IU) Cl AO n ụ c VÀ ĐÀO TẠO
'C, ĐẠt ÍH.H ỉ VẬ T B Á NỘI
U U Ỳ M ĩ Sa \
g
/»«**»>
TRÍ’
BỘ T ư PHÁP
ếOA AN NHAN DÂN
' M
ị K '
; ỉ I
\ !
ĩ«
___Ạ
BỘ GIÁO DỤC VÃ ĐÀO TẠ O
•
•
_________ , ___________ ✓
_____
B Ộ TU P H Á P
•
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HUỲNH SÁNG
THẦM QUYÌN CHUNG v ì DÂM sự*
CỎA TÒA ÁM MrlẦM DẦM
Chuyên ngành:
Ma sổ':
LUẬT DẦN SựV À TỐ TỤNG DẦN s ự
50507
LUẬN ÁN THẠC s ĩ LUẬT HỌC
•
•
•
•
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH NGỌC HIỆN
Phó Viện trưởng Viện Khoa học x é t xử
Tòa án nh ân dân tối cao
HÀ NỘI - 1 9 9 9
1
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
1
Phần mở đầu
3
Chương I : VẤN »Ể CHUNG VẾ THẨM QUYỂN, t h a m q u y ể n c h u n g
VỂ DÂN s ự VÂ VÀI NÉT VỂ LICH s ử GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
DÂN Sự CỦA TÒA ÁN Ở VIỆT NAM.
1.1. Thẩm quyển và thẩm quyền chung về dân sự.
1.2. Khái niệm thẩm quyển chung về dân sự của Tòa án nhân dân.
8
8
13
1.3. Lược sử về chế đinh g*ai quyết các vụ việc dân sự của
tòa án ở Việt Nam.
20
1.4.Vài nét vể thẩm quyển chung về dân sự của
tòa án một số nước.
Chương II.
35
cơ sở LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÁC ĐỊNH THẨM QUYẾN CHUNG VỂ DÂN s ự CỦA
TÒA ÁN NHÂN DẨN.
42
2.1. Tính chất quan hệ pháp luật - cơ sở phân biệt thẩm quyền của
cơ quan hành chính nhà nước với cơ quan tư pháp.
42
2.2. Tính chất quan hê pháp luât dân sự - cơ sở pháp lí cơ bản để
xác định thẩm quyền chung về dân sự của
Tòa án Iihân dân.
54
2.3. Phân biệt thẩm quyền chung về dân sự với thẩm quyền
thuộc các tòa chuyên trách khác trong hệ thống
l òa án nhân dán.
60
2
Chương III. THẨM QUYỂN CHUNG VỂ ĐÀN s ự CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO LUẬT THỰC ĐINH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
HOÀN THIÊN
71
3.1. Phân tích thực trạng thẩm quyền chung về dân s r theo
luật thực định.
71
3.1.1. Các tranh chấp về dân sư.
71
3.1.2. Các việc đân sự.
96
3.1. 3. Các quan hệ về hôn nhân và gia đình.
102
3.1.4. Các tranh chãp về lao động.
106
3.1.5. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có
107
yếu tố nước ngoài.
3.2. Những kiẽn nghị cụ thể về hoàn thiện thẩm quyền chung
về dân sự của Tòa án nhân dân.
109
Phần kết iuận
116
Tài liệu tham khảo
122
3
pmX n m ở dấu
1/- Tính cấp thiết của đề tài:
Vãn dề xây dựng nhà nước pháp quyền là nội dung quan trọng trong
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Trong Ngh quyết Đại h( VIII,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất các quan điểm cơ bản để tiếp tục cải
cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Công hồa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, mà trong số các quan điểm đó, vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền được thể hiện một cách rõ nét là: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [55, tr. 132].
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải coi trọng việc xây dựng
bộ máy các cơ quan tư pháp vững mạnh, trong hệ thống cơ quan tơ pháp thì
Tồa án nhân đốn có vai trò quan trọng; t nh thần này được thể h ân trong Ngl *
quyết Hội ngb> Trung ương lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân đâ ft, tiếp tục xây đưng Nhà nưóc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ừong sạch, vững mạnh. Tại Hộỉ ngh.
này đã xác định một số chủ trương, nbiộm vụ trong đó có cậi cách tư pháp.
Trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười khai mạc H< I ngh Trung ương
lổn thứ III (Khoá VIII) có nhấin mạnh: “Tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu
cầu cấp bách”; “Phải xác định rõ thẩm quyền của mỗi eấp tòa án”; ‘kiện toàn
các tòa chuyên môn cả vể thẩm quyền và về tổ chức, nhân sự, đảm bảo phục
vụ tốt nhu cầu đổi mới tư pháp”[56, tr. 21]. Như vậy, cùng với việc xây dựng
nền hành chính quốc gia, nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức
Quốc hôi, thì vấn đề cải cách tư pháp phải có trọng tâm, chủ yếu là đối với cơ
quan xét xử và vãn đề mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dãn cùng với viồc
hoàn thiện nhiều mặi khác trong nhiêm vụ cải cách các cơ quan tư pháp.
4
Hiộn nay, Tòa án nhân đân được giao thẩm quyền để giải quyết nhiều
loại việc như: xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia dinh, kinh tế, lao động và hành chính. Có loại việc chỉ có Tòa án
nhân dân mới có thẩm quyền giải quyết như các loại án hình sự, còn các loại
việc khác không chỉ có Tòa án nhân đân giải quyết mà còn có các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác như trong lĩnh vực lao động, đân sự, kinh tế... đo đó,
viộc phân biột thẩm quyền của Tòa án nhân dân với thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước khác, với các tổ chức được giao có thẩm quyền giải quyết như
các tổ chức trọng tài kinh tế, hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh, hòa giải
viên lao động cấp huyên v.v... không chỉ có ý nghĩa pháp lí đối với việc hoàn
thiện cơ chế hoạt động của Tòa án nhân dân, mà còn có ý nghĩa quan ừọng
trong xây đựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Việc phân biệt thẩm quyền về đân sự giữa Tòa án nhân đân và các cơ
quan hành chính nhà nước, eác tổ chức... cũng nằm trong nhiệm vụ chung đó
và là yêu cầu bức xúc hiện nay.
