Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận triết học xây dựng con người thời đại mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.1 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI MỚI


Chương 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN
BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1. Triết học cổ đại coi con người là một thực thể vũ trụ
thu nhỏ, con người có số phận bị quy định bởi ý chí
tạo hoá:
Triết học duy tâm tuyệt đối hoá đời sống tinh thần của
cọn người chia cắt toàn bộ hoạt động tinh thần con người
ra khỏi quá trình tâm sinh học của nó, tiêu biểu là triết
học Hêghen. Hêghen coi con người là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, ông đã có công phát hiện ra một quy luật
của đời sống tinh thần cá nhân (là sự phát triển của đời
sống tinh thần cá nhân cần thiết và tất yếu phải lặp lại
trong quá trình hình thái rút ngắn và cô đọng những trình
độ cơ bản mà đời sống tinh thần xã hội đã trải qua) vạch
ra

chế
của
đời
sống
tinh
thần.
Phơ Bách nhà triết học duy vật siêu hình tiêu biểu phê
phán Hêghen đã giai thích duy tâm siêu nhiên về bản
chất con người. Theo Phơ Bách vấn đề quan hệ giữa tư
duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, ông coi con
người là một sinh vật hữu tính (có cảm giác, biết tư duy,


có ham muốn, ước vọng...) con người là một bộ phận
của giới tự nhiên, mà xét theo bản chất của nó là tình yêu
thương (kiểu mẫu là tình yêu nam nữ). Tuy nhiên Phơ
Bách đã mắc phải hạn chế lớn là ông đã chia cắt con
người ra khỏi các quan hệ xã hội hiện thực của nó.
1.2. Quan điểm của triết học Mác-lê-nin về bản chất con
người:


* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với
mặt

hội:
Trước hết con người chỉ tồn tại, phát triển khi thoả mãn các
nhu cầu thiết yếu về sinh học. Các yếu tố để thoả mãn nhu
cầu đó chỉ có được thông qua hoạt động lao động - hoạt động
vật chất xã hội cơ bản của con người, chính lao động là yếu
tố trực tiếp hình thành nên tất cả các quan hệ hiện thực của
đời sống con người.
Sự thống nhất ấy được biểu hiện bằng ba mặt của đời sống
hiện thực là đời sống sinh vật, đời sống tinh thần (tâm lý) và
đời sống xã hội, do ba loại mối quan hệ trên (tự nhiên - ý
thức - xã hội) ba hệ thống quy luật: (quy luật sinh học, quy
luật tâm lý, quy luật xã hội) tạo thành.
+ Về mặt sinh vật: Con người có nguồn gốc từ giới tự nhiên,
con người là sản phẩm của tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên.
Do đó con người có mối quan hệ sống còn với giới tự nhiên,
con người sinh thành phải tuân theo những quy luật phổ biến
của tự nhiên như: các quy luật trao đổi chất, quy luật biến dị
duy truyền, quy luật tái sản xuất giống nòi, quy luật tiến hoá,

quy luật sinh, lão, bệnh, tử...
+ Về mặt đời sống tự nhiên: Thể hiện ra bên ngoài qua các
nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu sản xuất, tái sản xuất, nhu cầu
tình cảm...Mối liên hệ với tự nhiên và hệ thống các quy luật
tự nhiên trực tiếp hình thành nên bản chất sinh vật của con
người, làm nền tảng vật chất cho đời sống tâm lí và đời sống

