triển
thời Trần và Lê tới tận vùng biên ải Hà Giang.

8



Chùa Bình Lâm thuộc địa phận thôn Tông Mường xã Phú Linh, Thành phố Hà
Giang. Nhân dân ở đây còn lưu giữ một quả chuông thời Trần được đúc vào tháng 3
năm Ất Mùi (1295) có chiều cao 103 cm, đường kính miệng 65 cm, quai được cấu tạo
bởi hai hình rồng, trên chuông có khắc bài Minh bằng chữ Hán gồm 309 chữ năm Bính
Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 4 (1296). Trên quả chuông ta bắt gặp tiêu bản rồng nổi
trên chất liệu đồng (thế kỷ 13). Cùng với quả chuông, tại chùa Bình Lâm còn phát hiện
được một số di vật như Tháp đất nung, mái ngói có hoạ tiết hoa chanh,… là những nét
quen thuộc và tiêu biểu của văn hoá thời Trần.
Cộng đồng dân tộc và văn hóa truyền thống dân tộc
Hà Giang là địa điểm lý tưởng để phát triển du lịch cộng đồng vì nơi đây là mảnh
đất sinh sống của 22 dân tộc (Mông, Dao, Tày, Nùng, Kinh, La Chí, Pà Thẻn, Hoa Hán,
Cờ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu Péo, Giấy, Mường, Thái, Sán Chay, Sán Dìu và các
dân tộc thiểu số khác) với văn hóa và phong tục tập quán đa dạng, phong phú.
Nghệ thuật và hàng thủ công
Hà Giang là nơi có nhiều sản phẩm văn hóa đặc sắc từ truyền thống lâu đời của
hơn 20 dân tộc. Đến Hà Giang, du khách có thể thấy được những sản phẩm kết tinh từ
truyền thống văn hóa độc đáo của người miền núi, đó là các loại khăn thêu, túi vải, áo
váy với các loại hoa văn rực rỡ.
Có thể kể đến một số làng nghề truyền thống tiêu biểu của đồng bào các dân tộc
thiểu số của Hà Giang như: nghề làm khèn Mông của đồng bào dân tộc Mông tại huyện
Đồng Văn, Mèo Vạc; nghề dệt vải lanh của đồng bào dân tộc Mông tại 4 huyện Quản
Bạ, Đồng Văn, Yên Minh và Mèo Vạc; nghề làm giấy bản của đồng bào dân tộc Dao tại
các huyện Bắc Quang và Quang Bình; nghề chạm bạc của đồng bào dân tộc Dao ở các
huyện Xín Mần, Hoàng Su Phì, Yên Minh và Mèo Vạc; nghề rèn của đồng bào dân tộc
Tày, dân tộc Pà Thẻn tại các huyện vùng cao của tỉnh. Đáng chú ý là tất cả các sản phẩm
của các làng nghề và làng nghề truyền thống của đồng bào các dân tộc ở Hà Giang đều
được làm thủ công.
Lễ hội

Chợ tình Khau Vai họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch tại xã Khau
Vai, huyện Mèo Vạc. Bắt nguồn từ 1 câu chuyện tình, Khau Vai trở thành nơi hò hẹn
chung cho tất cả những người yêu nhau trong vùng. Chợ Khau Vai ban đầu họp không
có người mua, không có người bán. Khoảng mười năm trở lại đây, do nhu cầu cuộc sống
nên ngày chợ họp ngoài việc hò hẹn, gặp gỡ, người ta mang cả hàng hóa đến bán ở
9


chợ. Do vậy đến chợ Khau Vai, người ta cũng có thể mua, bán, trao đổi những sản vật
vùng cao.
Lễ mừng nhà mới dân tộc Lô Lô: lễ mừng nhà mới kéo dài khoảng 2 ngày 2 đêm
ở ngôi nhà mới của người dân tộc Lô Lô. Cả bản kéo tới ăn mừng cho ngôi nhà mới.
Thầy cúng đi hát, sau đó cùng ăn uống vui chơi, hòa tấu kèn sáo và hát giao duyên nam
nữ.
Lễ hội mùa xuân: đây là lễ hội vui xuân của dân tộc H'mông và dân tộc Dao,
thường được tổ chức vào những ngày sau Tết Nguyên Đán và kéo dài từ 3 đến 7 ngày.
Lễ hội mang tính chất tổng hợp mừng công, cầu mưa, cầu con trai. Lễ hội có thi bắn nỏ,
hát giao duyên, ném pa páo, uống rượu, mở tiệc đãi khách.
Lễ hội vỗ mông của dân tộc Mông: ngày mùng 5 Tết Nguyên Đán hằng năm, cái
chàng trai, cô gái đổ về Mèo Vạc nhằm tìm cho mình người bạn đời. Khi tham gia lễ
hội, các chàng trai, cô gái tìm đối tượng mà họ cảm thấy phù hợp với mình rồi vỗ mông
đối tượng và chờ "đối phương" đáp lại.
2.1.3. Chính sách phát triển du lịch cộng đồng
Chính sách phát triển du lịch cộng đồng của Nhà nước (Luật Du lịch 2017)
Điều 19. Phát triển du lịch cộng đồng
1. Cá nhân, hộ gia đình nơi phát triển du lịch cộng đồng được ưu đãi, khuyến
khích cung cấp dịch vụ lưu trú, ăn uống; hướng dẫn khách du lịch tham quan, trải
nghiệm văn hóa, nếp sống tại cộng đồng; sản xuất hàng hóa, hàng thủ công truyền thống
và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức nghiên cứu, khảo sát, lựa chọn địa điểm có

tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng; có chính sách hỗ trợ về trang thiết bị cần thiết
ban đầu và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng phục vụ khách du lịch cho cá nhân, hộ gia đình
trong cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ du lịch; hỗ trợ xúc tiến sản phẩm du lịch
cộng đồng.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát triển du lịch cộng đồng tổ chức tuyên truyền,
phổ biến, nâng cao nhận thức của cộng đồng; chủ trì xây dựng cam kết của cộng đồng
nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường, ứng xử văn minh đối với khách du
lịch.
4. Tổ chức, cá nhân khai thác, phát triển du lịch cộng đồng có trách nhiệm tôn
trọng văn hóa, nếp sống và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch với cộng đồng.
10