Những năm gần đây, Quốc hội ban hành nhiều bộ luật quan trọng, hệ
thống pháp luật nơớc ta ngày càng hoàn thiện, quyến và lợi íeh cơ bản của
cồng đân nói riêng và các chủ thể khác nói chung ngày càng được bảo đảm.
Hiên pháp 1992 ghi nhận quyền dân sự cơ bản và Bộ luật đân sự (1995) có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1996 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong
việc thể chế hóa các quyền đân sự cơ bản đó.
Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác điều chỉnh các quan hệ
dân sự trong đời sống xã hội ngày càng rộng, do đó trên nguyên tắc bảo vệ
quyền dân sự, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cũng rông hơn và đương nhiên
đòi hỏi phải làm rõ cả về cơ sở lí luận và thực tiễn của việc mở rộng thẩm
quyền này. Xác định rõ thẩm quyển chung về dân sự của Tòa án nhân dân vừa
có ý nghĩa lớn trong việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền
5
lực nhà nước là thống nhất; vừa làm cơ sở quan trọng cho việc xây đựng quy
trình tố tụng dân sự phù hợp (chính là việc xây đựng Dự án Bộ luật tố tụng đân
sự) với các loai vụ việc cùng loại hoặc đặc thù. Đây là đòi hỏi của thực tiễn,
do đó viộc chọn và nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyến chung về đân sự của Tòa
án nhân đân” chính là để đáp ứng đòi hỏi cấp thiết đó.
2/- Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn để thẩm quyến chung về dân sự của Tòa án nhân dân dã có một số
công trình nghiên cứu, đế tài khoa học cấp Bộ: “Một số vấn đề về cơ sở lí luận
và thực tiễn của việc xây đựng Bộ luật tố tụng đân sự” của Viện Khoa học xét
xử - Tòa án nhân dân tối cao; một số luận án thạc sĩ khoa học luật học như:
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng đân sự Việt Nam” của tác
giả Lê Hoài Nam; “Sự hình thành và phát triển của một số chế định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Tuấn. Ngoài ra, còn một
số bài viết không trực tiếp nhưng cổ để cập phần nào đến thẩm quyền chung
về dân sự của Tòa án nhân dân như: “Một số ván đề vể thẩm quyền xét xử các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân” của tác giả Lê Thu Hà [28, tr. 50]; “Về
Điều 2 của Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Phan Hữu Thư [52,
ư.21-24]. Nhìn chung, các bài viết này mới phản ảnh được thực trạng việc
phân biệt thẩm quyền gỉữa cơ quan hành chính và cơ quan tòa án là tùy thuộc
vào ý chí của nhà làm luật theo từng giai đoạn và chủ yếu dựa trên cơ chế tổ
chức và quản lí nhà nước theo từng thcd kì..., mà chưa có cồng trình khoa học
nào nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ vấn dề thẩm quyển chung về dân sự của
Tòa án nhân dân cũng như đưa ra những cơ sở lí luận và các tiêu chí phăp lí cơ
bản cho việc xác định thẩm quyến chung vế dân sự của Tòa án nhân đân.
3/- Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là làm sáng tổ cơ sở khoa học
và thực tiễn của viộc xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân
6
dân, góp phần nhỏ vào việc xây dựng Đự án Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
đã được triển khai theo Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là giải quyết những vấn đề cơ bản
về lí luận thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành và đưa ra những lí
giải làm cơ sở cho viộc xác định thẩm quyền chung vễ dân sự của Tòa án nhân
dân trong cơ câu tổ chức và phân công, phân nhiệm của bộ máy các cơ quan
quyển lực nhà nước. Từ đó, đưa ra những kiến nghị về những cơ sở lí luận
nhằm mục đích góp phẫn hoàn thiộn các quy định của pháp luật về thẩm
quyền chung vể dân sự của Tòa án nhân dân.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận án nghiên cứu một số khái niệm về
vấn đề chung về thẩm quyền, thẩm quyển chung về đân sự và vài nét về lịch
I
sử giải quyết các tranh chấp dân sự ở nước ta từ thời kì phong kiến đến nay;
mạnh đạn đưa ra các cơ sở lí luận và thực tiễn để lí giải việc xác định thẩm
quyền chung về dân sự, giải quyết về mặt lí luận làm cơ sở cho việc phân biệt
rõ thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân dân vói thẩm quyền của cơ
quan nhà nước, tổ chức khác trong lĩnh vực đân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế và lao động; phân tích các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta vể
thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân đân và đề xuất những kiến nghị
hoàn thiện thẩm quyển chung về dân sự của Tòa án nhân dân.
4/- Phương pháp luận vă phương phăp nghiên cứu đề tăi:
Luận án này được nghiên cứu đựa trên cơ sở lí luận triết học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng trong viộc cải cách tư pháp..., đổng thời sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh...
để làm sáng tỏ những luận điểm mà luận án đề cập và giải quyết.
5/- Điểm mới của luận án:
Điểm mới của luận án được tập trung ở những quan điểm khoa học làm
cơ sở cho viộc xác định thẩm quyền chung về đân sự của Tòa án nhân dân,
7
đưa ra các tiêu chí để phân biêt thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân
đân với vác cơ quan hành chính nhà nước và các tổ chức khác, đồng thỡi làm
rõ cơ sở pháp lí của việc phân định thẩm quyền giữa các tòa chuyên trách
trong hé thống Tòa án nhân dân về lĩnh vực dân sự.
6/- Cơ cấu luân án gồm:
- Phần mở đầu
Chương I: VAn dề chung về thẩm quyền, thẩm quyền chung về dân sự
và vài nét về lịch sử giải quyết căc tranh chấp dân sự của tòa án ở Viêt Nam.
Chương II: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xác định thẩm quyền
chung về đân sự của Tòa án nhân dân.
Chương III : Thẩm quyén chung vể dân sự của Tòa án nhân dân theo
luật thực Ạiih và những kiến ngh' hoàn thiện.
- Phần kết luận.
