Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân quận ngũ hành sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.29 KB, 42 trang )

ĐẠIHỌC
HỌCĐÀ
ĐÀNẴNG
NẴNG
ĐẠI
TRƯỜNGĐẠI
ĐẠIHỌC
HỌCKINH
KINHTẾ
TẾ
TRƯỜNG
KHOALUẬT
LUẬT
KHOA

CHUYÊNĐỀ
ĐỀTHỰC
THỰCTẬP
TẬPTỐT
TỐTNGHIỆP
NGHIỆP
CHUYÊN
Đề tài:………………………………………………………
Đề tài:
TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI
SẢN VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN

Sinh viên thực hiện : ..……………………………………
Lớp
: …………………………………….


Giảng
viên
hướng
: ..……………………………………
Sinh
viên
thực
hiệndẫn: Nguyễn
Kiều Oanh
Lớp
: 42k13
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Đỗ Trần Hà Linh
Đà Nẵng, Tháng…..năm 20….

Đà Nẵng, Tháng…..năm 20….
Mục lụ


A. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG................................................................................................................... 3
Chương 1......................................................................................................................................3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...........................................................................................3
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp ở Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản....3
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985......................................3
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS 1985 đến trước khi ban hành BLHS 1999.............4
1.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS 1999 đến trước khi ban hành BLHS 2015.............5
1.2. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 178 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2017).....................................................................................................................7
1.2.1. Khái niệm....................................................................................................................7

1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý...................................................................................................7
1.2.3. Các đường lối xử lý.....................................................................................................9
1.3. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với cố ý làm hư hỏng tài sản.............................................11
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...........................................................................................................12
Chương 2....................................................................................................................................14
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý
LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.........................................................................................................................14
2.1. Thực trạng pháp luật về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.............................14
2.1.1. Những điểm mới trong quy định của BLHS 2015 so với BLHS 1999.....................14
2.1.2. Những ưu điểm của pháp luật hiện hành trong quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản tại Điều 178 BLHS 2015.....................................................................15
2.1.3. Những hạn chế của pháp luật hiện hành trong quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản tại Điều 178 BLHS 2015.....................................................................16
2.2. Thực tiễn xét xử Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại Tòa án Nhân dân quận
Ngũ Hành Sơn trong 04 năm, từ năm 2016 đến năm 2019.....................................................17
2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng....................................................................................................................................17
2.2.2. Đánh giá chung về tình hình tội phạm và phân tích, đánh giá tình hình tội phạm hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản so với tổng số tội phạm trên địa bàn quận Ngũ Hành
Sơn từ năm 2016 đến năm 2019..........................................................................................18
2.2.3. Tình hình xét xử tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại Tòa án Nhân dân. .21
2.3. Những tồn tại, hạn chế khi áp dụng các quy định pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản trong BLHS trong xét xử tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn và
nguyên nhân của nó.................................................................................................................24


2.3.1. Những tồn tại, hạn chế khi áp dụng các quy định pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trong BLHS trong xét xử tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn. 24
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế..................................................................27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...........................................................................................................28
Chương 3....................................................................................................................................29
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
....................................................................................................................................................29
3.1. Dự báo về tình hình Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trong thời gian sắp tới...........................................................29
3.2. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
tại Điều 178 BLHS 2015 và nâng cao hiệu quả áp dụng........................................................30
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản.............................................................................................................................31
3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản........................................................................................................................32

KẾT LUẬN...................................................................................................................... 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................36


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Bảng 2.1

Tên bảng
Bảng so sánh tình hình Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
với tình hình tội phạm chung trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn từ năm
2016 đến năm 2019

Số
trang
19

Bảng 2.2

Cơ số tội phạm Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ở quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2019

19


Bảng 2.3

Hình phạt được áp dụng với bị cáo phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn từ năm 2016 đến
năm 2019

20

Bảng 2.4

Bảng tính chất, mức độ tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn

21


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò là nền tảng kinh tế - xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu được Nhà nước ta
bảo hộ bằng mọi biện pháp trong đó có biện pháp hình sự. Trong lịch sử lập pháp của
nước ta cũng như thế giới, có thể nói các tội xâm phạm quyền sở hữu là một trong những
nhóm tội được quy định sớm nhất. Từ khi nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung sang
nền kinh tế thị trường, kinh tế nước ta đã có những phát triển rõ rệt. Tuy nhiên, tình hình
tội phạm nói chung, cũng như tội phạm xâm phạm về sở hữu nói riêng cũng trở nên hết
sức phức tạp và ngày có chiều hướng gia tăng. Qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, các
tội phạm xâm hại về sở hữu luôn chiếm số lượng lớn và phổ biến tại các địa phương, đặc
biệt là các thành phố lớn. Trong đó, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng
chiếm một tỷ lệ không nhỏ. BLHS 2015 ra đời một lần nữa khẳng định chính sách hình sự
của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền sở hữu thông qua các quy định tại chương XVI

của Bộ luật này. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định cụ thể tại Điều
178 của BLHS 2015.
Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và
thực tiễn xét xử của tội phạm này tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng, xác định những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản là cần thiết, khách quan. Do đó, tác giả chọn đề tài: Tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng làm đề tài của chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định
pháp lý về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử tội danh này tại
Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật theo BLHS 2015 và nâng cao hiệu quả áp dụng
của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
+ Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản theo Điều 178 BLHS 2015.
+ Thực tiễn xét xử loại tội này tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố
Đà Nẵng, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại hạn chế xung quanh việc thực hiện
xét xử và những nguyên nhân cơ bản của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định của BLHS Việt
Nam hiện hành cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý
luận, những quy định pháp lý về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực trạng
pháp luật cũng như thực tiễn xét xử tội danh này tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng.