Chính sách phát triển du lịch cộng đồng của tỉnh Hà Giang
Hà Giang nêu cao khẩu hiệu “Phát triển bền vững du lịch cộng đồng” và đã có
nhiều chính sách để hiện thực hóa khẩu hiệu này trong những năm gần đây. Ví dụ như:
Sở VHTTDL Hà Giang đã tham mưu cho HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số
35/2016/NQ-HĐND ngày 21/7/2016 quy định một số chính sách khuyến khích phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang, trong đó:
Hỗ trợ mua sắm trang thiết bị và xây dựng công trình nhà vệ sinh tại các nhà có
phòng ở cho khách du lịch thuê (Homestay) bằng tiền trực tiếp với mức tối đa là
60.000.000 đồng/ nhà;
Hỗ trợ sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống là 20.000.000 đồng/tổ chức (cá
nhân);
Hỗ trợ lãi suất tiền vay cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc vừa sản xuất vừa
hoạt động kinh doanh sản phẩm thủ công truyền thống phục vụ khách du lịch bằng hình
thức hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay trong 3 năm, mức tối đa là 200.000.000 đồng.
Nhận thức được tầm quan trọng của các làng nghề và làng nghề truyền thống đối
với phát triển du lịch cộng đồng, năm 2016, UBND tỉnh Hà Giang đã ban hành Quyết
định số 2490/QĐ – UBND về “Phê duyệt Đề án Phát triển các sản phẩm nông nghiệp và

sản phẩm làng nghề phục vụ du lịch, giai đoạn 2016 – 2020”.
2.1.4. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch cộng đồng
Với các trục giao thông quan trọng như tuyến Quốc lộ 4C, Quốc lộ 2, Quốc lộ 279
và các tuyến Tỉnh lộ 177, 178, 183... đã hình thành nên 5 tuyến du lịch chính của tỉnh là:
Hà Giang - Hà Nội - các tỉnh phía Nam; Hà Giang - Lào Cai - Yên Bái và các tỉnh phía
Tây Bắc; Hà Giang - Cao Bằng và các tỉnh phía Đông Bắc; Hà Giang - Vân Nam Trung Quốc; Hà Giang đi các huyện vùng cao núi đá phía Bắc.
Đi kèm với hệ thống giao thông thuận lợi và lượng khách tăng nhanh, tính đến
năm 2017, tỉnh có 124 cơ sở lưu trú đã xếp hạng khách sạn, nhà nghỉ với 1.841 phòng
nghỉ bao gồm: 01 khách sạn 3 sao, 31 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 - 2 sao và các nhà nghỉ
được đầu tư nâng cấp các trang thiết bị và chất lượng phục vụ đảm bảo theo tiêu chuẩn,
có quy mô đủ điều kiện đón khách. Đặc biệt, hình thức lưu trú homestay vô cùng phát
triển ở tỉnh này.
Về hệ thống thông tin liên lạc, VNPT Hà Giang đã triển khai một số phần mềm
ứng dụng hết sức quan trọng như: Phần mềm Quản lý văn bản điều hành (VNPTiOffice)
đến 100% các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND, HĐND các cấp; toàn bộ khối Đảng và 11


các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hoàn thành kết nối liên thông trên mạng Truyền số
liệu chuyên dùng (Mạng dùng riêng của VNPT từ Văn phòng UBND tỉnh đến Văn
phòng Chính phủ). Triển khai phần mềm lưu trú trực tuyến cho Công an Hà Giang. Cho
phép cơ sở lưu trú đăng ký trực tuyến (24/7) thông tin khách đến cơ quan quản lý một
cách nhanh chóng, chính xác, tiện lợi. Hỗ trợ cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan Công
an quản lý, cập nhật tự động, tức thời tình hình khách lưu trú trên địa bàn, tạo điều kiện
thuận lợi cho quản trị du lịch hiệu quả.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại Hà Giang
2.2.1.

Khách du lịch

Biểu đồ 2.1: Thống kê lượng khách du lịch đến Hà Giang giai đoạn 2011-2016

Đơn vị: lượt khách

700,000
600,000
500,000
400,000
300,000
200,000
100,000
0
2011

2012

2013
Khách trong nước

2014

2015

Sơ bộ 2016

Khách quốc tế

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2015 và năm 2016
Nhìn chung, số lượt khách du lịch đến Hà Giang để trải nghiệm hoạt động du
lịch cộng đồng có xu hướng tăng trong giai đoạn 2011-2016. Năm 2011, Hà Giang đón
nhận 273.053 lượt khách đến du lịch và tính sơ bộ đến năm 2016, con số này đã đạt
652.441, tức tăng gần gấp 2,5 lần so với năm 2011.