8
CHƯƠNG I
VẪN ĐỂ CHUNG VỂ THAM
q uyển
,
th ẩm q u yến chung
VỂ
DÂN S ự VÀ VÀI NÉT VỂ LỊC H s ử GIẢI Q U YẾT CÁC TRANH
CHẤP DÂN S ự CỦA TÒA ÁN Ở V IỆT NAM
1.1 THẨM QUYỀN VÀ THAM QUYỀN CHUNG V Ề DÂN sự .
Theo quan điểm của các nhà luật học tư sản thì quyền lực nhà nước phải
có sự phân chia rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các
cơ quan này thực hiện thẩm quyển trên cơ sở chức năng của mình. Thẩm
quyền xuất phát trên cơ sở quyền lực nhà nưóc, nhưng quyền lực nhà nước
phải được chế ước lẫn nhau bởi các cơ quan thực thi quyền lực để tránh lạm
quyền. Các nhà luật học theo thuyết tam quyền phân lập đã đựa trên tư tưởng
của Montesquieu: “Cung không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách
khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại vối
quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống vằ quyền tự do
của cồng đân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại vớỉ
quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp.
Nếu một người hay một tổ chức cửa quan chức hoặc cửa quý tộc, hoặc
của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”
[38, tr. 100-101].
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền lực nhà nước là: Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Khống ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, xác định
rõ chức năng, quyền hạn và sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
9
nhà nước trong việc thực hiện ba quyển đó là nhiệm vụ thường phải đề cập và
thực hiện trong mọi thời kì.
Bộ máy nhà nước ta hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất
nhưng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp lại phải có sự phân công,
phân nhiệm trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc hoạt động thống nhất về quyển lực
của bộ máy nhà nước. Các cơ quan này có những chức năng, quyền hạn,
nhiệm vụ riêng biệt và được xác đinh tương đối rõ ràng. Cơ quan nhà nước
này không thể thay thế cơ quan nhà nước khác thưc hiện chức năng đã được
xác định.
Mồi cơ quan nhà nước có những chức năng nhất định, chức năng ấy chi
phối việc xác đinh nhiệm vụ, quyển hạn của cơ quan đó. Sự phân biệt giữa cơ
quan này với cơ quan khác theo chứe năng chính là phân biệt sự khác nhau về
thẩm quyến giữa các cơ quan nhà nước. Thẩm quyển của cơ quan nhà nước
bao gồm các lĩnh vực mà nhà nước đã ấh đinh cho cơ quan đó và trong quá
trình thực thi quyền hạn của mình chính là bảo đam sự hoạt động của cơ quan
công quyền, thể hiện quyềii lực của nhà nước. Thẩm quyền là thuộc tính tãt
yếu cua quyền lực cua các cơ quan nhà. nước.
Tùy theo mỗi loại cơ quan mà pháp luật quy định có một hoặc nhiều
quyền khác nhau. V í đụ: Quốc hội là cơ quan duy nhất cớ quyền lập Êịến và
lập pháp; có quyển quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại,
về kinh tế, xã hội... và thực hiện quyển giám sát tôi cao đối với toàn bộ hoạt
đông của các cơ quan nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành pháp của Quốc
hội, cơ quan hành chính cao nhất có quyển quản lí và điều hành xã hội trên
mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại...Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật và
chức năng công tố. Tòa án nhân dân có quyền xét xử và giải quyết các vụ việc
được giao.
10
Thuật ngữ thẩm quyền dùng để chỉ phạm vi,ranh giới của việc phân biệt
chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn của hộ thống cơ quan nhà nước này với hệ
thống cơ quan nhà nước khác, thẩm quyền chung còn xác định phạm vi, ranh
giới hoạt động của các hệ thống cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền
lực nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau hay trong cùng một lĩnh vực nào
đó. Như vậy, thẩm quyền chung được hiểu theo nghĩa rộng của nó.
Khi nói đến thuật ngữ thẩm quyền, trong thực tiễn còn nói đến quyền
hạn cụ thể. Bàn đến quyền hạn của một cơ quan hay chức danh nhà nước nào
đó, người ta cũng sử dụng thuật ngữ thẩm quyền để phân biệt mức độ quyền
hạn của cơ quan hay chức đanh nhà nước đó trong từng lĩnh vực. Ví dụ: Tòa
án nhân dân có thẩm quyền xét xử các loại án: hình sự, dân sự, kinh tế, hành
chính, lao động, hôn nhân và gia đình... Khái niệm thẩm quyền xét xử chỉ
chức năng xét xử của Tòa án nhẫn đân, trong đó có chức năng xét xử về dân
sự. Nhưng, khi nói đến thẩm quyển về đân sự thì không phải tất cả vấn đề về
dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Thẩm quyền
được hiểu theo nghĩa hẹp chính là quyền hạn cụ thể và được pháp luật quy
định, vì vậy, nếu không xét từ góc độ phân biệt thẩm quyền chung giữa hệ
thống cơ quan này với thẩm quyền chung của hệ thống cơ quan nhà nước
khác, thì mỗi cơ quan nhà nước sẽ không có thẩm quyền riẽng để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhìn vào thẩm quyển chung có thể phân biệt
được cơ quan nhà nước này với cơ quan nhà nước khác trong các lĩnh vực khác
nhau và nhìn vào thẩm quyền cụ thể phân biệt được chức năng, nhiộm vụ giữa
các cơ quan trong cùng một hệ thống và thậm chí là phân biệt được cả quyền
hạn từng cơ quan cụ thể theo cấp, theo địa hạt... Các khái niệm: thẩm quyền,
thẩm quyền chung, thẩm quyền theo địa hạt, thẩm quyền theo sự lựa chọn,
thẩm quyền giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới... là những khái niệm
dùng để chỉ các mức độ khác nhau về quyền hạn cụ thể của các cơ quan nhà
11
nước, các tổ chức và cá nhân của người có thẩm quyển trong ho
đông thực
thi quyền lực của nhà nước.
Trong giáo trình Lí luận về nhà nước và pháp luật (Đạihọc Luât Hà N' li
1994) có nhận xét là: “Các cơ quan nhà nước ho it dôngtrong phạm vithẩm
quyền của mình. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước là toàn bộ những quyền
và nghĩa vụ mà nhà nước quy định cho cơ quan đó, phụ thuộc vào vị trí của
mình trong bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước khác nhau thì có thẩm
quyền khác nhau” [21, tr. 204]. Đây mới là nhận xét về thẩm quyền chung và
phần nào đó thể hiện được thẩm quyền theo nghĩa b- p, mà chưa bao hàm được
thẩm quyền theo nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng cơ quan hay cá nhân
người có chức danh nhà nước.