hội.
+ Về mặt đời sống tinh thần, tâm lý: Trên nền tảng sinh vật,


hệ thống các quy luật tâm lý (tình cảm, tư tưởng, khát vọng,
niềm tin, lý tưởng, ý chí,...) tạo nên mặt đời sống tinh thần
của con người.
+ Về mằt đời sống xã hội: Con người vừa là sản phẩm của
các quan hệ với tự nhiên, lại vừa là sản phẩm của các quan hệ
xã hội. Các quy luật xã hội, quy luật sản xuất, quy luật quan
hệ cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, quy luật tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội trực tiếp tác động hình thành nên
đời sống xã hội của con người, vừa tác động chi phối đến các
quan hệ tự nhiên, quan hệ tâm lý của con người.
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Con người là sản phâm của quá trình phát triển, tiến hoá về
cả ba mặt: sinh học, tâm lý và xã hội, ở mỗi thời đại lịch sử
cụ thể, do đó bản chất con người mang tính lịch sử cụ
thể.Chính trong sự hình thành của mình, bản chất con người
vừa là sản phẩm của cả ba mối quan hệ, ba mặt tác động (tự
nhiên - tâm lý - xã hội) đồng thời con người vừa là chủ thể
trong các quan hệ đó, vừa là sáng tạo và hoàn thiện không
ngừng các quan hệ đó. Sáng tạo về văn hoá, tinh thần, sáng

tạo xã hội và chính bản thân con người.
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh bởi vì không có thế giới tự nhiên, mà
ngược lại dựa vào giới tự nhiên, thông qua hoạt động thực
tiễn, tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên để phục
vụ cho hoạt động sống của con người.Trong quá trình cải tạo
tự nhiên, cụ thể là hoạt động lao động sản xuất con người lấy


đó làm cơ sở tồn tại đồng thời thông qua hoạt động vật chất
và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao,
không có hoạt động của con người thì cũng không có sự tồn
tại của toàn bộ lịch sử xã hội của loài người.
1.3. Kết luận:
Bản chất con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội, về
đời sống sinh học và tâm lý của nó trong những giai đoạn
phát triển lịch sử cụ thể, là một chủ thể sáng tạo, là quá trình
không
ngừng
hoàn
thiện.
Do đó muốn thay đổi bản chất con người phải thay đổi các
quan hệ hiện thực của nó mà cơ bản là các quan hệ xã hội
con người đang sống. Muốn xây dựng môt xã hội tiến bộ vì
con người thì phải xoá bỏ tất cả các quan hệ làm tha hoá con
người, phải giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá, trả lại
vị trí làm chủ và sáng tạo cho con người, là mục đích cao cả
về con người của học thuyết Mác-lê-nin.



Chương 2
THỰC TIỄN VẬN DỤNG LÝ LUẬN BẢN CHẤT CON
NGƯỜI TRONG CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI CỦA
ĐẢNG
TA
TRONG
THỜI
ĐẠI
MỚI
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người mới:
2.1.1. Bản chất con người mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Nhận thức được vai trò to lớn của con người, đặc biệc trong
thời kỳ đổi mới đang quá độ lên CNXH hiện nay, Hồ Chí
Minh nhận xét: muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con
người CNXH. Mà con người CNXH phát triển toàn diện
chính là con người có tinh thần làm chủ xã hội, có trí thức
văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có
phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân.
Con người mới được đặt ra là một mục tiêu cơ bản, đồng thời
là động lực của sự nghiệp cách mạng của nhân ta ngày nay,
được xây dựng cùng với xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Đó là "con người Việt Nam toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hện hài hoà trong quan
hệ
gia
đình,
cộng

đồng,

hội".
Tổng hợp lại đó là những phẩm chất nhân cánh về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, trí tuệ, tài năng thể hiện sức
mạnh nội lực của con người Việt Nam ngày nay phải có trong
hành động để giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng
CNXH và bảo vệ tổ quốc. Đó là con ngươì sống có lý tưởng