12


Số lượt khách quốc tế đến Hà Giang không ngừng tăng qua các năm. Nếu như
trong những năm 2011-2013, số khách quốc tế đến Hà Giang chỉ khoảng 17.000 lượt thì
đến giai đoạn sau (2014-2016) khách quốc tế đến Hà Giang đã tăng lên gấp 3 lần, đạt
gần 60.000 lượt khách.
Tuy có sự giảm nhẹ vào năm 2014 nhưng số lượt khách du lịch nội địa đến Hà
Giang vẫn có xu hướng tăng với tốc độ tăng trung bình đạt 14,5%. Riêng trong năm
2014, số lượt khách du lịch trong nước đến tỉnh Hà Giang giảm 2,97% nhưng do lượng
khách quốc tế tăng lên 37.627 nghìn lượt, tức 65,28% so với năm 2013 nên số khách du
lịch đến Hà Giang vẫn tăng 6,77%.
Bảng 2.1: Thống kê chi tiết lượng khách du lịch đến Hà Giang giai đoạn 2010-2017
Đơn vị: lượt khách

Tổng số

Tổng
khách du

Số khách

Số khách

Khách

lịch nghỉ

do các cơ


do các cơ

trong ngày

qua đêm và

sở lưu trú

sở lữ hành

khách

phục vụ

phục vụ

Khách du
Năm

lịch nghỉ
qua đêm

trong ngày

khách do
các cơ sở
lưu trú và
các cơ sở
lữ hành
phục vụ


2010

248.712

15.137

263.849

263.849

15.441

279.290

2014

356.903

9.688

366.591

366.591

37.308

403.899

2015


443.409

82.540

525.949

525.949

43.713

569.662

2016

579.337

102.366

681.703

681.703

60.450

742.153

651.093

137.576


788.669

788.669

47.603

836.272

Sơ bộ
2017

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017

Theo Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017 thì riêng trong năm này, các
cơ sở lưu trú và các cơ sở lữ hành đã phục vụ 836.272 nghìn lượt khách trên địa bàn
tỉnh và tổng lượt khách du lịch qua đêm và khách trong ngày của tỉnh là 788.669 nghìn
lượt.
Trong năm 2018, theo Tổng cục Du lịch, lượng khách du lịch đến Hà Giang đạt
hơn 1 triệu lượt người, tăng 11,1% so với năm 2017; trong đó, khách quốc tế đạt gần
300 nghìn lượt.
13


Biểu đồ 2.2: Cơ cấu khách du lịch đến Hà Giang so với cả nước giai đoạn 2011-2016
.860
.840
.820
.80
.780

.760
.740
.720
.70
.680
.660
.640

0.838

0.822
0.796

0.747
0.747

0.715

2011

2012

2013

2014

2015

2016


% lượt khách du lịch đến Hà Giang so với cả nước

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm
2017
Là một trong những địa phương định hướng phát triển du lịch là ngành thế mạnh
nhưng cơ cấu khách du lịch đến Hà Giang so với cả nước là còn rất nhỏ, chỉ chưa đến
1% doanh thu từ hoạt động du lịch cộng đồng.
2.2.2. Doanh thu từ hoạt động du lịch cộng đồng
Biểu đồ 2.3: Doanh thu từ dịch vụ lưu trú và ăn uống so với GDP tỉnh Hà Giang
Đơn vị: Triệu
đồng
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%

9735908.410856653.212091684.713864220.714476216.115858544.217281887.3

479013.6

2011

599645.8 724655.3 824359.3 959381.9 1175188.8 1352496.7

2012

2013

2014

2015

Doanh thu từ dịch vụ lưu trú và ăn uống

2016

Sơ bộ
2017

Doanh thu khác

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2015 và năm
2017


14


Doanh thu từ dịch vụ lưu trú và ăn uống của Hà Giang tăng rất nhanh, chỉ trong
vòng bảy năm đã tăng hơn 2,8 lần, từ 479.013,6 triệu đồng vào năm 2011 lên
1.352.496,7 triệu đồng tính sơ bộ năm 2017 với tốc độ tăng rất nhanh, nhanh nhất vào
năm 2016, tăng 22,49% so với năm 2015. Năm 2014, số lượng khách du lịch đến tỉnh
tăng ít dẫn đến doanh thu từ dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng tăng ở mức thấp nhất trong
giai đoạn 2011-2017 nhưng mức tăng cũng đạt 13,76%.

Tăng trưởng mạnh trong doanh thu từ dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng làm cải
thiện cơ cấu của ngành này trong GDP của tỉnh Hà Giang. Cụ thể, cơ cấu doanh thu của
ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống đều tăng qua các năm, sơ bộ đến năm 2017 đã đóng
góp tới 7,26% GDP của tỉnh.
Bảng 2.2: Thống kê doanh thu ngành dịch vụ du lịch tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016-2018
Đơn vị: triệu đồng

2016

2017

Ước tính 2018

1175188.8

1356374.8

1484598

38766.7

42471.5

44281.2

1213955.5

1398846.3

1528879.2


16.08

16.58

15.98

Doanh thu từ dịch vụ lưu trú
và ăn uống
Doanh thu từ dịch vụ du
lịch, lữ hành
Tổng doanh thu từ dịch vụ
lưu trú, ăn uống và du lịch,
lữ hành
% trong cơ cấu thương mại dịch vụ

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017

Theo thống kê của Cục Thống kê tỉnh Hà Giang trong “Hà Giang kinh tế - xã hội
năm 2017” và “Hà Giang kinh tế - xã hội năm 2018”, tổng doanh thu từ dịch vụ lưu trú,
ăn uống và du lịch, lữ hành lần lượt trong các năm 2016 và 2017 là 1213955,5 triệu
đồng và 1398846,3 triệu đồng, chiếm lần lượt 16,08% và 16,58% trong cơ cấu thương
mại dịch vụ của tỉnh. Ước tính đến năm 2018, doanh thu từ dịch vụ lưu trú, ăn uống và
du lịch, lữ hành sẽ đạt 1528879,2 triệu đồng, đóng góp 15,98% vào nguồn thu từ ngành
thương mại – dịch vụ.