Như trên đã phân tích, mỗi loa cơ quan có những quyẻn hạn cụ thể trên
cơ sở chức năng, nhiêm vụ mà luật quy đinh theo từng lĩnh vực. Trong lĩnh
vực dân sự, có nhiều cơ quan có thẩm quyền với mức độ, tính chất khác nhau
và được quy đinh rõ trong các văn bản pháp luật. Chẳng hạn, tại khoản 2 Điéu
12 Bộ luật dân sự: “Khi quyẻn dân sự của một chủ thể bi xâm phạm, thì ehủ
thể có quyển yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác:
a) Công nhận quyền d in sự của mình;
b) Buộc chãm đứt hành vi vi phạm ;'
c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
đ) Buộc bồi thường thi it hại;
e) Phạt vi phạm.”
Vấn để đặt ra là trong cùng một lĩnh vực, các cơ quan nhà nước khác
nhau có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự ở những mức đô nào. Hay nói cảch
khác, sự phân biệt thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và các cơ quan nhà nước
khác trong lĩnh vực bảo vệ quyền dân sự phải được phân định cụ thể, rõ làng
như thế nào để tránh chồng chéo, dùn đẩy cho nhau...
12
Tòa án nhân dân có chức năng xét xử. Chỉ có Tòa án nhân dân mói có
thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các YỊI việc tranh chấp vể đân
sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình... Chức năng xét xử này các cơ
quan nhà nước khác không thể có được. Chức năng xét xử và giải quyết các
loai vụ việc phải theo trình tự và thủ tục tố tụng được pháp luật quy định chặt
che. Nếu việc xét xử và giải quyết vi phạm thủ tục thì vụ v iệ; được giải quyết
đó cũng sẽ bị hủy bỏ. Những nguyên tắc hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân trong quá trình xét xử phải tuyèt đối tuân theo như: Nguyên tắc xét xử tập
thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân đân đôc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai, trừ
trường hợp pháp luật quy đinh khác; nguyên tắc quyển bào chữa của bị cáo
được bảo đảm v.v... Tòa án nhân đân vi pham các nguyên tắc trên là vi phạm
nghiêm trong thủ tục tố tụng.
v ể măt pháp lí, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân được Điều 127
Hiến pháp 1992 và Điểu 1 Luật tổ chức Tòa án nhân đâu quy định: “Tòa án
nhân đân tối cao, các Tòa án nhân đân đ>a phương, các Tòa án quân sự và các
Tòa án khác do luật tí ịnh là cơ quan xét xử của nước Cộng hơà xã hội chỏ
nghĩa Việt Nam”.
Vì vậy, trong lĩnh vực dân sư, hệ thông Tòa án nhân dân lẵ những cơ
quan nhà nước có chức năng xét xử, trong đó thẩm quyền xét xử và giải quyết
các vụ việc dân sự để bảo vê các quyền dân sự của Tòa ăn nhân dân khác với
thẩm quyền bảo vệ các quyền dân s Ị của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác.
Tóm lại, với những phân tích trên có thể thấy rằng: Thẩm quyền là
thuôc tính của quyền lực của các cơ quan nhà nước, của cá nhân người có
chức danh nhà nước thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình theo quy định
của pháp luật.
13
Thẩm quyền chung về dân sự cũng là một trong những thuộc tính của
quyền lực nhà nước, theo dó các cơ quan nhà nước cũng như người có chức
danh nhà nước bảo dảm cho các chủ thể thực hiộn các quyền, nghĩa vụ dân sự
của họ và bảo vệ họ khi các quyền dân sự bị xâm phạm hay có tranh chấp.
1.2.
KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN CHUNG VỀ DÁN s ự CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN.
Xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân dân là trọng
tâm trong nội dung của luận án này. Để làm sáng tỏ vân dề này, chúng tôi cho
rằng trước hết cần phải làm rõ các khái niệm về dân sự, quyền dân sự và pháp
luật dân sự...
a) Khái niệm đân sự là một khái niệm rông. Dân sự bao gồm các lĩnh
vực liên quan dến con người (một cá nhân, mọi cá nhân), dến các tổ chức
trong giao lưu dân sự. Thuật ngữ dân sự theo nghĩa là một khái niệm pháp lí
cho đến nay khỏ có định nghĩa nào đầy đủ. Ngay ở nước ta, có những định
nghĩa về đân sự không thông nhất nhau. Theo Từ điển tiếng Việt (đo Văn Tân
chủ biên) định nghĩa dân sự là: Việc của cồng dân; việc tòa án có liên quan
đến tư nhân; nói chính quyền ở trong tay của những ngưòi khồng phải là quân
nhân [49, tr. 239]. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngồn ngữ học (1994)
thì định nghĩa dân sự là: Việc có quan hệ dến đân; nhân dân (trong quan hệ
với ngưòi có thẩm quyền); việc thuộc vể quan hệ tài sản, hôn nhân gia đình...
do tòa án xét xử; có tính chất việc của nhân dân [54, tr. 239].
b) Khi nói đến khái niệm pháp lí về dân sự thường gắn với khái niệm
quyền dân sự, quyền công dân. Quyền dân sự là khái niệm có ỷ nghĩa pháp lí chính trị. Theo Công ưởc Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966 Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) thì quyền đân sự bao gồm: những quyền
tư do đi lại và cư trú, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, quyền tự do
đi ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về, quyền khiếu nại tố căo, quyền được
14
pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, những quyển về nhân thân,
quyền thừa kế, quyền sở hữu... Quyền đân sự dược phân nhóm bao gồm các
quyền về tài sản và quyển nhân thân. Các quyển này được pháp luật bảo vê và
tạo ra môi trưòng pháp lí thuận lợ cho viộc thực hiện quyển dân sự bằng các
quy định của pháp luật đân sự.