1


- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan
đến tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở số
liệu của Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn trong 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2019.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước về quan điểm đấu tranh phòng chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương
pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê…
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Báo cáo góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và pháp lý về tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp trong báo cáo có ý nghĩa nhất định đối với việc
hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đồng
thời nâng cao hiệu quả áp dụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng,
góp một phần nhỏ vào công cuộc phòng, chống tội phạm.
6. Kết cấu chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề
thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật
hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản tại Tòa án Nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

2



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG
TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp ở Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công giành lại độc lập, chủ quyền cho dân
tộc, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay sau đó, nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật để duy trì trật tự, an toàn xã hội. Trong đó không thể
thiếu một nội dung đặc biệt quan trọng là chế độ sở hữu tài sản. Các quy định pháp luật
đã phản ánh tương đối rõ nét các đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội cũng như kỹ thuật
lập pháp của nước ta trong giai đoạn này.
Điều 12 Hiến pháp 1946 quy định: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam
được bảo đảm.” Hay tại Sắc lệnh số 26 ngày 25 tháng 02 năm 1946 quy định về xử lý
tội phạm phá hoại công sản. Đây cũng là nền tảng, cơ sở quan trọng cho việc hình
thành quy định pháp luật hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Đến
năm 1959, Hiến pháp thứ 2 của nước ta cũng thể hiện rõ tinh thần coi trọng việc bảo vệ
quyền sở hữu tài sản, cụ thể tại các Điều 14,15,16,18. Năm 1970, nhà nước ta đã thông
qua hai văn bản pháp luật mới là Pháp lệnh số 149/LCT và Pháp lệnh số 150/LCT.
Trong đó, Pháp lệnh số 149/LCT ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa quy định:
“Điều 6. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 2
năm đến 10 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;

c) Gây thiệt hại cho an ninh hay là quốc phòng;
d) Gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhân dân hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác.
đ) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.”
Pháp lệnh số 150/LCT ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân quy định:
“Điều 5. Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân.

3


1. Kẻ nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ
6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Đốt cháy hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Có lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác;
d) Để che giấu tội phạm khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20
năm.”
Có thể thấy, từ rất sớm, Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản đã được quy
định tương đối cụ thể tại Điều 6 và Điều 5 của hai Pháp lệnh nói trên, phân biệt dựa
trên đối tượng bị xâm hại là tài sản xã hội chủ nghĩa hay tài sản riêng của công dân.
Đồng thời, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng được quy định thành những điều luật
cụ thể và rõ ràng, thể hiện trình độ lập pháp của nước ta có sự tiến bộ.

1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS 1985 đến trước khi ban hành BLHS 1999
Ngày 27/6/1985, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua BLHS đầu
tiên, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Kế thừa tinh thần của hai pháp lệnh 149 và 150
năm 1970, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong BLHS 1985 cũng được
quy định thành hai tội riêng biệt căn cứ vào đối tượng bị xâm hại là tài sản XHCN hay
tài sản riêng của công dân. Hai tội này được quy định trong cùng một văn bản quy
phạm pháp luật thống nhất, lần lượt tại Điều 138 và Điều 160 như sau:
“Điều 138. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa.
1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không
thuộc trường hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94, thì bị phạt tù từ một năm đến
bảy năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười lăm năm:
a) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”
“Điều 160. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân.

4


1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thì bị phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười hai năm:
a) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thu đoạn nguy hiểm khác;
b) Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm

trọng khác;
c) Để che giấu tội phạm khác;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm
đến hai mươi năm.”
Trong giai đoạn lịch sử này, có thể thấy nhà nước ta coi trọng việc bảo vệ tài sản
chung (tài sản XHCN) hơn tài sản riêng (tài sản của công dân). Do đó, nhìn chung hình
phạt dành cho Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN có mức phạt cao hơn
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của công dân.
So với Pháp lệnh năm 1970, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN về
mức hình phạt không thay đổi nhiều, nhưng riêng trường hợp phạm tội gây thiệt hại
cho an ninh hoặc quốc phòng được tách ra thành hai tội riêng là Tội phá hoại cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (Điều 79) và Tội phá hủy công trình, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 94) cùng nằm trong chương Các tội phạm xâm
phạm an ninh quốc gia.
Đối với Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của công dân, BLHS 1985
vẫn có 3 khung hình phạt và mức phạt tương đương với Pháp lệnh 1970. Riêng tình tiết
tăng nặng ở khung 2 thì loại bỏ trường hợp “Có lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, mà thay
vào đó là tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng lần đầu tiên được quy định tập trung và
tương đối đầy đủ trong BLHS 1985 tại Điều 39 và Điều 40. Đây là một cố gắng lớn
của các nhà làm luật trong việc thống nhất các quy định pháp luật hình sự, đồng thời
giảm bớt sự áp đặt ý chí chủ quan Thẩm pháp, Hội đồng nhân dân khi xét xử. Hầu hết
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong hai Pháp lệnh năm 1970 đều được giữ lại và bổ
sung thêm nhiều tình tiết mới.
BLHS 1985 trải qua 3 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1991, 1992 và 1997 nhưng
không có sự thay đổi nào về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
1.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS 1999 đến trước khi ban hành BLHS 2015
Cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế khi nền kinh tế nước ta chuyển thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước, theo định hướng XHCN, xã hội đòi hỏi sự công bằng, không thiên vị
giữa các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, việc phân biệt rạch ròi hai hình thức sở hữu
để quy định thành hai khách thể bảo vệ độc lập dẫn đến việc xác định tội danh rất khó
khăn. Ví dụ một người thực hiện một hành vi phạm tội duy nhất nhưng tài sản bị xâm

5


hại gồm nhiều hình thức sở hữu đan xen, khi đó xử một tội hay nhiều tội đều không
phù hợp. Do đó, PLHS cần có sự thay đổi và BLHS năm 1999 ra đời. Tại đây, Nhà
nước lần đầu tiên xóa bỏ ranh giới giữa tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân.
Đây là sự đúc kết từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như thể hiện
đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước.
BLHS 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ ngày
01/01/2000. Khi xây dựng BLHS 1999, các nhà lập pháp đã nhập hai chương IV và VI
ở phần CÁC TỘI PHẠM của BLHS 1985 thành một chương (Chương XIV) trong
BLHS 1999 với 13 tội danh. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN và Tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của công dân nay được quy định chung
thành Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, quy định tại Điều 143:
“Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại
từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác;
đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

