BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THANH HỔNG
TRÁCH NHIÊM
■ BỒI THƯỜNG THIẾT
■ HAI
■
TRONG CÁC VU TAI NAN
■ GIAO THỐNG DƯỜNG Bố■
■
Chuyên ngành : Luật dân sự và tô tụng dân sự
M ã số
: 5.05.07
TRUÔNG $H LUẬT MÀNỘI 1
THƯVIỆN GiÁO VIÊN
SốĐK
/j<0ố
•
•
•
LUÂN ÁN TIẾN S ĩ LUÂT HOC
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Đinh Văn Thanh
2. TS. Đặng Quang Phương
HÀ NỘI - 2001
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các sô' liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thanh Hồng
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. BLDS
: Bộ luật dân sự
2. BTTH
: Bồi thường thiệt hại
3. GTVT
: Giao thông vận tải
4. GTVTĐB
: Giao thông vận tải đường bộ
5. TNBTTH
: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
6. TNDS
: Trách nhiệm dân sự
7. TNGT
: Tai nạn giao thông
8. TNGTĐB
: Tai nạn giao thông đường bộ
M ỤC LỤC
MỞ ĐẨU
Chương 1. c ơ s ở LÝ LUẬN VỂ TRÁCH NHIỆM BỚI THƯỜNG THIỆT
HẠI TRONG CÁC v ụ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
.1
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ
.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ
.3
Nguyên nhân, điều kiện của tai nạn giao thông đường bộ
.4
Khái quát lịch sử của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ
Chương 2: c ơ SỞ PHÁP LÝ CỦA TRÁCH NHIỆM BỔI THƯỜNG
THIỆT HẠI VÀ VIỆC XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM B ổ i
THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC v ụ TAI NẠN GIAO
THÔNG ĐƯỜNG B ộ
1 Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
vụ tai nạn giao thông đường bộ
.2
Cơ sở pháp lý của việc xác định thiệl hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ
3
Chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CỦA CÁC v ụ TAI NẠN GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG THỜI GIAN QUA VÀ CÁC
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC B ổ i THƯỜNG THIỆT HẠI
1 Đặc điểm tình hình các vụ tai nạn giao thông đường bộ trong
thời gian qua
2
.
Thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộvàvấn đề
bồi thường thiệt hại trong thời gian qua
3. Dự báo tình hình tai nạn giao thông đườns bộ trong những
năm tới và các biện pháp phòng ngừa
Các biện pháp bảo đảm thực hiện việc bồithườngthiệt
trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU TIỈAM KHẢO
PHẨN PHỤ LỤC
hại
5
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao thông vận tải nói chung, GTVTĐB nói riêng đóng một vị trí
quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh
quốc phòng của mỗi quốc gia. Bên cạnh những lợi ích to lớn do GTVT
mang lại, trong quá trình sử dụng các phương tiện GTVT cơ giới đường bộ
đã có không ít vụ tai nạn xảy ra gây những thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng, sức khỏe của con người và của cải vật chất của xã hội. Mỗi năm, trên
thế giới có 700.000 người bị chết và trên 10 triệu người bị thương vì TNGT,
thiệt hại về kinh tế khoảng 500 tỷ USD (Báo cáo của ủ y ban An toàn giao
thông Quốc gia, 2000). Đó là một trong những nhân tố gây ra sự thiếu ổn
định, sự mất an toàn trong trật tự chung của xã hội. Các nước trên thế giới
đều phải đối mặt với tình trạng TNGT gia tăng. Để làm giảm đến mức thấp
nhất Ihiệt hại do hoạt động của các phương tiện giao thông đường bộ gây ra,
bên cạnh việc đầu tư nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống, nghiên cứu sản
xuất các phương tiện giao thông đường bộ hiện đại có hệ số an toàn cao,
các nước đều quan tâm đến việc xây dựng hoàn chỉnh các quy định về trật
tự an toàn giao thông, các quy định về việc xử lý các hành vi vi phạm trong
đó có các quy định về TNBTTH.
Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, GTVT chiếm một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì đó là một ngành
thuộc kết cấu hạ tầng tạo động lực phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Hệ
thống GTVTĐB ở nước ta từng bước được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, xây
dựng mới; phương tiện vận tải tăng nhanh về số lượng, đa dạng về chủng
loại, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, an ninh
quốc phòng và nhu cầu đi lại của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
hiện nay do sự mất cân đối giữa cầu, đường, phương tiện, người tham gia
6
giao thông và các yếu tố xã hội, tình trạng TNGT đã và đang diễn biến hết
sức nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe, về của cải vật
chất, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài, gây tâm lý lo lắng cho
người dân, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội và đang là mối quan tâm
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của mọi tầng lớp nhân dân. Theo
thống kê, trong thời gian từ năm 1990 đến năm 1999 ở nước ta xảy ra
146.230 vụ TNGTĐB làm chết 49.285 người, làm bị thương 156.270 người,
gây thiệt hại lớn về tài sản (Báo cáo của ủ y ban An toàn giao thông Quốc
gia, 2000). Riêng trong sáu tháng đầu năm 2000 đã xảy ra 11.560 vụ, làm
chết 3.685 người, làm bị thương 12.999 người (Báo cáo của ủ y ban An toàn
giao thông Quốc gia, 2000). Nhiều người đã phải thừa nhận rằng: "Chiến
tranh đã qua đi, máu trên chiến trường đã ngừng chảy, nhưng máu trên mặt
đường đang chảy và tiếp tục gia tăng".
Để làm giảm một cách cơ bản TNGT nói chung và TNGTĐB nói
riêng, đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược và phải
có thời gian. Môt măt, phải tăng cường tuyên truyền, giáo duc pháp luât
nâng cao ý thức tự giác chấp hành các quy định về trật tự an toàn giao thông
đường bộ, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm an toàn,
năng lực quản lý an toàn giao thông, mặt khác, phải thiết lập kỷ cương trong
việc chấp hành pháp luật, áp dụng các biện pháp cưỡng chế một cách đồng
bộ nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ
một cách phổ biến như hiện nay, đồng thời hoàn chỉnh các quy định về
TNBTTH do TNGTĐB gây ra để khắc phục kịp thời, toàn bộ thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân và tài sản của Nhà nước, góp
phần phòng ngừa tai nạn.
Thực tiễn công tác giải quyết việc BTTH ngoài hợp đồng nói chung,
BTTH trong các vụ TNGTĐB nói riêng cho thấy còn có nhiều vướng mắc,
thiếu thống nhất trong việc xác định thiệt hại, tính toán mức thiệt hại, nhất
7
là trong việc tính toán thiệt hại về mặt tinh thần; xác định mối quan hệ nhân
quả không thống nhất, chưa chính xác. Đặc biệt, trong các vụ TNGTĐB
chưa phân biệt rõ giữa việc phải chịu trách nhiệm hình sự của người có lỗi
gây ra tai nạn với TNBTTH, khắc phục hậu quả xảy ra; vấn đề xác định
trách nhiệm, giới hạn bồi thường, việc chuyển giao quyền yêu cầu giữa cơ
quan bảo hiểm với chủ xe, lái, phụ xe trong việc thực hiện bồi thường theo
hợp đồng bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới. Các vấn đề như biện pháp
bảo đảm thi hành BTTH, bồi thường trong trường hợp người thành niên gây
tai nạn mà không có tài sản riêng để bồi thường, trách nhiệm bồi thường
của người hành động trong tình thế cấp thiết... chưa được quy định cụ thể,
thế nhưng cũng chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong phần lớn
các vụ TNGTĐB các bên tự thỏa thuận với nhau về việc BTTH trong đó có
nhiều trường hợp việc thỏa thuận không tuân theo hoặc tuân theo không đầy
đủ nguyên tắc trình tự, cách tính toán thiệt hại, mức BTTH nên sau đó xảy
ra nhiều khiếu kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết.