Nhưng từ những quyền về dân sự theo Công ước Quốc tế về các quyền
*}
dân sự và chính trị đối chiếu với luật dân sự của các nước thì không phải là
luật phăp đều quy định như nhau. Tùy theo mỗi quốc gia, xác định phạm vi,
đối tượng diểu chỉnh (hay nói rõ hơn là các quyền đân sự) luật dân sự ở mỗi
nước cũng có khác nhau. Ở Việt Nam, khi ban hành Bộ luật dân sự, Nhà nước
ta đã xác định đối tượng điều chỉnh là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
Về quan hê tài sản thì không phải bất cứ quan hệ tài sản nào cũng do luật dân
sự điếu chỉnh mà chỉ có quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa, tiền tệ. v ề
tài sản, theo Điều 172 Bộ luật dân sự thi tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiến và các quyền tì i sản. v ề quan hộ nhân thân gồm quan
hê nhân thân gắn với tài sản và ( nan hệ nhân ĩhân không gắn vổi tài sản Việc
1
bảo vệ quyền dân sự do Bộ luật dân sự quy < inh khồng phải chỉ thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân. Trong quá trinh giao lưu dân sự để xác định
quyền và nghĩa vụ dân sự, vể góc độ xác lập quyển và nghĩa vụ thì các cơ
quan nhà nước công nhân quyến này. Tòa án nhân dân chỉ có nhi âm vụ bảo vệ
khi các quyền dân sự đó bị xâm phạm, có tranh chấp hoặc trong trường hợp
nào đó mà pháp luật quy dịnh thì công nhận quyển đân sự cho chủ thể có yêu
cầu.
c)
Theo Từ điển luật (A concise dictionary of Law): Luật dân sự (Civile
law) được hiểu là: Luât La mã (Roman Law); hệ thống luật dựa trên cơ sở luật
La mã (Legal system based on Roman Law); Luât địa phương (law
municipal); luật tư (private law) so sánh với luật hình sự, luật hành chính
(criminal law, administrative law...) [1, tr. 68]. Theo Từ điển pháp luật Anh-
15
Việt của Nguyễn Thành Minh (chủ biên) [37, tr. 156] thì: luật đân sự (civil
law) có các nghĩa tương tự như Từ điển luật (Aconcise dictionary of Law) nêu
trẽn.
“Theo tiẽng La tinh, khái niệm dân sự được biểu thị bằng thuật ngữ
civiles, đương nhiên ius civile trơng Luật La-mã cổ nhiẻu ý nghĩa khác nhau.
Trước hết, thuật ngữ này đùng để chỉ Luật La-mã cổ đại áp đụng đối vói công
dân La-mã quit, Ius civile đối lập vói ius gentium - luật của tất cả các công
dân thuộc La mã (kể cả dân ngoai lai) và có thể xem nó là biến thái của luật
dân sự La mã”[19, tr. 8-9]. Còn theo tác giả Cristian Atias, ông ta cho rằng:
cái đặc thù của dân luật là vẫn thành một tổng thể có sự cãu kết của nó, sự
lo-gich của nó và những đòi hỏi của nó. Các sự đôi mói đứng vào chỗ của
mình trong đó, tác động trở lại đến ngữ cảnh đến lượt mình lại chịu ảnh hưởng
của nó; đó là công lao lịch sử của những người cha của những việc cải cách
luật về gia đình mới dAy (1964-1974) vì đã quan tâm đến vấn đề đó. Như vậy,
dân luật không phải chi được định nghĩa bằng đối tượng của nó. Đung là dân
luật chỉ bàn đển tất cả những quan hệ riêng tư (gia đình, hợp đổng, quyển số
hữu...) trong phạm vi nhung quan hệ đó không liên quan đến laơ đ(, Ig và buôn
bán... Còn cần phải biết đân luật vẫn là cái bệ phóng trên đó gần hết tòa nhà
pháp lí Pháp được xây dựng lên” [17, ứ. 29]. Montesquieu thì quan niệm ltìật
dân sự: “Sống trong xã hội, muốn duy trì được trât tự phải quy đinh rõ quan hệ
giữa người cai trị với ngưòi được cai tri. Đó là luật chính tri. Lại phải quy ổỊỈih
quan hệ giữa công dân. Đó là luật dân sự.” Hoặc: “Luật clúnh trj là luật tạo ra
nền cai trị. Luật dân sự là luật để duy trì nền cai trị ẫy”; “Cuối cùng luật chính
trị và luật dân sự có mối tương quan về nguồn gốc, về đối tượng của ngưỡi lập
pháp, với trật tự các sự việc mà luật quy định. Đó là quan điểm không thể bỏ
qua” [38, tr. 44-46].
Theo Thạc sĩ luật học Dương Thị Định trích dăn sự nghiên cứa của tác
giả Nguyễn Quang Quýnh thì: “Luật dân sự hay dân luật được dịch ra từ tiếng
16
Pháp Droit civil mà nguồn gôc của nó là tiếng La tinh Jus civile, song trong
cổ luật La mã Jus civile có nghĩa rộng hơn dân luật. Đối tượng của nó bao
gồm tất cả các ngành luật nằm trong hộ thống tư pháp. Cho tới thế kỉ 18 ở
Pháp người ta hiểu Jus civile là tư pháp. Như vây, danh từ dân luật được sử
dụng vỗi tư cách là một ngành luật độc lập, chỉ thực sự có trong thời cận đại”
(Nguyễn Quang Quýnh, Dân luật, quyển 1- Viện Đại học Cần Thơ) [20, tr. 7].
Từ khái niệm luật dân sự theo nghĩa rộng từ thòi La mã cổ đại đến thời
cận đại các nhà luật học hiểu thuật ngữ luật dân sự như là một ngành luật độc
lập. Nghĩa là, nội hàm của khái niệm luật dân sự được xác định lại.
Ở nưóc ta xuất hiện khái niệm luật dân sự trong thời kì Pháp thuộc và
được sử dụng thuật ngữ dân luật như một ngành luật trong Bộ đân luật giản
yêu (1883), Bắc kì Pháp viện biên chế (1917), Bộ dân luật Bắc kì (1931) và
Hoàng Việt Trung kì hộ luật (1936)... Từ tháng 8/1945 đến nay (1999), đặc
biệt là khi Nhà nước ta ban hành Bộ luật dân sự thì trong Bộ luật dân sự đã xác
định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Như vậy, dưới góc độ
pháp lí, chúng ta phải hiểu khái niệm luật dân sự là các quy phạm pháp luật có
đôí tượng điều chỉnh lằ những nhõm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân
được quy định tại Điều 1 Bộ luật dân sự. Cớ giới hạn khái niệm luật dân sự
như vậy mới có cơ sở xác định thẩm quyển chung về dân sự của Tòa án nhân
đân.