6


5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm.”
So với BLHS cũ, BLHS 1999 có 4 khung hình phạt thay vì 3 khung như trước.
Tương ứng với 4 loại tội: Tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là
đến 3 năm tù), tội phạm nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm
tù), tội phạm rất nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù),
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù,
tù chung thân hoặc tử hình). Mức cao nhất của khung hình phạt ở Khoản 4 của Điều
luật cũng bỏ hình phạt tử hình. Ngoài ra, BLHS 1999 còn áp dụng hình phạt bổ sung
đối với tội này, đó là “phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm.”
Năm 2009, để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều biến
đổi, Quốc hội đã thông qua dự thảo sửa đổi, bổ sung BLHS 1999, trong đó, thay “năm
trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”
1.2. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 178 Bộ Luật Hình sự
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
1.2.1. Khái niệm
Trong BLHS 2015 cũng như các BLHS trước đây, các nhà lập pháp không có một
định nghĩa cụ thể về hành vi hủy hoại hoặc hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản. Tuy
nhiên, xuất phát từ lý luận và thực tiễn xét xử, ta có thể hiểu rằng:
- “Hủy hoại tài sản là cố ý làm cho tài sản của người khác mất giá trị sử dụng ở mức
độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được.”1
- “Làm hư hỏng tài sản được hiểu làm hành vi làm cho tài sản bị mất một phần hoặc
giảm giá trị, giá trị sử dụng ở mức độ có thể khôi phục lại được.”
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý
1.2.2.1. Khách thể:
Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu của
chủ tài sản với tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng mà không xâm phạm đến quan hệ nhân
thân. Đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm đoạt như Tội cướp tài
sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội cưỡng đoạt tài sản hay Tội cướp giật tài
sản. Đặc điểm này còn được thể hiện ở việc trong cấu thành Tội huỷ hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản, các nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ
là tình tiết định khung hình phạt. Đối với trường hợp mà hành vi hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản gây còn thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng con người thì bên cạnh
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà hành vi đó còn có thể cấu thành thêm tội phạm
độc lập khác và được điều chỉnh bởi các điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm sức khỏe,
1 Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa, NXB Tư pháp năm 2006


7


tính mạng của con người được quy định tại Chương XIV BLHS năm 2015. Trường hợp
người thực hiện hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với mục đích
nhằm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người thì đó được coi là thủ đoạn để
người phạm tội thực hiện hành vi giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác và hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chỉ là tình
tiết định khung hình phạt trong trường hợp đó.
1.2.2.2. Chủ thể:
Chủ thể tội phạm phải là người thực hiện hành vi hủy hoại tài sản hoặc làm hư hỏng
tài sản của người khác. Đồng thời, người thực hiện phải có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015, cụ
thể:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên: Bị truy cứu trách nhiệm hình sự mọi trường hợp với mọi
khung hình phạt quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự 2015.
- Người từ đủ 14 tuối tới dưới 16 tuổi: Chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tương ứng
tại khoản 3,4 tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
1.2.2.3. Mặt khách quan:
- Hành vi phạm tội: Hành vi làm cho tài sản của người khác bị hư hỏng đến mức
mất hẳn giá trị hoặc giá trị sử dụng hoặc bị tiêu huỷ hoàn toàn hoặc hành vi làm tài sản
của người khác bị mất một phần hoặc giảm giá trị, giá trị sử dụng nhưng ở mức độ có
thể khôi phục lại được (có thể khôi phục lại như cũ, nhưng có thể chỉ khôi phục lại
được một phần).
- Phương thức thực hiện: Hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản được thực hiện
bằng nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào thủ đoạn mà người phạm tội thực
hiện như: Đốt cháy, đập phá, dùng thuốc nổ, dùng chất độc, hoá chất…
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Khác với những quy định của những BLHS trước
đây, BLHS 2015 không quy định hậu quả của hành vi là yếu tố bắt buộc cấu thành tội

phạm mà quy định những loại tài sản mà người phạm tội khi thực hiện hành vi hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng đối với những tài sản đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội
này đó là: “tài sản có trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên, tài sản là di vật, cổ hoặc vật có
giá trị lịch sử, văn hóa hoặc tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với
người bị hại”. Tức là hành vi phạm tội đó không cần gây ra thiệt hại từ 2.000.000 đồng
mà chỉ cần tài sản bị xâm hại có giá trị từ 2.000.000 đồng thì đã đủ yếu tố cấu thành tội
phạm.
1.2.2.4. Mặt chủ quan:
- Về mục đích: Mục đích của người phạm tội là mong muốn huỷ hoại hoặc làm hư
hỏng tài sản của người khác. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích

8


nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu
người phạm tội có mục đích khác, còn việc huỷ hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản
chỉ là phương pháp để đạt được mục đích khác đó thì không phải phạm tội huỷ hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Người phạm tội thực hiện hành vi với
mục đích là chống lại chính quyền nhân dân thì cấu thành Tội phá hoại cơ sở vật chất –
kỹ thuật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định tại Điều 114 BLHS
2015).
- Về lỗi: Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thực
hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Điều 10 BLHS 2015). Đối với hành vi huỷ hoại
tài sản thì ngay chính khái niệm huỷ hoại đã bao trùm ý nghĩa của việc cố ý. Trường
hợp làm hư hỏng tài sản của người khác do vô ý thì tùy theo giá trị của tài sản mà có
thể cấu thành Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản hoặc không cấu thành tội
phạm.
1.2.3. Các đường lối xử lý
1.2.3.1. Hình phạt chính:
Mức phạt của tội phạm này được chia thành 4 khung, gồm 1 khung cấu thành tội
phạm cơ bản (Khoản 1) và 3 khung tăng nặng (Khoản 2,3,4)
- Khung 1 (Khoản 1): “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Đối với những hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá
từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
 Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều
này mà còn vi phạm;
 Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
Tài sản là di vật, cổ vật.”
- Khung 2 (Khoản 2): “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với các trường hợp:
 Có tổ chức;
 Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
 Tài sản là bảo vật quốc gia;
 Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