cao đẹp và có năng lực hoạt động biến lý tưởng thành hiện
thực.Có những phẩm chất nhân cách đó, con người chúng ta
vẫn vững vàng, tự chủ thực hiện thành công nhiệm vụ trung
tâm công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng
XHCN mà không bị tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị
trường và không bị biến chất bởi kẻ thù thực hiện âm mưu
diễn biến hoà bình (tr 255, 256, xây dựng con người mới phù
hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại, PGS.Hồ Kiêm
Việt,
Nxb.CTQG).
2.1.2. Phương pháp xây dựng con người mới:
Để phát triển những phẩm chất nhân cách đó, trong toàn xã
hội phải kết hợp giáo dục hệ tư tưởng (chủ nghĩa Mác-lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng) với giáo dục
lòng tự hào dân tộc và các truyền thống yêu nước, kiên
cường, bất khuất, tự lực, tự cường, nhân nghĩa và thông minh
sáng tạo, đồng thời động viên toàn dân vươn tới tiếp cận
những đỉnh cao văn minh nhân loại, tiếp thu những thành tựu
khoa học công nghệ, những giá trị văn hoá nghệ thuật tiên
tiến

trên
thế
giới.
Đảng viên là hạt nhân trong đội ngũ cán bộ của bộ máy Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội. Quan điểm "Đảng viên
đi trước, làng nước theo sau" không bao giờ lỗi thời, giờ đây
đang cần toàn đảng nghiêm chỉnh thực hiện để khôi phục lại
lòng tin của quần chúng, khắc phục hiện tượng dân chỉ tin
đảng nói chung, không còn nguyên vẹn niềm tin đối với
những đảng viên cụ thể. Giải pháp nêu gương trong xây dựng
con người không phát huy được hiệu quả, cũng như trong sự
nghiệp cách mạng, ở chiến lược xây dựng con người, xây


dựng đảng luôn luôn giữ vai trò then chốt. (tr 265, 266, Hồ
Kiếm
Việt).
Bên cạnh công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên thì tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng đề cập đến vấn đề cấp bách là phải
giáo dục tư tưởng cho thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt
là về chính trị. Đối với họ, chính trị đứng ngoài cuộc sống
hằng ngày, đó là công việc của chính khách, của các lãnh tụ,
của các nhà ngoại giao, của các tổ chức chính trị, các đảng
phái, sự tham gia chính trị vào công việc của họ chỉ làm rắc
rối
thêm
các
mối
quan
hệ.

Tóm lại, những luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng con người mới phù hợp với sự phát triển của đất
nước là cơ sở phương pháp luận cho thực hiện mục tiêu xây
dựng con người mới XHCN trong giai đoạn phát triển mới
của
cách
mạng
nước
ta.
2.2. Đảng ta đánh giá về chiến lược xây dựng con người
mới:
"Nghị quyết đại hội VIII và nghị quyết đại hội IX của Đảng
đã khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo định hướng XHCN, là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thực hiện
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
(tr 552, 553,phát triển con người trong quan niệm của C.Mac
và Ăngghen con người cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá,
hiện
đại
hoá

Việt
Nam).
"Phát triển con người Việt Nam - đó chính là động lực, là



mục tiêu nhân văn, là nền tảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho
bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà Đảng ta đang lãnh đạo
nhân
dân
ta
từng
bước
thực
hiện".
"Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng XHCN được đề ra từ đại hội VI của
Đảng, giờ đây chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới
- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Định hướng phát triển như văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã một lần nữa nhấn mạnh, nhằm
mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; phát huy cao độ nội lực;
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng...ngày càng được tăng cường, tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải triện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an
ninh; thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, về thực chất là phát triển con người, vì cuộc

sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động.
Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh vưc chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội đều do con người quyết định và đều
hướng về con người, và cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của


mỗi người, mỗi gia đình trong cộng đồng dân tộc Việt nam.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
XHCN vì mục tiêu con người đó phải lấy sự phát triến con
người
Việt
Nam
làm
thước
đo
chung.
Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà
ngay từ những buổi đầu tiên, tiến hành sự nghiệp cách mạng
của mình, Đảng ta đã nhiều lần lần khẳng định: "Con người
là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta", chăm lo cho hạnh phúc
của mọi người, mọi nhà đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng
đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Quán triệt quan điểm
đó, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH của Đảng ta đã khẳng định: "Phương hướng lớn của
chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở
đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công
dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa
đời sống vật chất và đới sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với