15


2.2.3. Đầu tư phát triển du lịch cộng đồng

Biểu đồ 2.4: Thống kê đầu tư vào dịch vụ lưu trú, ăn uống tại tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2011-2017
Đơn vị: triệu đồng
140000
117591

120000
100000
80000
59659

60000
40000

27609

33600

28641

20000

27859

2250

0
2011

2012


2013

2014

2015

2016

Sơ bộ 2017

Đầu tư vào dịch vụ lưu trú, ăn uống

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017
Đầu tư vào dịch vụ lưu trú, ăn uống của tỉnh Hà Giang chưa có sự ổn định khi có
năm lượng vốn đầu tư quá ít như năm 2013 chỉ có 2.250 triệu đồng được đầu tư. Vốn
đầu tư sau đó có tăng đến 59.659 triệu đồng năm 2015 nhưng đến năm 2016 lại giảm
xuống còn 27.859, điều này thể hiện tính chưa dài hạn trong việc đầu tư vào lĩnh vực
dịch vụ lưu trú và ăn uống. Đến năm 2017 số vốn đầu tư tăng vọt lên 117.591 triệu đồng
do Hà Giang đã có chủ trương định hướng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn và bền vững.
Vì vậy, trong 2 năm 2017 -2018, tỉnh Hà Giang đã kêu gọi thu hút đầu tư phát
triển hạ tầng và các sản phẩm du lịch, dịch vụ. Trong nửa nhiệm kỳ, tỉnh đã phân bổ
ngân sách đầu tư cho 11 công trình thuộc lĩnh vực du lịch là 9,459 tỷ đồng, mời gọi thu
hút đầu tư được 20 dự án thuộc lĩnh vực du lịch với tổng số vốn dự kiến đầu tư là
6.044,22 tỷ đồng. Phối hợp với các sở, ngành, địa phương thường xuyên rà soát, xây
dựng danh mục dự án thu hút đầu tư giai đoạn 2017-2020, trong đó tập trung các dự án
trọng điểm đảm bảo các điều kiện, khi có nhà đầu tư quan tâm có thể triển khai thực
hiện dự án, đồng thời phối hợp với các ngành thành lập tổ công tác hướng dẫn nhà đầu
16



tư quy trình thủ tục theo hướng tinh gọn về một mối, chuyển từ tiền kiểm sang hậu
kiểm, hỗ trợ nhà đầu tư triển khai hiệu quả.
2.2.4. Công tác xúc tiến phát triển du lịch cộng đồng
a. Hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch
Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng
của Hà Giang được quan tâm hơn từ năm 2008 khi Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du
lịch của tỉnh này được thành lập. Các Chương trình, chính sách khuyến khích phát triển
du lịch từng bước được thể chế hóa. Công tác tuyên truyền về vị trí, vai trò của hoạt
động du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng đối với phát triển kinh tế - xã hội,
xóa đói giảm nghèo của tỉnh Hà Giang đã được quan tâm.
Công tác phối kết hợp giữa các cấp, các ngành với Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, đặc biệt là việc phối kết hợp giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các cơ quan
báo, đài, tạp chí chuyên ngành ở Trung ương cũng như địa phương đã tạo ra chuyển
biến tích cực trong nhận thức của cộng đồng về tiềm năng, lợi thế, vai trò của việc khai
thác và phát triển du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng cũng như những tiêu
cực của nó nếu như không được xây dựng và quản lý đúng hướng.
Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với tổ chức như Liên minh
châu Âu (EU), ESRT, SNV tổ chức một số chương trình tập huấn về nghiệp vụ du lịch,
trong đó có nghiệp vụ du lịch cộng đồng. Ngoài ra, giao cho Trung tâm Thông tin Xúc
tiến Du lịch tổ chức tập huấn ngắn hạn về lĩnh vực du lịch cộng đồng, dịch vụ du lịch
cộng đồng cho đối tượng làm công tác quản lý du lịch cộng đồng, hướng dẫn viên,
thuyết minh viên,...
Chương trình xây dựng Làng văn hóa du lịch tiêu biểu gắn với xây dựng Nông
thôn mới của tỉnh Hà Giang đã phần nào góp phần thiết thực trong công việc nâng cao ý
thức cộng đồng người dân trong việc giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, văn hóa để khai thác phát triển du lịch cộng đồng.
b. Quy mô và phạm vi hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch
Các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Hà Giang đã được mở rộng về phạm vi

và quy mô, bao gồm tham gia các chương trình, sự kiện thương mại – văn hóa – du lịch
như: Liên hoan du lịch làng nghề truyền thống Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông
Hồng; Hội chợ du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng; Chương trình du lịch qua những miền di
sản 6 tỉnh Việt Bắc; Xúc tiến quảng bá hình ảnh văn hóa, du lịch Hà Giang tại Đại hội
đồng nghị viện IPU 132;…
17