Hiện nay, mặc dù đã có quy định của BLDS, nhưng thực tiễn giải
quyết việc BTTH của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn thực hiện
theo tinh thần hướng dẫn của Thông tư số 173/UBTP ngày 23-3-1973 "Về
việc xét xử các tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng" và Thông tư số 03/TATC
ngày 5-4-1988 "Hướng dẫn BTTH trong các vụ tai nạn ôtô" của Tòa án
nhân dân tối cao. Đây là những văn bản được ban hành trong thời kỳ nền
kinh tế tập trung, bao cấp, chỉ mang tính định hướng, không cụ thể và
không còn đáp ứng được đòi hỏi của điều kiện hiện nay, khi những quan hệ
xã hội trong đó có các quan hệ dân sự bị chi phối bởi quan hệ kinh tế thị
trường. Cho đến nay đã hơn 4 năm, kể từ ngày BLDS có hiệu lực pháp luật,
nhưng vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền hướng dẫn các quy định của BLDS về vấn đề BTTH do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bồi thường do tính mạng, sức khỏe, nhân
8
phẩm, danh dự và tài sản bị xâm phạm... Thực tiễn công tác của các cơ quan
bảo vệ pháp luật cho thấy cần sớm phải có các văn bản quv phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành về những vấn đề này. Tất cả các vấn đề trên đây cho
thấy việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
vụ tai nạn giao thông đường bộ" là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định BTTH ngoài hợp đồng đã
được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu
ở các cấp độ khác nhau.
ở Việt Nam, đến nay đã có luận án Thạc sĩ luật học của Phạm Kim
Anh về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"’, Luận án
Thạc sĩ luật học của Lê Mai Anh về đề tài "Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự"; Luận án
Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hiền về đề tài "Những nguyên tắc bồi
thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam") Luận án Thạc sĩ luật học của
Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo Bộ luật dân sự Việt Nam ", một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, Thạc
sĩ Nguyễn Đức Mai về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật cũng như các giáo trình
Luật dân sự đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này
mới dừng lại ở mức độ chung nhất hoặc chỉ đề cập ở phạm vi hẹp trong nội
dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, mà chưa có tác giả nào nghiên
cứu đầy đủ có hệ thống TNBTTH ngoài hợp đồng để trên cơ sở đó nghiên
cứu một trường hợp cụ thể của loại trách nhiệm này - trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, một đề tài đang
cần được làm rõ về mặt lý luận và rất cấp bách về mặt thực tiễn.
9
ớ nước ngoài có các cồng trình của một số tác giả về các vấn đề
liên quan đến đề tài này; ví dụ như tác giả: V.T.Mimop, M.M. Agarkop,
v.p Pobdopylo
- Liên Xô (cũ), Palemana - Cộng hòa Pháp, Vicodavarkallo -
Ba Lan. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu việc BTTH ngoài hợp
đồng nói chung hay BTTH do ôtô, xe máy gây ra nói riêng ở các nước đó.
3.Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. Từ
đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, cũng như
đưa ra được những kiến nghị nhằm góp phần vào thực tiễn giải quyết việc
BTTH trong các vụ TNGTĐB.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, tác giả của luận án đã
đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Phân tích làm rõ khái niệm, nguyên nhân, điều kiện và đặc điểm
tình hình của các vụ TNGTĐB ở Việt Nam.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định BTTH ngoài
hợp đồng nói chung và TNBTTH trong các vụ TNGTĐB trong lịch sử lập
pháp Việt Nam; làm rõ những nội dung cụ thể của chế định này, đồng thời
so sánh với quy định của pháp luật một số nước về vấn đề này.
- Nghiên cứu, tìm hiểu những quan điểm khoa học xung quanh vấn
đề TNBTTH ngoài hợp đồng để xây dựng lý luận về khái niệm TNBTTH
ngoài hợp đồng, từ đó đi sâu nghiên cứu và làm rõ khái niệm TNBTTH
trong các vụ TNGTĐB.
- Tổng kết thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB trong
những năm qua gắn với lý luận, căn cứ vào các quy định của BLDS và các
10
quy định khác của pháp luật, đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và
thực tiễn về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho
việc giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB.
-
Đề xuất các biện pháp phòng ngừa các vụ TNGTĐB cũng như các
biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ TNGTĐB.
Phạm vi nghiên cứu:
TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một vấn đề phức tạp không
những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Vì vậy luận án chỉ giới hạn ở
phạm vi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản dưới góc độ điều tra xã hội học và
Luật dân sự, như: làm rõ khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, nguyên
nhân điều kiện và tình hình của TNGTĐB, các nguyên tắc cơ bản và cơ sở
pháp lý của việc BTTH trong các vụ TNGTĐB; trên cơ sở đó đưa ra một số
biện pháp cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn dưới góc độ của Luật dân sự.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận chung về
TNBTTH ngoài hợp đồng nói chung và TNBTTH trong các vụ TNGTĐB
nói riêng; căn cứ pháp lý của TNBTTH và thực tiễn giải quyết BTTH trong
các vụ TNGTĐB.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước và Pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; những thành tựu của các khoa
học: triết học, lôgíc học, luật dân sự, tâm lý học... Luận án được trình bày
trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật dân sự, các văn bản hướng dẫn
áp dụng pháp luật dân sự, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các
cấp, các tài liệu của Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt thuộc Bộ
Công an, các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước.