tập thể và cộng đồng xã hội" (Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.Sự thật Hà Nội 1991, tr
13).
2.3. Thực trạng của việc thực hiện chiến lược xây dựng
con người mới của Đảng và lối sống đạo đức của người
dân
ta
hiện
nay:
2.3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong chiến lược
xây
dựng
con
người
mới
của
Đảng:
Trong chiến lược xây dựng con người của Đảng ta, mà then
chốt là vấn đề giáo dục-đào tạo, Đảng ta đã giải quyết một số


vấn đề mà tại hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ường
khoá IX Đảng ta đã khẳng định: Qua 5 năm thực hiện nghị
quyết, nền giáo dục nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung
học cơ sở ở một số tỉnh, thành phố trình độ dân trí và chất
lượng nguồn lực con người được nâng lên, chất lượng giáo
dục toàn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục
ngày càng được đề cao và được toàn xã hội quan tâm.
Song bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục nước

ta còn đứng trước nhiền khó khăn, yếu kém, nhất là về chất
lượng và quản lý nhà nước về giáo dục. Cơ cấu giáo dục còn
bất hợp lý, mất cân đối, nhiều nhu cầu nhân lực của nền kinh
tế chưa được đáp ứng (kết luận của hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị
quyết Trung ương khoá VIII...Tạp chí cộng sản số 25, 2002).
Tuy nhiên, sau nhiều năm phát triển giáo dục-đào tạo ở nước
ta, như nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII đã chỉ rõ, chưa đáp ứng kịp thời những đòi
hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực cho công cuộc đổi mới
kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết hội nghị đã chỉ ra 5 yếu
kém (về quy mô cơ cấu, về đội ngũ giáo viên, về chất lượng
và hiệu quả, về kỷ cương trong giáo dục, về thực hiện công
bằng xã hội) của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta. Số
liện thống kê xác nhận, chúng ta có hơn 10.000 giáo sư, PGS,
Tiến sĩ, Thạc sĩ chiếm 2,3% tổng số lao động xã hội. Trong
đó lĩnh vực khoa học công nghệ chiếm 15,4%, nhưng 67,5%
của tổng số cán bộ kỹ thuật ấy lại làm việc trong lĩnh vực phi


vật chất, còn sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 32,7% (cán bộ
khoa học - kỹ thuật cao trực tiếp làm việc trong các lĩnh vực
sản xuất của Thái Lan là 58,8%, Hàn Quốc 48%, Nhật
64,4%). Trong khi cơ cấu và phân bổ cán bộ khoa học và
công nghệ chưa cân đối, còn nhiều bất hợp lý, thì cán bộ có
trình độ cao, giỏi chỉ lại tập trung làm việc chủ yếu ở cấc cơ
quan trung ương. Rõ ràng ở cơ sở và các đơn vị sản xuất kinh
doanh lại đang rất thiếu cán bộ có trình độ cao. Bộ giáo dục
và đào tạo nhận định: để có mức tăng trưởng 9-10% GDP thì

tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật phải đạt
từ 4-5%/năm. Trên thực tế, mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực
nhưng đào tạo chuyên gia trình độ cao mới chỉ đạt từ 23%/năm.
Về văn hoá, cơ bản chúng ta đã phổ cập được ở diện rộng,
nhưng trình độ chung của người lao động vẫn còn ở mức
thấp, lao động có trình độ cấp 1 chiếm 12,72%, cấp 2 có hơn
40%, cấp 3 vào khoảng 30%, trung học chuyên nghiệp
6,84%, đại học 11%.
Trong giáo dục đại học chúng ta lại chậm đổi mới về nội
dung, chương trình, phương pháp giảng dạy. Phần đông sinh
viên học chay, nghe giảng thụ động, môn nào cũng học và trả
lời bài thuần tuý về mặt lý thuyết, học thuộc lòng những quy
tắc, kinh nghiệm, không có thời gian đi thực tế, suy luận,
phát
triển
óc
sáng
tạo...
2.3.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thanh
niên Việt Nam hiện nay:


Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà
nước ta đang tiến hành hiện nay đang tồn tại song song hai
vấn đề về lối sống đạo đức của con người mà tiêu biểu là đội
ngũ cán bộ, Đảng viên - những người chủ trì của đất nước, đó

hai
mặt
tích

cực

tiêu
cực.
Mặt tích cực được thể hiện ở chỗ vẫn có nhiều người vẫn duy
trỳ và phát huy được phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức
nghề nghiệp, sống và làm việc theo lý tưởng của Đảng, có lối
sống văn minh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà giàu mạnh

chủ
nghĩa
quốc
tế
trong
sáng.
Bên cạnh đó tồn tại mặt trái là lối sống tiêu cực về đạo đức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà hội nghị Trung ương
lần thứ sáu đã nhận định: "Tình trạng cán bộ thoái hoá, biến
chất chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Trong đội ngũ cán bộ
vẫn tồn tại tình trạng trì truệ, thiếu trách nhiệm và tính chiến
đấu chưa cao". Biểu hiện của tình trạng thoái hoá khá phức
tạp và đa dạng như bệnh chuyên quyền độ đoán, không tôn
trọng dân chủ, bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời nhân
dân, bệnh xu nịnh và tâm lý cầu an hưởng lạc, không giám
đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai, chống chủ nghĩa cá
nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi; lối sống xa
hoa, đua đòi, thậm chí mê tín, dị đoan...Không chỉ có vậy mà
còn có: ''biểu hiện của tư tưởng sùng ngoại, tôn sùng Chủ
Nghĩa Tư Bản, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt
đối hoá giá trị vật chất, tiền bạc ''văn hoá'' lai căng, tự ti dân

tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lý tưởng
cộng sản...đã xuất hiện một cách báo động". Trong tất cả


những vấn nạn đó phải đặc biệt quan tâm đến nạn tham
nhũng, có thể coi tham nhũng đang là quốc nạn, là vấn đề
chính trị ở nước ta.

Trên đây là một số tồn đọng đang nổi cộm trong hàng ngũ
cán bộ, đảng viên - những người chủ trì trong công cuộc xây
dựng đất nước ta trong thời kỳ hiện nay, và một lực lượng
cũng cần nhắc đến đó là giới trẻ, lớp thanh niên - những
người chủ tương lai của đất nước. Bên cạnh những thanh
niên thông minh, sáng tạo và nghị lực, biết tận dụng mọi cơ
hội, mọi khả năng để vượt qua những thử thách của cuộc
sống xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, thì vẫn
tồn tại không ít lớp thanh niên có thái độ thờ ơ, vô trách
nhiệm, bi quan, chán nản, trông chờ ỷ lại hay có những hành
động mang tính cực đoan, chạy theo lợi ích cá nhân, cơ hội,
vụ lợi, chạy theo cái xấu, đua đòi, giả dối,...Thậm trí trong lối
sống thanh niên hiện nay đang tồn tại lối sống văn hoá thứ
cấp: nhu cầu, thị hiếu, năng lực, văn hoá của thanh niên chưa
định hình, đang có những biến đổi, biến động sâu sắc, phong
phú

phức
tạp.
Thể chất bao gồm những yếu tố cơ bản như hình dáng, tầm
vóc, chiều cao, trọng lượng...Đây là những tiêu chuẩn quan
trọng đầu tiên phải có của người cán bộ. Tại đại hội lần thứ

VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Sự cường tráng về thể chất là
nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo


ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội" (văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.CTQG Hà Nội, 1996, tr 30).
Một tiêu chí quan trọng khác không thể thiếu của người cán
bộ trong sự nghiệp đổi mới đất nước là phải có phẩm chất tốt;
đạo đức trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
rằng: đạo đức cách mạng là cái gốc rất quan trọng, rằng:
"Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài năng cũng vô
dụng" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb.CTQG Hà Nội,
2000, tr 329). Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên
mọi lĩnh vực là một sự nghiệp cách mạng, do vậy không thể
không cần đến những con người vừa có sức khoẻ, vừa có đạo
đức và tài năng.
Phát triển mặt đạo đức của người cán bộ trong sự nghiệp đổi
mới là phát huy tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, ý thức
tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, là xây dựng lối
sống lành mạnh, văn minh "cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư", là phát huy truyền thống nhân - nghĩa của dân tộc.Yêu
cầu này là đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, bởi có
vậy, họ mới có thể hoàn thành sứ mệnh "là người đầy tớ,
công
bộc
của
nhân
dân".
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và xu thế hội nhập quốc tế như
hiện nay, sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang đứng trước

nhiều thời cơ, vận hội to lớn, nhưng cũng không ít khó khăn,
thách thức. Nếu thiếu trí thức, kém về ngoại ngữ, không có
kỹ năng phân tích, tổng kết thực tiễn, nắm bắt các vấn đề đặt


ra, và do vậy không đưa ra được những quốc sách phù hợp,
kịp thời, thực hiện có hiệu quả,...người cán bộ sẽ không theo
kịp và bị thực tiễn cuộc sống vượt qua.
Việc xây dựng người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới sẽ là
phiến diện, thiếu sót nếu chỉ chú ý phát triển về mặt thể chất,
đạo đức và trí tuệ mà xem nhẹ hoặc coi thường yêu cầu phát
triển về mặt thẩm mỹ. Như chúng ta đã biết, chân - thiện mỹ là một chỉnh thể giá trị toàn vẹn. Điều đó có nghĩa là các
mặt thể chất, trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ trong con người
luôn gắn liền với nhau. Coi trọng sự phát triển mặt thẩm mỹ
của người cán bộ mang ý nghĩa nhân văn to lớn. Vì thế, ngay
sau khi giành độc lập, Đảng ta đã chủ trương xây dựng và
phát triển một nền giáo dục toàn diện nhằm rèn luyện, bồi
dưỡng cho con người Việt Nam trên tất cả các mặt đức, trí,
thể, mỹ. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục
nước ta nói chung và chiến lược cán bộ nói riêng càng phải
coi trọng các yếu tố đó. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta khẳng định: "Cần
xây dựng con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao" (Cương lĩnh xây dựng Đảng trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1991, tr 10).
Người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới không thể thiếu yếu tố
năng động và thích nghi, đó là sự nhạy bén, linh hoạt trong
mọi hoàn cảnh và điều kiện; là sự mền dẻo trong tư duy, sáng
suốt trong hành động, sắc xảo trong quan hệ, "dĩ bất biến,
ứng vạn biến" theo tư tưởng Hồ Chí Minh.