Ngoài ra, thông qua một số chương trình hợp tác đối ngoại của tỉnh, thông qua
Tổng cục Du lịch, trong những năm gần đây Hà Giang đã tham gia xúc tiến quảng bá du
lịch cộng đồng tại một số nước như: Nhật Bản, Trung Quốc.
c. Công tác xây dựng sản phẩm, ấn phẩm quảng bá du lịch
Trong những năm qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giao cho Trung tâm
Thông tin Xúc tiến Du lịch phối hợp với một số cơ quan truyền thông trong và ngoài
tỉnh xây dựng phim tài liệu tuyên truyền về vùng đất, văn hóa lễ hội, con người Hà
Giang như đĩa DVD “Hà Giang điểm hẹn nơi cực Bắc”, “Du lịch cộng đồng Hà Giang”,
“Du lịch di sản Hà Giang”. Xây dựng, xuất bản các ấn phẩm về cẩm nang du lịch Hà
Giang, bản đồ quy hoạch du lịch, Post card du lịch Hà Giang. Xây dựng phim phóng sự
giới thiệu, quảng bá về mảnh đất và con người Hà Giang. Đặc biệt, đã phối hợp hỗ trợ
Công ty du lịch Phoenix Voyages tại Hà Nội, Công ty truyền thông điện ảnh của Pháp,
Công ty du lịch Sài Gòn xây dựng phim quảng bá về du lịch Cao nguyên đá Đồng Văn
và du lịch Hà Giang. Phối hợp với VTV1, VTV2, Chương trình Càfe sáng - Ban Khoa
giáo Đài truyền hình Việt Nam, HGTV xây dựng phim phóng sự, tài liệu, chuyên trang,
chuyên mục về du lịch Hà Giang.
d. Những hạn chế của công tác xúc tiến du lịch cộng đồng tại Hà Giang
Hoạt động xúc tiến quảng bá còn thiếu tính chuyên nghiệp: các hoạt động tuyên
truyền, quảng bá chưa được triển khai thường xuyên, quy mô nhỏ, sản phẩm quảng bá
thiếu tính hấp dẫn, sáng tạo, theo lối mòn. Chính vì vậy, hiệu ứng Marketing du lịch
cộng đồng mới chỉ ở mức độ nhất định. Công tác nghiên cứu thị trường còn thiếu tính
chủ động, đồng bộ để làm cơ sở cho việc định hình sản phẩm, xúc tiến quảng bá và phát

triển thương hiệu du lịch Hà Giang. Cho đến nay, du lịch Hà Giang chưa xây dựng được
biểu tượng, logo về du lịch (hiện nay vẫn đang sử dụng Logo của 8 tỉnh Tây Bắc mở
rộng) do đó phần nào ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp, xây dựng thương hiệu du lịch
trong quảng bá.
Liên kết, huy động nguồn lực tham gia xúc tiến du lịch cộng đồng còn yếu kém:
hoạt động phối hợp liên ngành trong việc thực hiện tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du
lịch trong những năm gần đây tuy đã được cải thiện, song các cấp, các ngành chưa thực
sự coi đó là trách nhiệm liên quan trực tiếp của mình; Sự phối kết hợp giữa các nhóm
hợp tác (6 tỉnh Việt Bắc; 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng) trong hoạt động xúc tiến quảng bá
chưa thật chặt chẽ, hiệu quả. Trong khi để đáp ứng một trong những đòi hỏi cơ bản của
hoạt động xúc tiến du lịch là tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao. Nhiều doanh
18


nghiệp kinh doanh lữ hành, dịch vụ trong tỉnh chưa quan tâm đến công tác tuyên truyền,
còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại cho đó là trách nhiệm của ngành Du lịch.
Tổ chức bộ máy và nhân lực thực hiện hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn
nhiều bất cập: hiện nay, Hà Giang chưa có lực lượng xúc tiến tại chỗ thông qua các kênh
văn phòng đại diện trong và ngoài nước, các Đại sứ quán ở nước ngoài. Điều này khiến
cho hoạt động xúc tiến du lịch cộng đồng chưa được tiến hành một cách sâu rộng,
thường xuyên và hiệu quả tại thị trường. Đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, xúc tiến
du lịch cộng đồng không ngừng được củng cố về số lượng nhưng trình độ chuyên môn
còn nhiều bất cập, phần lớn chưa được đào tạo qua chuyên ngành Du lịch, Kinh tế,
Thương mại. Chính vì vậy kỹ năng thực hiện, tổ chức Marketing du lịch còn nhiều hạn
chế, thiếu tính chuyên sâu. Trình độ ngoại ngữ của cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch
cộng đồng còn yếu, các thông tin về du lịch, dịch vụ du lịch Hà Giang phần lớn mới chỉ
dừng lại ở ngôn ngữ tiếng Việt. Tài liệu tuyên truyền quảng bá bằng ngôn ngữ Tiếng
Anh, tiếng Trung còn hạn chế nhiều về chất lượng cũng như số lượng, do đó chưa đáp
ứng được việc đưa thông tin đến với thị trường khách quốc tế.
Kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến du lịch còn hạn chế: Ngân sách đầu tư cho

hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch cộng đồng hàng năm còn hạn chế, dẫn đến các
chương trình thông tin, xúc tiến, quảng bá du lịch cộng đồng không đủ thực hiện những
chương trình xúc tiến quảng bá mang tầm khu vực cũng như quốc tế, các sản phẩm du
lịch, ấn phẩm quảng bá du lịch cộng đồng chưa đạt được như mong muốn. Việc xúc
tiến, quảng bá tại các Hội chợ chủ yếu mới chỉ thực hiện được ở các tỉnh khu vực phía
Bắc. Ngoài ra, các huyện, thành phố, các công ty kinh doanh du lịch, dịch vụ chưa quan
tâm dành nguồn kinh phí cho công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch.
2.2.5. Lao động phục vụ du lịch cộng đồng
Việc phát triển du lịch của Hà Giang được quan tâm phát triển, tuy nhiên yếu tố
nguồn nhân lực du lịch của địa phương vẫn còn nhiều bất cập. Tính đến đầu năm 2017,
ngành du lịch Hà Giang đang có khoảng 371 người tham gia hoạt động tại trên 100 cơ
sở lưu trú, số người qua đào tạo trình độ chỉ chiếm 40%, tương ứng với khoảng trên 150
người. Như vậy, lượng lao động trong du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng
của tỉnh này không nhiều. Mặt khác, theo đánh giá của các cơ quan quản lý du lịch địa
phương, nguồn nhân lực du lịch cộng đồng của Hà Giang ở cả 3 cấp độ hiện nay còn
nhiều bất cập.
19