9



 Để che giấu tội phạm khác;
 Vì lý do công vụ của người bị hại;
 Tái phạm nguy hiểm.”
Trong đó:
Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ để phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản là trường hợp thực hiện các hành vi phạm tội nêu trên bằng các chất nguy hiểm về
cháy, nổ. “Chất nguy hiểm về cháy, nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn hoặc hàng hoá,
vật tư dễ xảy ra cháy, nổ”.(Khoản 2 Điều 3 Luật Phòng cháy và chữa cháy 2001)
Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là:
sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm; sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có
thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người đang quản lý, trông coi để thực hiện
việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được dễ dàng. (Thông tư liên tịch
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP)
Để che giấu tội phạm khác là trường hợp hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
nhằm mục đích che dấu một tội phạm khác đã được thực hiện. Tài sản hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng có thể là những vật, tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người
phạm tội, bao gồm: vật, tiền bạc là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật,
tiền bạc do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; vật khác mang
dấu vết của tội phạm mà người hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng nhằm mục đích che
giấu.
Vì lý do công vụ của người bị hại là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ việc người chủ sở hữu hoặc quản
lý tài sản thực hiện công vụ của mình. Mục đích của việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản là để trả thù người sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Tái phạm nguy hiểm là “trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc
đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”
(Khoản 2 Điều 53 BLHS 2015)
- Khung 3 (Khoản 3): “phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với các trường hợp: Gây thiệt

hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”
- Khung bốn (Khoản 4): “phạt tù từ 10 năm đến 20 năm đối với các trường hợp:Gây
thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.”
1.2.3.2. Hình phạt bổ sung:
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp
cụ thể người phạm tội còn có thể bị “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định 01 năm đến 05 năm.” (Khoản 5 Điều 178).

10


1.3. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với cố ý làm hư hỏng tài sản
Tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản là hai tội danh độc lập nhưng
được quy định chung trong một điều luật là Điều 178 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 do có những đặc điểm tương đồng nhau. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ
thể mà xác định người phạm tội huỷ hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu
người thực hiện có cả hành vi hủy hoại và hành vi cố ý làm hư hỏng mà mỗi hành vi
đều đủ dấu hiệu cấu thành hai tội độc lập thì phải chịu trách nhiệm hình sự về từng tội
độc lập. Khi phân biệt tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản, thường phải
căn cứ vào một số dấu hiện sau:
- Mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội: Nếu mục đích của người phạm tội là
làm cho tài sản bị hư hại, mất hẳn giá trị hoặc tiêu hủy hoàn toàn thì phạm tội hủy hoại
tài sản. Còn nếu mục đích của người phạm tội muốn làm hư hỏng một phần của tài sản
hoặc làm giảm giá trị, giá trị sử dụng chứ không muốn hủy hoại hoàn toàn tài sản đó thì
phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc làm rõ mục đích
đôi khi gặp khó khăn vì người phạm tội có thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích
hủy hoại tài sản nhưng trong quá trình thực hiện chỉ làm hư hỏng tài sản thì họ có thể
khai là mục đích của họ là làm hư hỏng tài sản. Ví dụ: Một người dùng xăng đốt nhà
người khác nhưng do bị phát hiện và ngăn chặn sớm nên căn nhà chỉ bị đốt một bộ

phận. Hành vi này phải được xác định là hủy hoại tài sản. Điều này đòi hỏi người tiến
hành tố tụng cần hết sức thận trọng và khách quan trong việc nhận định để tránh việc
định tội danh không chính xác.
- Xác định thiệt hại thực tế của tài sản bị xâm hại: Tài sản bị hủy hoại là tài sản mất giá
trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có thể khôi phục lại được. Ngược lại, tài sản
bị hư hỏng là tài sản bị mất đáng kể giá trị sử dụng nhưng không mất hoàn toàn và có
thể khôi phục lại được toàn bộ hoặc một phần giá trị sử dụng. Việc xác định mục đích
chính xác của người thực hiện tội phạm tương đối khó khăn vì không phải trường hợp
nào cũng xác định được ý chí chủ quan của người phạm tội, do đó, khi xác định tội
danh, các cơ quan chức năng thường căn cứ vào hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra
đối với tài sản. Nếu tài sản hư hỏng hoàn toàn, không có khả năng khôi phục thì hành
vi đó là hành vi hủy hoại tài sản, nếu tài sản không bị mất hết giá trị sử dụng mà có thể
khôi phục lại một phần hoặc toàn bộ giá trị sử dụng thì hành vi đó là hành vi cố ý làm
hư hỏng tài sản.
- Tài sản mà người phạm tội có ý định xâm hại là gì: Trong thực tiễn, khi phân biệt hai
tội danh này, điều khó khăn là khi tài sản bị thiệt hại là vật đồng bộ 2(Điều 114 BLDS
2015). Ví dụ: Đối với tài sản là vật đồng bộ như ô tô, thì khi người phạm tội thực hiện
hành vi đập bể kính chiếu hậu thì đây được xem là hành vi hủy hoại tài sản (kính chiếu
hậu) hay hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản (xe ô tô).
Nhưng trong thực tiễn xét xử cho thấy việc xác định tội danh một cách chính xác là
không dễ dàng. Như đã phân tích ở trên, mặc dù khác nhau về mục đích của tội phạm,
2 Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong
các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại thì không sử dụng được hoặc giá trị sử
dụng của vật đó bị giảm sút.