Ngày nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, do vậy tính năng động, khả năng thích
nghi cao là những yếu tố vô cùng cần thiết đối với người cán
bộ. Nếu không có những yếu tố này, người cán bộ có thể rơi
vào bị động, không làm chủ được trong mọi hoàn cảnh, tình
huống. Nhờ sự năng động, thích nghi người cán bộ sẽ tìm ra
được những giải pháp "đột phá" trong mọi hoàn cảnh có vấn
đề, chẳng hạn, trong quá trình mở cửa và hội nhập, người cán
bộ giỏi có thể làm sống dạy một doanh nghiệp hay một vùng
kinh
tế...
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi người cán bộ phải có phong cách
lãnh đạo. Xây dựng phong cách lãnh đạo của người cán bộ
ngày nay là hình thành, phát triển và rèn luyện tác phong làm
việc đĩnh đạo, bình tĩnh, sáng suốt, nhanh nhạy, phương pháp
làm việc khoa học, lấy hiệu quả công việc, lấy mục đích vì
nhân dân làm chuẩn giá trị. Phong cách đó đối lập với lề lối
làm việc bảo thủ, trì trệ chậm đổi mới kiểu "sáng vác ô đi, tối
vác về"...Xây dựng tác phong lãnh đạo chính là góp phần xây
dựng và hoàn thiện nhân cách người cán bộ trong thời kỳ
mới. Đó là yếu tố không thể thiếu để người cán bộ có thể
hoàn thành trách nhiệm: vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân như chủ tịch Hồ chí
Minh
đã
dạy.
2.4. Kết luận:
Sự nghiệp đổi mới là một quá trình tất yếu khách quan để

thúc đẩy sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực. Thực


tiễn của công cuộc đổi mới trong gần hai thập kỷ qua đã
khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng ta. Bước vào giai
đoạn mới, sự nghiệp lớn lao này đang đặt ra những yêu cầu
cao hơn về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và lực
lượng cán bộ lãnh đạo nói riêng. Nó đòi hỏi phải có những
lớp cán bộ phát triển toàn diện, đủ sức lãnh đạo và tổ chức
nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, tr 22)
đã đề ra. Bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng trẻ hoá cán bộ; phải có sự xem xét, đánh
giá, bổ nhiệm đúng cán bộ, từng bước có chính sách thoả
đáng đối với cán bộ các cấp, nhất là ở cấp cơ sở. Để đảm bảo
chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng cán bộ, cần
phải tích cực chống bệnh quan liêu, kinh nghiệm chủ nghĩa
và giáo điều chủ nghĩa; phải gắn liền với công tác xây dưng
Đảng với quá trình đấu tranh chống tham nhũng và cuộc vận
động xây dựng chỉnh đón Đảng.


KẾT LUẬN
Bản chất con người và chiến lược con người của Đảng ta
trong thời đại mới không phải là vấn đề mới mẻ.Vấn đề này
phải được quan tâm đúng mức. Với tư cách là một sinh viên
cũng là thành phần của hàng ngũ người chủ tương lai của đất
nước, tôi cũng xin đóng góp ý kiến của mình về vấn đề này
như tôi đã trình bày.

Với tốc độ phát triển như vũ bảo của trình độ khoa học - kỹ
thuật như hiện nay thì nền văn minh nhân loại chịu ảnh
hưởng sâu sắc. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con
người nhất là đời sống văn hoá đã mang nhiều giá trị mới mẻ
và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay ấy! Điều đặc
biệt là nước ta đang trong quá trình quá độ lên CNXH. Quá
trình quá độ lên CNXH chứa đầy những mặt mạnh và mặt
yếu kém của nó mà trong suốt bài tiểu luận đã đề cập đến.
Vấn đề "Bản chất con người" được đặc biệt quan tâm bởi tính
cấp thiết của nó như tôi đã đề cập ngay từ đầu và xuyên suốt
bài tiểu luận. Tôi đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến
"Bản chất con người". Điểm đặc biệt trong đó là chiến lược
con người của Đảng ta, trong thời đại mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề màtôi đã đề cập ở trên,
không khỏi những thiếu sót và hạn chế, bởi tôi chưa có khả
năng nguyên cứu sâu và một số phương pháp giải quyết mâu
thuẩn tôi đã đưa ra cũng có thể chưa triệt để. Nhận thức được


điều này,tôi cho rằng nghiên cứu "Bản chất con người" là cả
một quá trình lâu dài, đòi hỏi rất nhiều nổ lực.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô
trường đại học Ngân Hàng, đăc biệt là thầy Minh Tuấn đã tận
tình giúp đỡtôi trong suốt quá trình làm đề tài tiểu luận này.



×