Đặc điểm này của Hà Giang cũng tương tự các địa phương trong khu vực Tây
Bắc, trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước được quan tâm đào tạo bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, tuy nhiên thì năng lực của đội ngũ còn có những hạn
chế như: kỹ năng giao tiếp, đàm phán; kiến thức quản lý, lãnh đạo, ngoại ngữ, tin học,…
và cả về năng lực chuyên sâu: hoạch định chính sách; quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch; thống kê du lịch; quản trị du lịch; nghiên cứu thị trường; marketing, xúc tiến,
quảng bá du lịch; quản lý phát triển các loại hình du lịch,…đều còn có những hạn chế
nhất định.
Đối với đội ngũ lao động nghiệp vụ, đại đa số lao động trong ngành du lịch của
Hà Giang chủ yếu là lao động phổ thông ở trình độ thấp, ngoài ra họ chủ yếu là lao động
tự do, chưa có tay nghề cơ bản nên hoạt động kinh doanh còn bất cập và chưa thực sự

đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi trong kinh doanh du lịch. Xét về trình độ đào tạo, thì đa
số là lao động phổ thông, còn trình độ đại học và tương đương có tuy nhiên chủ yếu lại
tập trung ở cơ quan quản lý các cấp. Khả năng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông
tin còn nhiều hạn chế. Về cơ cấu lao động, chưa cân đối, chủ yếu tập trung vào lao động
trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, đội ngũ hướng dẫn viên và liên quan còn thiếu. Đặc
biệt, Hà Giang có thế mạnh phát triển du lịch gắn với công viên địa chất toàn cầu cần,
liên quan đến khoa học địa chất, gắn với di sản văn hóa, hệ sinh thái môi trường,… tuy
nhiên, các kiến thức chuyên môn liên quan đến các lĩnh vực này của người lao động còn
thiếu và cần phải bổ sung thêm.
Mặt khác, hầu hết lực lượng lao động trong ngành du lịch của Hà Giang được
chuyển công tác từ các bộ phận và chuyên ngành khác nhau đến làm du lịch vì thế kiến
thức, nghiệp vụ chuyên môn về du lịch chủ yếu được tiếp thu qua các lớp tập huấn ngắn
ngày, qua học tập kinh nghiệm,… nên hiện nay số lao động còn cần phải phát triển.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động du lịch cộng đồng tại Hà Giang
2.3.1. Điểm mạnh của hoạt động du lịch cộng đồng tại Hà Giang
Với sự hội nhập của nền kinh tế đất nước với kinh tế thế giới, đó là cơ hội để
những địa phương như Hà Giang phát triển kinh tế du lịch, đặc biệt là du lịch cộng
đồng.
Về tài nguyên du lịch, Hà Giang với những điều kiện phù hợp sẵn có, là địa
phương thích hợp phát triển ngành du lịch cộng đồng. Cụ thể, đây là nơi có đặc điểm địa
chất khoáng sản độc đáo và đa dạng, là nơi cư trú của nhiều dân tộc thiểu số của
20


Việt Nam, có nền bản sắc văn hóa đa dạng phong phú mà không nhiều nơi trên đất nước
sở hữu. Điều đó khiến Hà Giang trở thành một địa điểm du lịch độc đáo có một không
hai khi nhắc về mảng du lịch cộng đồng. Các địa điểm du lịch đa dạng từ làng văn hóa
đến tham quan thắng cảnh, cụ thể như cao nguyên đá Đồng văn, thị trấn Tam sơn Quảng
Bạ với cảnh núi đôi, cột mốc Lũng Cú, làng văn hóa Lũng Cẩm, Làng Giang, thôn Nặm
Đăm, cánh đồng hoa tam giác mạch,…

Về thị trường khách du lịch, theo thống kê đánh giá của ngành Du lịch, trước đây
khách đến với Hà Giang với số lượng ít, tuy nhiên với việc quảng bá mời gọi, lượng
khách đến du lịch Hà Giang ngày một tăng cao, không chỉ khách nội địa mà cả du khách
quốc tế đến từ Châu Âu, Châu Mĩ và các quốc gia láng giềng có ngành du lịch rất phát
triển như Trung Quốc. Nếu vào năm 2011, lượng khách nội địa đến du lịch Hà Giang đạt
gần 273.053 lượt thì đến năm 2016 đã đạt đến 652.441 lượt theo thống kê của Sở văn
hóa và du lịch tỉnh Hà Giang. Trong khi đó, du khách quốc tế đến Hà Giang năm 2011 là
17.000 lượt, năm 2017 đã đạt 60.000 lượt.
Về đầu tư cơ sở hạ tầng, Hà Giang đã có sự đầu tư phát triển phục vụ cho khu vực
này. Từ năm 2015 đến 2017, lĩnh vực du lịch đã được đầu tư thêm 57932 triệu đồng. Vì
vậy, đến năm 2017 toàn tỉnh có 124 cơ sở lưu trú với 1841 phòng nghỉ. Bên cạnh đó các
làng văn hóa du lịch cộng đồng đã được quan tâm và mở rộng, từng bước đáp ứng nhu
cầu cư trú của khách. Đặc biệt, trong năm 2010, Công viên địa chất Cao nguyên đá
Đồng Văn đã được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Là nơi cư trú
của 17 dân tộc, với sự đa dạng phong phú của địa chất, tài nguyên môi trường, và đặc
biệt là bản sắc văn hóa, đây là một thế mạnh của Hà Giang để phát triển mô hình du lịch
cộng đồng.
2.3.2. Những hạn chế của hoạt động du lịch cộng đồng tại Hà Giang
Về chính sách phát triển du lịch cộng đồng, Hà Giang đã có những quan tâm nhất
định đến công tác phát triển du lịch cộng đồng của tỉnh, tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ
còn mang tính định hướng chung, chưa khai thác được toàn bộ tiềm năng sẵn có của Hà
Giang. Chính sách quản lý còn nhiều bất cập, đặc biệt thiếu những quy định chặt chẽ về
bảo vệ môi trường và tôn tạo tài nguyên du lịch.
Về thị trường khách du lịch, dễ nhận thấy, mặc dù du lịch Hà Giang không có mùa
rõ rệt, du lịch mở quanh năm nhưng lượng khách chỉ đông vào mỗi dịp hè, lễ hội.
Lượng khách rải rác vào các mùa còn lại trong năm, có xu hướng nhiều hơn một chút
vào những ngày lễ và những tháng lạnh và khô, những tháng còn lại rất vắng khách.
21