11


nhưng không phải trường hợp nào cũng xác định được ý chí chủ quan của người phạm
tội. Thực tế trong hầu hết các trường hợp chỉ có thể xác định được sự khác nhau về tính

chất mức độ thiệt hại gây ra của hành vi trái pháp luật. Do đó, để phân biệt là Tội hủy
hoại hay cố ý làm hư hỏng tài sản thì hậu quả thiệt hại thường được xem là cơ sở chủ
yếu để xác định tội danh.
Cùng một hành vi phạm tội như nhau, nếu tài sản chỉ bị hư hại một phần thì cấu
thành tội cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng nếu tài sản bị hủy hoại hoàn toàn thì cấu
thành tội hủy hoại tài sản.
Thực tiễn phạm tội cho thấy, hành vi phạm tội có thể làm cho nhiều tài sản bị thiệt
hại, trong đó có tài sản chỉ bị hư hỏng một phần, có tài sản bị hủy hoại hoàn toàn và
thực tiễn xét xử thường thực hiện nguyên tắc cộng tổng giá trị thiệt hại của tài sản bị
hủy hoại và tài sản bị hư hỏng để xác định giá trị thiệt hại chung (Thông thường Tội bị
truy cứ trách nhiệm hình sự là tội danh mà giá trị tài sản bị thiệt hại nhiều hơn).
Ví dụ 1: A đập phá tài sản của người khác, tổng thiệt hại được xác định là 5 triệu
trong đó phần tài sản bị hủy hoại là 3 triệu đồng và phần tài sản bị hư hỏng giá trị là
2 triệu đồng thì A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản với mức
thiệt hại xác định là 5 triệu đồng.
Ví dụ 2: B đập phá tài sản của người khác, tổng thiệt hại được xác định là 5 triệu
nhưng phần tài sản bị hủy hoại là 2 triệu đồng và phần tài sản bị hư hỏng giá trị là 3
triệu đồng thì A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm hư hỏng tài sản với mức
thiệt hại xác định là 5 triệu đồng.”3
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu khái quát các quy định về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”
qua từng thời kỳ, ta có thể thấy được sự phát triển của nền kinh tế và sự thay đổi của
pháp luật để phù hợp với tình hình tội phạm nói chung và tội Hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản nói riêng; đồng thời làm rõ sự khác biệt giữa tội Hủy hoại tài sản và tội
Cố ý làm hư hỏng tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam để tránh nhầm lẫn trong quá
trình áp dụng pháp luật. Cũng trong nội dung chương 1, tôi đã đưa ra những quan
điểm, những lập luận cụ thể về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, các dấu
hiệu pháp lý theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam như các yếu tố cấu thành tội
Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các dấu hiệu cụ thể cho từng yếu tố.
Bằng những kiến thức lý luận đó, tôi đã cơ bản nêu được đầy đủ các nội dung về

mặt lý luận của tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Từ đó, tôi sẽ phân tích
những ưu, nhược điểm của các quy định pháp luật của tội danh này trong BLHS 2015,
đồng thời vận dụng vào thực tiễn tại địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng thể hiện
3Học viện tòa án, Trao đổi nghiệp vụ, 2012

12


qua phần thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản tại TAND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Những nội dung này được
trình bày cụ thể ở Chương 2.

13


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI HỦY HOẠI HOẶC
CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH
SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng pháp luật về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
2.1.1. Những điểm mới trong quy định của BLHS 2015 so với BLHS 1999
- Những điểm mới về tình tiết định tội và định khung hình phạt
Tại khoản 1 Điều 143 BLHS năm 1999 quy định tình tiết định tội danh đối với loại
tội phạm này là: hành vi phạm tội phải gây thiệt hại cho tài sản giá trị từ 2 triệu đồng
đến dưới 50 triệu đồng, nếu dưới 2.000.000 đồng thì hành vi đó phải “gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
hành vi này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Điều luật mới đã thay cụm từ “gây thiệt hại từ 2 triệu đồng” thành “giá trị từ 2
triệu đồng”. Tức là chỉ cần thực hiện hành vi phạm tội đối với tài sản có giá trị từ 2
triệu đồng đã cấu thành tội phạm. Ở khung cấu thành tội phạm cơ bản này thì hậu quả

gây thiệt hại không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Đồng thời bỏ
tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” và bổ sung thêm ba tình tiết: “...c) Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ; đ) Tài sản là di vật, cổ vật”. Như vậy, với tài
sản bị xâm hại có giá trị dưới 2 triệu đồng mà hành vi đó làm ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội mà nguyên nhân trực tiếp từ hành vi hủy hoại tài sản hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra (do cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ
thể để xác định, đánh giá); hành vi đó làm hủy hoại hoặc làm hư hỏng phương tiện
kiếm sống, mưu sinh chính của người bị hại mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại
và gia đình sẽ bị lâm vào tình trạng khó khăn (VD: hủy hoại chiếc xe máy có trị giá
dưới 2 triệu đồng của bác xe ôm); hành vi đó làm mất giá trị hoặc giảm giá trị của tài
sản là di vật, cổ vật thì chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Về tình tiết định khung hình phạt, trong khoản 2 điều 178 BLHS năm 2015 quy
định thêm điểm c.“Tài sản là bảo vật quốc gia”. Cũng trong khoản 2 điều 178 BLHS
năm 2015, điểm d đã sửa đổi cụm từ “dùng chất nổ, chất cháy” thành cụm từ “dùng
chất nguy hiểm về cháy, nổ” tạo sự thống nhất trong cách dùng từ với Khoản 2 Điều 3
Luật Phòng cháy, chữa cháy 2001: “Chất nguy hiểm về cháy nổ là chất lỏng, chất khí,
chất rắn hoặc hàng hóa, vật tư dễ xảy ra cháy nổ”.
BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng”, “Gây hậu quả rất
nghiêm trọng” và “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định ở các khoản từ 1,2,3
và 4 Điều 143 BLHS năm 1999. Quy định này nhằm khắc phục sự không phù hợp khi
vừa áp dụng tình tiết định khung dựa trên giá trị tài sản bị thiệt hại, vừa áp dụng tình
tiết gây hậu quả nghiêm trọng. Bởi theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm

14


trọng, đặc biệt nghiêm trọng được định lượng bằng mức độ gây tổn hại đến tính mạng,

sức khoẻ, tài sản. Nhưng nếu xét đến bản chất của Điều luật này, đó là chỉ xâm phạm
đến quan hệ sở hữu, không xâm hại đến quan hệ nhân thân, thì trường hợp tội phạm
thực hiện hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây tổn hại đến tính
mạng, sức khỏe của người khác đã mâu thuẫn với chính bản chất của tội danh này. Mặt
khác, trong trường hợp hành vi gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác mà
chỉ dùng làm tình tiết định khung cho Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì
theo quan điểm của tác giả, hình phạt vẫn còn nhẹ, chưa thích đáng với hậu quả gây ra
của tội phạm. Nếu hậu quả gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng về mặt tài sản, Điều 178 BLHS 2015 đã cụ thể hóa thành con số đối với
thiệt hại về tài sản. Có thể hiểu rằng, đối với BLHS 2015, trường hợp hành vi hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng con người thì
bên cạnh việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà hành vi đó còn có thể cấu thành thêm
tội phạm độc lập khác và được điều chỉnh bởi các điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm
sức khỏe, tính mạng của con người được quy định tại Chương XIV BLHS năm 2015.
Quy định như vậy tạo nên sự thống nhất và logic hơn so với BLHS cũ.
- Những điểm mới trong quy định loại hình phạt chính và mức hình phạt:
Khoản 1 Điều 143 BLHS năm 1999 chỉ quy định 2 loại hình phạt chính là “cải tạo
không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Tuy nhiên, tại khoản 1
Điều 178 BLHS năm 2015, ngoài hai loại hình phạt trên, đã bổ sung thêm hình phạt
tiền đối với loại tội phạm này “từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng”.
Khoản 2 của luật mới không khác so với luật cũ. Nhưng khoản 3,4 có sự thay đổi
đáng kể về mức hình phạt: Khoản 3 Điều luật mới quy định mức hình phạt “từ 5 năm
đến 10 năm” trong khi điều luật cũ quy định mức hình phạt cao hơn: “từ 7 năm đến 15
năm”; Khoản 4 Điều 178 BLHS 2015 bỏ hình phạt “tù chung thân”, quy định hình
phạt tù từ 10 đến tối đa 20 năm trong khi luật cũ quy định mức hình phạt 12 năm đến
20 năm, cao nhất đối với loại tội phạm này là tù chung thân. Nhìn chung, mức hình
phạt trong các khung tăng nặng của Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong
BLHS 2015 thấp hơn so với luật cũ. Thể hiện cái nhìn của các nhà làm luật cũng như
Nhà nước Việt Nam thì tội này mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm hơn so với thời kì

trước. Những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng xâm hại đến sức khỏe và tính mạng con người đã được tách ra để xem
xét cấu thành một tội phạm khác nên việc xem Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn cũng là điều hợp lý.
2.1.2. Những ưu điểm của pháp luật hiện hành trong quy định về Tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản tại Điều 178 BLHS 2015
- Thêm hình thức phạt tiền là hình phạt chính ngoài hai hình thức cải tạo không giam
giữ và phạt tù: Trong khung cấu thành tội phạm cơ bản (Khoản 1 Điều 178), ngoài hình
phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm thì
BLHS 2015 còn áp dụng thêm hình phạt chính là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng. Như vậy, trong khung hình phạt áp dụng với loại tội phạm ít nghiêm

15


trọng về xâm phạm sở hữu thì hình phạt tiền là hoàn toàn phù hợp với tính chất, mức
độ nguy hiểm của loại tội phạm này cũng như khách thể bị xâm hại của nó. Đồng thời
áp dụng hình phạt này còn thể hiện sự khoan hồng trong chính sách hình sự của Nhà
nước, góp phần tăng ngân sách và giảm áp lực cho các cơ sở trại giam.
- Định lượng cụ thể cho từng khung hình phạt bằng giá trị tài sản thiệt hại, bỏ các tình
tiết định tính như gây thiệt hại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng ở các khung hình phạt tăng nặng. Như đã giải thích ở trên, việc vừa dùng tình tiết
định khung bằng giá trị thiệt hại, vừa dùng tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng như ở BLHS 1999 là không hợp lý. Do đó,
việc chỉ định khung bằng giá trị tài sản cụ thể cũng hợp lý với bản chất của Điều luật
này: Chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu chứ không xâm phạm quan hệ nhân thân. Mặt
khác, các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” trong thực tế rất khó khăn trong việc xác định mặc dù
đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCABTP.
- Thêm tình tiết hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng mà

tài sản đó là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì cũng cấu
thành Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 178.
Từ pháp lệnh số 150/LCT ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân đã quy định hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây hậu quả
nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm,
không xét đến giá trị gây thiệt hại là bao nhiêu. Đến BLHS 1999 thì lại không có tình
tiết này nữa. Ví dụ trường hợp chiếc xe máy của bác xe ôm trị giá dưới 2 triệu đồng bị
người khác đập phá dẫn đến hư hỏng, không sử dụng được, trong khi đó bác là lao
động duy nhất của gia đình. Nếu căn cứ theo BLHS 1999 thì hành vi trên không cấu
thành Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143. Đây là một thiếu sót
lớn vì hành vi trên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống gia đình bác xe ôm
nhưng lại không cấu thành tội phạm, dẫn đến kết quả bỏ lọt tội phạm. Điều 178 BLHS
2015 đã khắc phục thiếu sót đó khi bổ sung tình tiết “Người nào hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng tài sản là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ…” tại điểm d Khoản 1
Điều 178 BLHS 2015.
2.1.3. Những hạn chế của pháp luật hiện hành trong quy định về Tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản tại Điều 178 BLHS 2015
Khoản 1 Điều 178 BLHS 2015 đã bổ sung các tình tiết về hành vi hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng là các trường hợp “ Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” hoặc “Tài sản là di vật, cổ vật” thì cấu
thành Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Tuy nhiên, cụ thể hậu quả như thế
nào, ở mức độ nào thì được coi là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội và cách nhận định và thu thập vật chứng là tài sản bị xâm phạm là di vật, cổ vật khi
chưa có kết luận giám định là như thế nào thì chưa có hướng dẫn cụ thể.