Trước khi nghiên cứu thẩm quyến chung về dân sự, phải tìm hiểu thẩm
quyển xét xử của Tòa án nhân dân. v ề khái niệm thẩm quyền xét xử, có luận
án Thạc sĩ luật học đã dưa ra nhận xét thẩm quyền xét xử như sau: “Thẩm
quyền xét xử là khái niệm bao hàm nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mang tính lịch
sử cụ thể quy định quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Nội đung của nó đo các
điểu kiện kinh tế, chính trị, xã hội và các điều kiện khác quyết định”
[42, tr. 92]. Với nhận xét này chưa thể nói lên bản chất pháp lí của thẩm
quyển xét xử mà chỉ mới nói lên khía cạnh xã hội của nó mà thôi. Thẩm
17
quyền xét xử chỉ riêng tòa án mới có và quyền này bao giờ cũng gắn liền với
quyền lực nhà nước. Hay nói một cách khác, thẩm quyền xét xử tồn tại trên cơ
sở quyền lực nhà nước của cơ quan công quyền. Vì vậy, có thể hiểu khái niộm
thẩm quyền xét xử của tòa án là quyền hạn xét xử của tòa án trên cơ sở quyền
lực nhà nước và được quy dịnh bởi nhà nước. Nội đung của thẩm quyền xét xử
do các điều kiện kinh tế, chinh trị, xã hội và các điều kiộn khác ở một chế dô
chính trị của một nhà nưóc cụ thể quyết định.
C1 ức năng của Tòa án nhân dân trước tháng 7/1993 là xét xử và thi
hành án đân sự. Từ tháng 7/1993, thi hành án dân sự được chuyển giao cho
Chính phủ. Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Tòa án nhân dân dểu ghi Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử nhưng không phải chỉ có xét xử mà còn có các
hành vi pháp lí khác mà luật pháp cho phép như việc Tòa án nhân đân giải
quyết việc phá sản doanh nghiệp, giải quyết việc đình công và trong lĩnh vưc
dân sự không
CP,
xét xử các tranh chấp mà còn công nhận căc quyền dân sự.
Khi nghiên cứu thẩm quyền chung vể dân sự của Tòa án nhân dân phải nghiên
cứu theo giới han thẩm quyén vể các vụ việc dân sự.
Khái niệm thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân dân, theo giáo
trình của Trường đại học Luật Hà Nội: “Thẩm quyền chung về đ£L, sự của tòa
án là tổng hợp các loại việc về dân sự, tòa án có thẩm quyển thụ lí giải quyết
theo thủ rục tố tụng dân Mí” [25, tr. 39]. Theo khái niệm này thì thẩm qu yn
chung vể dân sự được hiểu đưới góc độ của pháp luật tố tụng, nó tùy thuộc vào
sự phát triển, trưởng thành của hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân ở nước ta.
Thực ra, phải được xác định theo nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc
bảo vệ các quyền dân sự theo quy dịnh của pháp luật dân su, mà ở dó pháp
luật dân sự cho phép Tòa án nhân dân được giải quyết những loại vụ việc dân
sự gì.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Thẩm quyền
chung về dân sự của Tòa án nhân dân là quyền han của Tòa án nhân dân
ì
18
trong việc giải quyết các loại vụ việc dân sự dược pháp luật quy định để bảo
vê quyền, lợi ích hơp pháp của các chủ thể trong lĩnh vực dân sự.
Cho đến nay, thẩm quyển về đân sự của Tòa án nhân dân được xác đ ìh
tại Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Bô luật dân sự và
các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, hiện nay một mãt do các văn bản pháp
luât chưa quy đinh cụ thể, rõ ràng dôi khi có SI chổng chéo; mặt khác Tòa án
nhân dân còn có thẩm quyền giải quyết các vụ việc hành chính, lao động, kinh
tế..., do đó thẩm quyển chung về dân sự của Tòa án nhân dân cần phải được
giải quyết một cách đầy đủ và triệt dể khi xãy dựng Dự án Bộ luật tố tụng đâu
sự.
Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án
nhân dân:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản ií xã hội bằng pháp luật, lấy
pháp luật làm cồng cụ để thưc hjộn việc quản lí xã hội; pháp luật là tiêu chuẩn
quan trọng để đ''ỉu hành, quản lí xã hội. Muốn có pháp luật đầy đử và thực thi
trong đời sống xã hội thì phải có hệ thống các cơ quan nhà nước: cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước phán quyết
nhiểu loại >' ộc trong đó có loại vụ VI ộc dân sự là loại vụ việc liên quan trực
tiếp gần như toàn bộ các quyển dân sự cơ bản của công dân, quyến đân sự của
các tổ chức. Vì vậy, xác dịnh Tòa án nhân dân có thám quyền giải quyết loai1
vụ viêc đân sự gì có ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng nhà nước pháp
quyền. Xây dmig nhà nước pháp quyền không thể không quan tâm đến các
quyền dân sự mấ Tòa án nhân đân là cơ quan phán quyết nhằm bảo vệ quyền
dân sự của công dân, tổ chức.
- Khoản 2 Điều 12 Bộ luật dân sự quy định việc bảo vệ quyền đân sự
khi bị xâm phạm không chỉ có Tòa án nhân dân mà còn có các cơ quan có
lliẩm quyền khác mà chủ yếu là để phân biệt với cơ quan hành chính nhà
nước. Vì vậy, xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân dân giúp
19
phân biệt rõ giữa cơ quan xét xử với cơ quan hành chính trong việc bảo vệ
quyền dân sự được rõ ràng, tránh sự chồng chéo, đùn đẩy cho nhau.