Bên cạnh đó, theo thống kê của sở du lịch tỉnh năm 2017, thời gian lưu trú của
khách du lịch ngắn, trung bình là 1,7 ngày. Mặc dù Hà Giang cách Hà Nội chỉ 300 km,
nhưng đường giao thông lên Hà Giang còn nhiều khó khăn, kéo theo thời gian lưu trú
ngắn lại. Ngoài ra, khách thuần túy lên du lịch Hà Giang rất ít, chủ yếu kết hợp đi buôn
bán, hoặc đi công tác, tranh thủ tham quan trong ngày. Sản phẩm du lịch và dịch vụ của
Hà Giang còn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu là khai thác những thứ sẵn có, chưa được
đầu tư đồng bộ nên chưa tạo ra được những sản phẩm hấp dẫn du khách. Mặc khác, Hà
Giang chưa nghiên cứu, kết nối được các điểm du lịch hấp dẫn thành chương trình du
lịch dài ngày, hợp lý để có sức hút đối với các công ty lữ hành và bản thân du khách.
Ở phương diện doanh số, tuy doanh thu du lịch ngày càng tăng nhưng chủ yếu là
chi phí di chuyển, phòng nghỉ, vé tham quan,...các nguồn thu từ dịch vụ ăn uống và
hàng hóa còn hạn chế.
Về lao động, số lượng lao động phục vụ du lịch cộng đồng còn yếu cả về chất
lượng và số lượng. Đây là một trong những điểm đặc biệt cần lưu ý nếu tỉnh Hà Giang
muốn đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng.
Về đầu tư phát triển du lịch cộng đồng, chủ yếu vốn đầu tư vẫn đến từ ngân sách
của tỉnh, khả năng thu hút đầu tư tư nhân chưa tốt.
Hà Giang là khu du lịch mới nổi trong vài năm gần đây, do vậy, dịch vụ cư trú vẫn
còn mới mẻ và còn nhiều hạn chế. Bên cạnh sự gia tăng của số lượng phòng nghỉ, ngoại
trừ một số khách sạn đạt chuẩn quốc tế, được trang bị đồng bộ, các cơ sở lưu trú bình
dân còn yếu kém ở nhiều phương diện: lượng phòng ít, trang bị không đồng đều, phân
bố không đều, một số khách sạn được xây dựng đã lâu nên cơ sở vật chất đã cũ, không
đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch, các món ăn truyền thống độc đáo chưa nhiều.
Về công tác xúc tiến quảng bá du lịch cộng đồng, hoạt động quảng bá còn thiếu
chuyên nghiệp, thiếu liên kết, chưa có sự quan tâm đúng mức.

22


3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI HÀ

GIANG
3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách phát triển du lịch cộng
đồng 3.1.1 Căn cứ đề xuất giải pháp
Bên cạnh những chính sách phát triển du lịch cộng đồng của Nhà nước nói chung
và tỉnh Hà Giang nói riêng, Hà Giang cần thiết phải xây dựng cho mình một khung
chính sách cụ thể hơn nữa, thay vì chỉ đề ra những định hướng chung với những cơ chế
hỗ trợ về vật chất. Bên cạnh những gì tỉnh đã đề ra, các chính sách về mặt quản lý, thuế
và thu hút đầu tư là vô cùng quan trọng. Dưới đây là một sô biện pháp cụ thể về quản lý
và thuế suất. Những giải pháp nhằm thu hút đầu tư để cải thiện cơ sở hạ tầng và phát
triển du lịch cộng đồng tỉnh sẽ được đề cập đến tại mục 3.4.
3.1.2 Các biện pháp cụ thể
Giải pháp về cơ chế chính sách quản lý du lịch cộng đồng
Do đặc trưng du lịch là ngành kinh tế liên ngành đa ngành, cùng một vùng, một
khu du lịch nhưng lại thuộc quản lý của nhiều cấp nhiều ngành cho nên việc phân bổ,
phân chia quyền lợi gặp nhiều khó khăn, khi không vận dụng được hết nguồn lực, phối
hợp không tốt, dẫn đến làm ăn tản mạn phân tán.
Khi quyết định một nội dung nào đó cần đảm bảo tính thống nhất liên hoàn giữa
các cấp chính quyền địa phương, giữa các ban ngành khác, tạo ra sự cân đối về các mặt.
Thực tế cho thấy, vai trò quản lý của khu du lịch rất quan trọng và cũng được người dân
đón nhận một cách tự giác tự nguyện. Chính vì thế việc triển khai các cơ chế, chính sách
của Đảng, của Nhà nước đến từng người dân địa phương, từng người làm du lịch rất
thuận lợi. Các nhà quản lý nên biết tận dụng lợi thế này để công tác quản lý hiệu quả tối
ưu. Cụ thể:
Một là, việc xây dựng quy hoạch luôn phải đảm bảo gìn giữ cảnh quan môi
trường. Tạo mối liên hệ tốt giữa chính quyền địa phương, ban quản lý và đơn vị kinh
doanh để cùng quản lý khu du lịch cùng vì các lợi ích chung.
Hai là, cần tiến hành song song hai hình thức quản lý: Giáo dục và cưỡng chế. Cụ
thể:
Về giáo dục:
− Hướng dẫn tạo điều kiện cho người dân làm đúng và hiệu quả trong việc hỗ trợ

quản lý du lịch: phát triển có quy hoạch, đồng đều, không tự phát, nâng cao thế
mạnh du lịch từng vùng.
23