11
Phương pháp nghiên cứu: Đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát
đến cụ thể dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp
hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp lôgic pháp lý, phương pháp
phân tích, phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội
học và phương pháp dự báo.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Là luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam khái quát một cách có hệ
thống cơ sở lý luận về TNBTTH ngoài hợp đồng từ đó nghiên cứu một loại
trách nhiệm cụ thể "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ". Luận án đóng góp vào lý luận trách nhiệm bồi
thường thiệt hai ngoài họp đồng các khái niệm TNGTĐB theo nghĩa rộng
và theo nghĩa hẹp; khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. trong hoàn
cảnh vấn đề an toàn trong hoạt động GTVT nói chung, an toàn GTVTĐB nói
riêng không còn là vấn đề của một quốc gia. ở nước ta do sự mất cân đối
giữa kết cấu hạ tầng, sự gia tăng của phương tiện, ý thức chấp hành các quy
định về trật tự an toàn giao thông; thiếu các quy định của pháp luật về bảo đảm
trật tự an toàn giao thông; sự yếu kém trong quản lý của các cơ quan nhà nước
nên tình hình TNGT đặc biệt là TNGTĐB diễn biến phức tạp và có chiều
hướng gia tăng gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe của con người, gây
thiệt hại lớn về tài sản, gây mất an toàn xã hội; do đó, luận án góp phần tìm
ra những nguyên nhân, điều kiện của các vụ TNGTĐB, dự báo tình hình
TNGTĐB trong những năm tới. Đồng thời, luận án góp phần giải quyết một
cách có hệ thống những vướng mắc xung quanh chế định BTTH ngoài hợp
đồng nói chung, BTTH trong các vụ TNGT nói riêng.
- Trên cơ sở lý luận chung về TNBTTH ngoài hợp đồng, luận án đã
làm rõ về mặt lý luận cơ sở pháp lý của TNBTTH cũng như việc xác định
TNBTTH trong các vụ tại nạn giao thông đường bộ.
12
- Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn gắn với việc nghiên cứu hoàn
chỉnh về mặt lý luận, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, của
BLDS hiện hành, luận án đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ
TNGTĐB nói riêng. Xác định được mối quan hệ giữa việc BTTH với việc
phòng ngừa và đấu tranh làm giảm tai nạn, mối quan hệ giữa TNBTTH với
các trách nhiệm pháp lý khác là một trong những cơ sở cho việc hoàn thiện
hệ thống các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
đường bộ. Những kiến nghị, giải pháp này có thể tham khảo trong việc xây
dựng luật giao thông đường bộ, xây dựng các văn bản hướng dẫn việc giải
quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGTĐB
nói riêng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
- Một đóng góp mới khác của luận án đó là từ việc tổng kết thực
tiễn vấn đề BTTH trong các vụ TNGTĐB, trong luận án đã có những kiến
nghị về các biện pháp bảo đảm việc BTTH trong các vụ án TNGTĐB.
6. Ý nghĩa của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có ý nghĩa tham khảo trong
việc hoàn thiện pháp luật về chế định BTTH ngoài hợp đồng cũng như trong
việc hướng dẫn việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH
trong các vụ TNGTĐB nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài
liệu tham khảo trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về việc giữ
gìn trật tự an toàn giao thông, phòng ngừa, đấu tranh làm giảm tai nạn và
làm tài liệu tham khảo trong việc biên soạn giáo trình cũng như giảng dạy
tại các cơ sở đào tạo bậc đại học về chuyền ngành luật dân sự và làm tài liệu
tham khảo cho các Viện nghiên cứu về khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm có 3 chương, được chia thành 11 mục.