- Phán quyết của Tòa án nhân dân có giá trị pháp lí mà mọi công dân, tổ
chức, các cơ quan nhà nước phải chấp hành. Tinh thẩn này được Hiến pháp
1992 ghi nhận: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân đân có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những ngưỡi và dơn vị
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”(Điều 136). Vì vậy, nếu xác định đầy
đủ các loại việc dân sự nào đo Tòa án nhân đân giải quyết sẽ đảm bảo hiệu
quả viộc bảo vộ quyền dân sự trên thực tế. Phương thức bảo vệ quyền đân sự
tại Tòa án nhân dân là phương thức đảm bảo hiệu quả cao nhất.
- Vấn để công lí và đân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa là vấn để
quan trọng, trọng tâm. Xây dựng nhà nước pháp quyền cũng có nghĩa là xây
dựng một xã hội mà ở đó nền đân chủ - công lí được tôn trọng và thực hiện
trên thực tế. Nói đến nền dân chủ của xã hội thì phải nhận thấy ngay rằng điểu
cốt lõi, nến tảng cơ bản của nền dân chủ xã hội đỗ chính là các quyền dân sự
có được tôn trọng và bảo vệ hay không. Quyền dân sự liên quan trực tiếp đếh
quyển con người. Quyển dân sự được bảo đâm thì quyền con người mới được
tôn trọng. Quyển con người được tôn trọng thì nền dân chủ xã hội được thể
hiện trên thực tế. Vì vậy, xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án
nhân dân là biện pháp gián tiếp góp phần vào việc xây đựng nền dân chủ xã
hội tốt đẹp.
- Sự phát triển và trưởng thành của hệ thống Tòa án nhân dân ngày càng
được Nhà nước quan tâm. Cùng với việc giao thẩm quyền xét xử, các tõa
chuyên trách được hình thành trong tổ chức Tòa án nhân dân (năm 1994,
thành lập Tòa kinh tế; năm 1996, thành lập Tòa hành chính và Tòa lao động),
vì vậy, ngay trong hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân việc phân biệt thẩm
quvền giữa các tòa chuyên trách cần phải đặt ra, do đó, xác định thẩm quyền
20
chung về dân sự của Tòa án nhân dân không chỉ có ý nghĩa phân biột với các
cơ quan, tổ chức khác mà còn có ý nghĩa thiết thực trong việc phân biêt thẩm
quyền giữa các tòa chuyên trách khác trong hộ thống tổ chức Tòa án nhân dân
khi xác định loại viôc tranh chấp là dân sự, kinh tế hay lao động...
-
Xây dựng Dư án Bộ luật tố tụng dân sự là một nội dung quan trọng
của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Muốn xây dựng Bô luật tố tụng đân
sự cho tốt, một nội dung quan trọng trong Bộ luật tố tụng dân sự là phải chỉ ra
cho được Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết về dân sự như thế nào.
Do đó, muốn xác định Tòa án nhân dân có bao nhiêu loại việc thì điều trước
•
•
tiên phải xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án nhân dân như thế
nào, do đâu, trên cơ sở nào Tòa án nhân dân có thẩm quyền về những loai vụ
việc dân sự này. Vì vậy, xác định thẩm quyền chung về dân sự có ý nghĩa rất
lớn đối với việc xây đựng Dư án Bộ luât tố tụng đân sự.
1.3. LƯỢC SỬ VỂ CHẾ ĐỊNH GIẢI QUYLÍT CÂC vụ VIỆC DÂN sụ CUA
TÒA ÁN ở VIỆT NAM.
1.3.1. Việc xét xử các vụ việc dân sự trong thời kì phong kiến.
Ở nước ta, nhà nước xuất hiện đầu tiên là Nhà nước Vãn Lang. Theo
các nhà sử học thì thời kì này gọi là thời kì Hùng Vương. Đất nước trải qua
một nghìn năm Bắc thuộc và sau đó là thòi kì nước nhà thông nhất, độc lập vô«
các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ và Lê sơ (thế kỉ thứ X - XV).
Trong thòi kì này luật thành văn đầu tiên là Bộ Hình thư ra đời khoảng năm
1042 (hiện nay không còn lưu giữ). Năm 1230 nhà Trần ban hành Quốc triều
hình luật (Bộ Quốc triều hình luật này hiện nay cũng không còn lưu giữ),
nhưng hoàn thiện nhất là Bộ Quốc triều hình luât thòi nhà Lẽ năm 1483 (cùng
tên với Bồ luật thời nhà Trần), đẽn thời kì nhà Nguyên, Bộ luật Gia Long được
ban hành (1815).
•
21
Pháp luật Việt Nam thời kì phong kiến phát triển mạnh vào thế kỉ XV,
năm 1483, để đáp ứng các yêu cầu của đòi sống xã hội, vua Lê Thánh Tông
sai các triều thần sưu tập, hệ thống và ban hành Bộ Quốc triểu hình luật (Bộ
luật Hồng Đức). Ngoài Bộ Quốc triều hình luật còn có Quốc triều khám tụng
điều lệ (1777). Bộ Quốc triều khám tụng điểu lệ là bộ luật tố tụng đầu tiên ở
Việt Nam. Pháp luật thời kì này không phân biệt rõ dân sự, hình sự, tố tụng
hình sự hay tố tụng đân sự. Loại việc đân sự được xét xử trong thời kì này như:
giải quyết tranh chấp vể tài sản (trị giá từ 3 quan trở xuống thì hòa giải), tranh
chãp về ruộng đất, các việc kiên vể gièm pha, nói xấu...
Theo Bộ Quốc triểu hình luật thì các vụ kiện tụng nói chung và dân sự
nói riêng được phân chia thành 4 loại: việc rất nhỏ, việc nhỏ, việc trung bình
và việc lớn. Thẩm quyền xét xử mỗi loại cũng khác nhau như: “X ã quan có
thẩm quyền xét xử những vụ tranh chấp rất nhỏ nhặt trong làng xã, mà thường
là nhằm hòa giải các đương sự, nhằm giảm bớt vụ kiện tụng kéo dài sinh ra
tốn kém. Nếu xã quan xét xử không công bằng thì các bên đương sự được
phép khiếu nại lên quan huyện” hoặc “Quan Phủ có thẩm quyền xét xử những
việc kiện tụng trung bình và xét xử những việc kiện mà huyện quan không xét
xử được” [40, tr. 163].