− Giáo dục, tuyên truyền người dân phối hợp, liên kết với doanh nghiệp, phát
triển du lịch cộng đồng, phân phối lợi ích đồng đều để hai bên cùng có lợi, và
khách du lịch cũng được hưởng dịch vụ tương ứng với số tiền bỏ ra.
− Cảnh cáo, xử phạt đối với các tổ chức cá nhân có hành vi làm tổn hại đến hình
ảnh, chất lượng của khu du lịch
Giải pháp về chính sách thuế
Thuế là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định việc đầu tư sản xuất dịch vụ.
Việc xác định mức thuế suất phù hợp là vô cùng quan trọng. Một mặt, thuế suất phù hợp
sẽ đảm bảo cả quyền lợi của Nhà nước và người nộp thuế, từ đó khuyến khích họ phát
triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thuế suất phù hợp sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp
có nguồn lực tài chính tốt, đứng vững trong cạnh tranh một cách lâu dài. Các hình thức
can thiệp thuế phổ biến là áp dụng thuế suất ưu đãi và miễn giảm thuế.
Việc áp dụng thuế suất ưu đãi cho phép khoản thuế thu nhập phải nộp giảm đi,
doanh nghiệp sẽ thu được mức lợi nhuận sau thuế cao hơn. Điều này cho phép doanh
nghiệp có thể huy động thêm nguồn tài chính để đầu tư đổi mới, nâng cấp máy móc,
thiết bị và công nghệ sản xuất, hoặc thậm chí có thể hạ giá bán hàng hoá để giành lợi
thế trong cạnh tranh.
Còn chế độ miễn giảm thuế cho phép miễn toàn bộ hoặc một phần thuế đối với đối
tượng thuế xác định. Điều này khuyến khích phát triển ngành nghề đó, giảm bớt khó
khăn của đối tượng nộp thuế hoặc thậm chí giải quyết một số chính sách xã hội.
Xét đến Hà Giang là nơi có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, tuy nhiên việc
khai thác các lợi thế này vào phát triển du lịch còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, do đặc
thù tham quan ngắn nên các nhà đầu tư không mấy mặn mà.
Để khuyến khích các nhà đầu tư vào các dự án du lịch của khu du lịch, chính
quyền địa phương và Nhà nước cần phải có biện pháp cụ thể về chính sách thuế để thúc

đẩy phát triển dịch vụ. Cụ thể, cần:
− Ưu tiên miễn giảm thuế đất, ưu đãi về thuế thu nhập, thuế khai thác sử dụng tài
nguyên phục vụ phát triển du lịch.
− Ưu đãi về giá điện nước, nguyên liệu phục vụ cho dự án du lịch, đặc biệt là các
dự án bảo tồn văn hóa, di tích.

24


3.2. Giải pháp bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch
3.2.1. Căn cứ đề xuất giải pháp
Du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng là ngành phát triển dựa vào tài
nguyên là chính, trong đó bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa. Do
đó, để phát triển du lịch, cụ thể là du lịch cộng đồng tại Hà Giang, vấn đề quan trọng đặt
ra là phải có biện pháp để khai thác tài nguyên phục vụ du lịch cộng đồng, vừa bảo vệ
được môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa vốn có của địa phương. Đối với một tỉnh
có thế mạnh về tài nguyên du lịch như Hà Giang, bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch là
một trong những tiêu chí hàng đầu, bởi nếu không có những biện pháp kịp thời , trong
tương lai không xa, tỉnh Hà Giang sẽ mất dần đi ưu thế vốn có để phát triển du lịch cộng
đồng.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể
Một là, cần có những biện pháp nhằm nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ và tôn
tạo tài nguyên du lịch thông qua chương trình giáo dục. Cần phối hợp với các ngành
giáo dục nhằm đưa giáo dục môi trường vào chương trình chính khóa và ngoại khóa của
giáo dục phổ thông, đồng thời thường xuyên tổ chức các buổi họp cộng đồng. Nội dung
giáo dục phải phù hợp với phong tục tập quán và lối sống của người dân địa phương, sử
dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu, cụ thể:
− Nâng cao nhận thức về giá trị của tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái tự nhiên, bảo
tồn cảnh quan và các loài đặc hữu của tự nhiên.
− Giáo dục một số kỹ năng về bảo vệ môi trường như: phòng chống cháy rừng, bảo

vệ các loài thú hiếm,…
− Giáo dục về đạo đức môi trường và cách ứng xử với môi trường theo cách thức phù
hợp với từng đối tượng. Với học sinh, có thể lồng ghép chương trình học với các
hoạt động ngoại khóa về môi trường; đối với người dân địa phương, phải chọn các
phương pháp giáo dục truyền thống hướng vào cộng đồng; với khách du lịch, có thể
diễn giải và giới thiệu những quy định về bảo tồn tài nguyên theo ngôn ngữ của
khách tham quan.
Hai là, cần xây dựng hệ thống các thùng rác và nội quy bảo vệ môi trường, tôn
trọng bản sắc văn hóa địa phương trên cơ sở gìn giữ tài nguyên, có những biện pháp kỹ
thuật nhằm giảm thiểu rác thải và xử lý ô nhiễm. Cụ thể:
− Thành lập các đội thu gom rác thải phân theo khu vực do Hội thanh niên quản lý
hoặc vận động các hộ gia đình tham gia trực tiếp vào công tác vệ sinh khu dân cư.
25


×