16


Tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được quy định là

tình tiết định khung cơ bản của một số tội trong đó có tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản (Điều 178 BLHS 2015). Tuy nhiên hiện nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ
thể nào mới về tình tiết này mà chỉ có hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về tình tiết
“Gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 1 Điều 245 của BLHS 1999, điều này
dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn vì đây là tình tiết mà hậu
quả mang tính phi vật chất. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể, rõ ràng
và kịp thời trong thời gian sắp tới.
Theo quy định tại Điều 4 Luật di sản văn hóa 2001: “Cổ vật là hiện vật được lưu
truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở
lên”; “Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học”.
Muốn xác định một vật có phải là di vật, cổ vật hay không thì cần thực hiện giám định
tư pháp theo quy định của pháp luật. Do đó, khi xảy ra trường hợp hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản mà tài sản đó được nghi là di vật, cổ vật nhưng chưa có kết luận
giám định thì cách thu thập vật chứng như thế nào để không ảnh hưởng đến di vật, cổ
vật là vấn đề được đặt ra.
2.2. Thực tiễn xét xử Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại Tòa án Nhân
dân quận Ngũ Hành Sơn trong 04 năm, từ năm 2016 đến năm 2019
2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng
Tội phạm là một hình tượng xã hội – pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và
pháp luật. Đối với mỗi chế độ xã hội khác nhau thì khái niệm tội phạm cũng khác nhau,
nhưng nhìn chung, tội phạm là hành vi do người có nhận thức và năng lực hành vi gây
ra cho xã hội một sự nguy hiểm nhất định, tác động tới lợi ích của cá nhân hoặc xã hội.
Ngược lại, các mối quan hệ xã hội trong quá trình vận động và phát triển cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình tội phạm theo cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu tình hình tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa
bàn quận Ngũ Hành Sơn, chúng ta cần nghiên cứu đồng thời với tình hình tội phạm
chung cũng như tình hình kinh tế, chính trị, xã hội,… của quận Ngũ Hành Sơn. Qua đó,
chúng ta mới có thể nhận thức đầy đủ, đúng đắn, khách quan hiện tượng xã hội này.

Quận Ngũ Hành Sơn là một quận nội thành thuộc thành phố Đà Nẵng. Quận có diện
tích 39 km² với dân số khoảng 116 nghìn người. Theo Nghị định số 07/1997/NĐ-CP
của Chính phủ quận Ngũ Hành Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự
nhiên và dân số của phường Bắc Mỹ An của quận 3, thành phố Đà Nẵng trực thuộc
tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ và hai xã Hoà Quý, Hoà Hải (thuộc huyện Hoà Vang
cũ). 4 Từ trước năm 1975 đến sau khi đất nước thống nhất thì dù mang danh là một
“quận” của thành phố Đà Nẵng, nhưng Quận 3 chỉ là một vùng đất hoang sơ với những
ruộng lúa bạt ngàn, những làng chài nghèo ven biển và cả những khu ‘nhà chồ’ ven
sông Hàn nhết nhát, nghèo khó. Ngày nay, Quận 3 từ một vùng quê nghèo khó trở
4 Trang thông tin điện tử quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, />
17


thành thiên đường nghỉ dưỡng miền Trung giữa lòng thành phố Đà Nẵng. ‘Cuộc lột
xác’ của Quận 3 bắt đầu khi cầu Sông Hàn được hoàn thành và tuyến đường Sơn Trà –
Điện Ngọc được bắt đầu xây dựng, tuyến đường huyết mạch nối liền Bán đảo Sơn Trà
và Di sản văn hóa thế giới – Phố cổ Hội An.5
Về vị trí địa lý, “ Quận Ngũ Hành Sơn nằm về phía Đông Nam thành phố Đà Nẵng,
cách trung tâm thành phố 8km; phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 12km, phía
Tây giáp huyện Hòa Vang, Cẩm Lệ và quận Hải Châu, phía Bắc giáp quận Sơn Trà,
phía Nam giáp Phường Điện Ngọc, Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; là quận có địa
hình tương đối bằng phẳng, đất đai khá đồng nhất về tính chất lí - hóa học, cấu tạo địa
chất chủ yếu là cát; nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên chế độ nhiệt, lượng mưa, độ
ẩm tương đối thuận lợi cho sự phát triển sản xuất cây lương thực và thực phẩm, nhiệt
độ trung bình: 25,60C/năm, quanh năm nắng lắm mưa nhiều nhưng lượng mưa phân bổ
không đồng đều, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và Tây Bắc khu vực Duyên
hải miền Trung và các cơn bão đổ vào.”6
Về hành chính, ban đầu thành lập gồm 3 phường là phường Bắc Mỹ An, phường
Hòa Hải và phường Hòa Quý. “Đến ngày 02 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành
Nghị định số 24/2005/NĐ-CP về việc chia phường Bắc Mỹ An thành 02 phường: Mỹ

An và Khuê Mỹ. Do vậy, hiện nay quận Ngũ Hành Sơn có 04 phường: Mỹ An, Khuê
Mỹ, Hòa Hải và Hòa Quý.”7
Nơi đây có bãi biển dài, đẹp, ngoài ra còn có danh thắng núi Ngũ Hành được Nhà
nước công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Cuối năm 2019 vừa qua, khu du lịch danh
thắng Ngũ Hành Sơn đã tổ chức lễ đón vị khách thứ 2 triệu đến tham qua danh thắng
trong năm này, đem lại doanh thu hơn 85 tỷ đồng. Nằm trên trục đường giao thông nối
Đà Nẵng và Hội An, những năm gần đây, kinh tế quận Ngũ Hành Sơn phát triển vượt
bậc, đặc biệt là ngành du lịch, nhà hàng – khách sạn. Những khách sạn, resort đẳng cấp
5 sao chạy dọc theo con đường biển nối Đà Nẵng – Hội An, tạo thành tổ hợp du lịch
nghỉ dưỡng hấp dẫn và thú vị. Dân cư cũng đông đúc hơn với nhiều khu đô thị được
thành lập. Kinh tế phát triển, nhu cầu lao động nâng cao và nhiều cơ hội việc làm, dân
cư ngoại tỉnh đến làm ăn sinh sống tại quận Ngũ Hành Sơn cũng tăng cao đáng kể.
2.2.2. Đánh giá chung về tình hình tội phạm và phân tích, đánh giá tình hình tội
phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản so với tổng số tội phạm trên địa bàn
quận Ngũ Hành Sơn từ năm 2016 đến năm 2019
Bên cạnh sự phát triển về dân cư, kinh tế và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế
trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn nói
chung và Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng luôn có xu hướng gia
tăng về số lượng, tính chất và mức độ khi có nhiều vụ án xảy ra có tính chất côn đồ,
băng đảng, “xã hội đen”. Diễn biến của tình hình tội phạm nói chung và Tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng đã gây những tác hại đáng kể về mặt kinh tế,
5 Đình Hùng, Quận 3, Đà Nẵng – từ vùng quê nghèo khó đến thiên đường nghỉ dưỡng, Mytour.vn,
/>6 Trang thông tin điện tử quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, />7 Trang thông tin điện tử quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, />
18