Như vậy, dù không có cơ quan riêng biệt để giải quuyết các vụ án nói
chung hay các loại vụ việc dân sự nói riêng, nhưng ở thòi kì này nhà nước
phong kiến cũng đã có những chế định riêng về giải quyết các việc dân sự.
Dưới triều đại nhà Nguyễn, Bộ Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long)
đuợc ban hành và in thành sách vào năm 1815, trong đó thủ tục giải quyết các
tranh chấp được quy định từ Điều 301 đến Điểu 311. Ngoài Hoàng Việt luật
lệ, nhà Nguyễn còn ban hành các chiếu chỉ, đạo, đụ; các quy định này tập hợp
thành “Đại Nam hội điển toát yếu”(1833) và “Đại Nam hội điển sử lệ” (1843).
Việc xét xử trong thời kì này cũng không phân biột được giữa tố tụng
hình sự và tố tụng dân sự. Tranh chấp công nợ phải do lý trưởng phãn xử bằng
22
lời. Đối với những vụ viộc về hộ khẩu, hôn nhân, ruộng đất... pháp luật cho
phép kêu ở quan huyộn xét xử.
Khi nghiên cứu về pháp luật giai đoạn này, các nhà khoa học đã đưa ra
nhận xét rãt đúng là: “Trong Hoàng Việt luật lệ và các đạo dụ mà triều
Nguyễn đã sử đụng để cai trị ta thấy rằng, các vụ việc mang tính chất tranh
chấp đân sự nhưng phần lớn áp đụng hình sự để giải quyết. Việc giải quyết các
tranh châp dân sự thuần túy ít khi xảy ra” [40, tr. 171].
Nhìn chung, dưới thời kì phong kiôn pháp luãt đươc các triều đại quan
tâm, đặc biệt là thời kì nhà Lê, nhà Nguyễn thể hiện việc han hành các bộ luật
lớn như Bộ Quốc triểu hình luật, Quốc triểu khám tụng điều lộ, Hoàng Việt
luật lệ... Ngoài việc ban hành các bộ luật, nhà nưỡc phong kiến còn ghi nhận
các quan hệ dân sự trong các chiếu chỉ, đạo, dụ của nhà Vua. Do trình độ phát
triển của xã hội lúc bấy giờ nên giao lưu đân sự trong nhân đân cồn ở trình độ
thấp. Vì vậy, pháp luật của nhà nước phong kiến cũng chỉ điều chỉnh ở môt số
lĩnh vực. Tuy khồng đầy đi nhưng :a Uiấy phá ) luật đân sự phong kiến diều
chỉnh các quan hệ dân sự theo hai mảng:
- v ể quan hệ sở hữu thì trong đó nhà nước phơng tdẽn chú ý đến quyên
sở hữu ruộng đất; về quan hệ vay mượn, ứiế cliâp, cầm cố, vẻ thừa kế, vể hôn
nhân gia đình...
- Quan hệ vể nhân thân: nhà nước phong kiến chỉ bảo vệ danh dự, nhân
phẩm cho Vua hoặc chống lại việc xâm hại đến nghi lễ, tồn giáo.
Căc tranh chấp đân sự được nhà nước phong kiên áp đụng chế tài pháp
luật hình sự để giải quyết. Thời kì này chưa có khái niệm tòa án, ngưòi giải
quyết thường là người đứng đầu xã, huyện, phủ như quy định trong Bô Quốc
triều hình luÉxl và Quốc triều khám tụng điểu lệ mà cụ thể nhất lă: “Đối vói
những vụ việc mà quan huyộn, quan phủ xử không xong thì các đương sự được
phép khiếu nại lên thừa ty. Ngoài ra, thừa ty còn có thẩm quyển xét xử những
vụ tranh chấp vể ranh giới, địa phận mỏng đất. Những việc kiện về mua bán
23
đo quan ty ức hiếp dân chúng thì đương sự được phép kêu lên quan hiến ty.
Sau khi vụ kiện ở cáp thừa ty, hiến ty đương sự không đồng ý có thể khiếu nai
lên Ngự sử đài, nếu vần còn oan ức thì khiẽu nại lên chính đường”[40, tr. 163].
Tuy nhiên, có tài liệu nghiên cứu cho rầng: Thòi kì Hậu Lê đặc biệt là thòi kì
vua Lê Thần Tông cho đẽn hết thời Lê (1649-1788) tổ chức tòa án ở nước ta
có nhiếu cấp khác nhau:
- Tòa đệ nhất câp (đo quan huyện trông coi);
- Tòa đệ nhị cãp (đo quan phủ chủ tọa);
- Tòa đệ tam cấp (đặt ở mổi Đạo gọi là thừa ty, có quyền xử phúc thẩm
các bản án của tõa án huyện, phủ ở trong Đạo);
- Tòa đệ tứ cấp (gọi là h'ến ty cũng đươc đặt ờ cấp đạo, có quyền xử
phúc thẩm các bản án do thừa ty xử);
- Tòa phúc thẩm ở mỗi đạo gọi là tòa giám sát, có quyền xử phúc thẩm
tất cả các bản án của tòa cấp đưới;
- Tòa án cao nhất trong nước ở kinh đô gọi là Ngự sử dài do các quan
Ngự sử xét xử. Về cuối đời Lê các vụ án đo Ngự sử đài xét xử còn cổ thể được
Ngũ phù phù xem xét lại [51, tr. 27].
Đúng là thời kì này cỗ riỉiiểu cấp xét xử như đã nêu trên nhưng việc tác
giả đùng thuật ngữ tòa án để phân chia thành tòa án các cáp như vậy, có lẽ tác
giả sử dung thuật ngữ tòa án hiện nay để lí giải việc xét xử các loại án kiện ở
thời lđ này chăng? Thật ra, trong cơ câu bộ máy nhà nước phong kiến không
tách biệt hành chính và tư pháp thì làm gì có tổ chức tòa án.
1.3.2 Thẩm quyền giải quyết các vụ việc đân sự của tòa án trong
thòi kì Pháp thuộc (1858 -1 9 4 5 ).
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chia Việt Nam ra ba kì:
B.IC kì và Trung kì là dất bảo hô, Nam kì là đất thuộc địa. Pháp luật dân sự
trong thời kì này có Bộ dân luặt giản yếu (1833). Ở Bắc kì, nãm 1917 ban