an toàn, trật tự xã hội, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của “thành phố đáng
sống” – thành phố Đà Nẵng. Điển hình gần đây là vụ án Mai Xuân Tú cùng đồng bọn
đập phá quán Dê Nghĩa vào tháng 10 năm 2019 đã được thông tin trên các mặt báo.
“Trước đó, tối 19/10, nhóm thanh niên lạ mặt đến nhà hàng Dê Nghĩa (đường Đỗ Bá,

phường Mỹ An) dùng gậy sắt đập phá, làm bể cửa kính và một số vật dụng, khiến hơn
100 thực khách hoảng sợ bỏ chạy. Hình ảnh trên được camera giám sát tại quán ghi lại,
sau đó được mọi người đăng lên mạng xã hội. Qua truy xét, Công an quận Ngũ Hành
Sơn xác định những người liên quan đến vụ việc, gồm: Trần Công Lợi (28 tuổi, trú
phường An Hải Đông), Nguyễn Văn Quý (40 tuổi, trú phường Mân Thái), Phan Minh
Ân (37 tuổi) và Trần Kim Quý (40 tuổi, cùng trú phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà).
Biết không thể trốn thoát, 4 thanh niên lần lượt ra đầu thú. Từ lời khai của nhóm
người này, Công an TP Đà Nẵng bắt giữ Mai Xuân Tú. Cảnh sát xác định Tú có vai trò
chủ mưu trong vụ đập phá nhà hàng Dê Nghĩa. Theo thông tin từ Công an TP Đà Nẵng,
Tú là chủ cơ sở nước đá Thành Công nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan, phường
Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn. Trước đó, Tú từng ép chủ quán nhập 100% đá từ công ty
mình nhưng bị chủ quán từ chối. Do đó, Tú cho đàn em mình đến đập phá quán để
“dằn mặt” gây thiệt hại khoảng 25 triệu đồng và khiến thực khách đang có mặt tại quán
thời điểm đó hoảng loạn bỏ chạy.”8 Vụ án này đã được đưa ra xét xử vào tháng 1 năm
2020 tại Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn. Tú và đàn em của mình bị truy tố tội Cố
ý làm hư hỏng tài sản với khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 178.
Trước tình hình tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
nói riêng có diễn biến ngày càng phức tạp, có tính chất côn đồ, đồng phạm, băng đảng
phát triển như hiện nay, đòi hỏi các cơ quan chức năng và mỗi người dân cùng chung
tay vào công tác phòng chống tội phạm.
Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong thời gian qua có diễn biến không ổn định, tăng giảm thất thường.
Diễn biến của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không tăng giảm tương ứng
với tổng số tội phạm. Cả tổng số vụ án hình sự và riêng Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản đều tăng mạnh vào năm 2018. Trong đó, tổng số vụ án hình sự tăng gấp
rưỡi và Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tăng gấp đôi so với năm 2017. Năm
2019 có sự giảm nhẹ về tổng số vụ án hình sự, riêng Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản giảm mạnh nhất chỉ còn 1 vụ vào năm 2019. Số liệu thống kê số vụ án và
số bị cáo đã xét xử về các tội phạm và tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên
địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2019 được thể

hiện như sau:

8 Thân Lai, Bắt giữ đối tượng chủ mưu đập phá nhà hàng Dê Nghĩa, , ngày 09/11/2019

19


Bảng 2.1. Bảng so sánh tình hình Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với
tình hình tội phạm chung trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn từ năm 2016 đến năm
2019
Năm

Tội phạm Hủy hoại hoặc
Tổng số tội phạm
Tỷ lệ vụ án
cố ý làm hư hỏng tài sản
Vụ án
Bị cáo
Vụ án
Bị cáo
2016
2
2
50
85
4%
2017
3
4
47

89
6%
2018
6
7
70
107
9%
2019
1
1
61
97
2%
Tổng cộng
12
14
228
378
5%
Nguồn: Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn
Theo số liệu thống kê, trong 4 năm, từ năm 2016 đến năm 2019, trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xảy ra 228 vụ án hình sự với 378 người phạm
tội. Trong đó có 12 vụ án về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với 14 bị cáo,
chiếm tỉ lệ 5% tổng số tội phạm. Con số này cho thấy Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản chiếm tỉ lệ tương đối thấp so với các tội phạm khác như tội trộm cắp tài
sản hay tội phạm về ma túy. Riêng năm 2018, tổng số tội phạm tăng đột biến, cụ thể
tổng số vụ tăng gấp 1,5 lần và tổng số tội phạm tăng 1,2 lần so với năm 2017. Trong
năm này, tội phạm về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng có chiều hướng
tăng nhanh khi có đến 6 vụ và 7 bị cáo, gấp 2 lần năm trước và chiếm đến 9% trong

tổng số tội phạm trong năm – tỷ lệ cao nhất trong 4 năm từ năm 2016 đến năm 2019.
Để có thể đánh giá một cách bao quát về thực trạng tình hình tội Hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, người ta dùng “Cơ số tội phạm”
– “có tác giả gọi là hệ số tội phạm. Bản chất của nó là số tội phạm tính trên 100.000
dân. Vì tính đặc thù của số liệu thống kê thường xuyên của Việt Nam (còn bị ẩn đáng
kể - ẩn thống kê), nên cơ số tội phạm đã được tính toán bằng số bị cáo (phải xét xử)
trên 100.000 dân.”9
Bảng 2.2. Cơ số tội phạm Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ở quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2019
Năm

2016

Tội
HHCYLHHTS
Số vụ
Số bị
cáo
2
2

108.634

1,84

2017

3

110.269


3,63

4

Dân số (người)

Cơ số tội phạm

9 Phạm Văn Tỉnh, Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
04/2011

20


×