13
Chương 1
C ơ SỞ LÝ LUẬN VỂ TRÁCH NHIỆM B ổ i THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM BỚI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ
Thuật ngữ "tai nạn" xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống
của con người. Tùy từng trường hợp tai nạn xảy ra mà có các tên gọi cho
mỗi một loại tai nạn đó. Ví dụ: nếu tai nạn xảy ra trong lao động, thì gọi là
tai nạn lao động; nếu tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, thì
gọi là TNGT; nếu tai nạn xảy ra tại trường học, thì gọi là tai nạn học
đường... Tuy nhiên, có thể nhận thấy tai nạn xảy ra phổ biến nhất là trong
các lĩnh vực hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Tai nạn là một hiện
tượng xã hội gây tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Tai nạn là một
trong những nguyên nhân làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội, đã và đang
ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt xã hội mà con người luôn phải tìm cách
chế ngự, làm giảm và loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tai nạn hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là
"việc không may bất ngờ xảy ra, gây thiệt hại lớn về người và của" [33, tr. 142].
Còn theo Từ điển Tiếng Việt, thì tai nạn là "việc rủi ro bất ngờ xảy ra, gây
thiệt hại lớn cho con người" [78, tr. 868].
Theo chúng tôi, các định nghĩa trên chỉ mới đưa ra tai nạn là cái (sự
kiện) xảy ra gây thiệt hại cho con người (về tính mạng, sức khỏe, tài sản) mà
chưa làm rõ được nguyên nhân của tai nạn. Thực tiễn cuộc sống chứng minh
rằng tai nạn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những nguyên nhân này có
thể là do hành vi của con người hoặc có thể do các tác nhân tự nhiên khác. Từ
14
những nguyên nhân này gây ra các tai nạn và tai nạn gây ra những hậu quả
xấu ngoài mong muốn chủ quan của con người. Các tác nhân khác là
nguyên nhân của tai nạn cũng có thể một cách gián tiếp do hành vi của con
người, cũng có thể do thiên tai hoặc những cái ngoài khả năng chế ngự của
con người. Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức
khỏe, thiệt hại về tinh thần của con người hay là thiệt hại về tài sản.
Trong lĩnh vực pháp luật, chưa có một định nghĩa chính thức về tai
nạn nói chung. Tuy nhiên, trong một số quy phạm pháp luật của một số
ngành luật và trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có một số
khái niệm về tai nạn trong từng lĩnh vực cụ thể.
Điều 105 Bộ luật lao động quy định: "Tai nạn lao động là tai nạn
gây thương tổn cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao
động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc
thực hiện công việc và nhiệm vụ lao động".
Trong nghiên cứu khoa học thì khái niệm "tai nạn", khái niệm "tai
nạn giao thông đường bộ" đã được một số tác giả đề cập đến.
Theo tác giả Vũ mạnh Thắng, "Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do
người tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao
thông hoặc gặp phải tình huống, sự cố đột xuất, không kịp xử lỷ, có thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe con người, thiệt hại về tài sản" [18, tr. 76].
Theo tác giả Đào Công Hải, thì "Tai nạn giao thông là tai nạn xảy ra
khi các đối tượng tham gia trên đường giao thông công cộng gây nên: Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người - Thiệt hại về tài sản hoặc thiệt
hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản" [16, tr. 82].
Còn theo Thạc sĩ Đỗ Đình Hòa, thì "Tai nạn giao thông là sự kiện
bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra khi các đối
tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công
15
cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng nhưng
do chủ quan, vi phạm các quy tắc về an toàn giao thông hoặc do gặp phải các
sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, đã gây thiệt hại nhất định cho tính
mạng, sức khỏe con người hoặc tài sản của Nhà nước và nhân dân" [16, tr. 20].
Theo chúng tôi ba khái niệm trên, đều nêu được TNGT là một sự
kiện gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Riêng khái niệm thứ
hai chưa nêu lên được vế íhứ nhất của TNGT như khái niệm thứ nhất và
khái niệm thứ ba. TNGT là một sự kiện và có hai mặt của nó. Mặt thứ nhất
là cái gì làm cho TNGT (sự kiện) xảy ra hay nói cách khác nguyên nhân
của TNGT. v ề mặt này nguyên nhân của TNGT có thể: do vi phạm các quy
định về an toàn GTVT; do những hành vi cản trở GTVT; do đưa vào sử
dụng các phương tiện GTVT không bảo đảm an toàn hoặc điều động người
không đủ điều kiện điều khiển phương tiện GTVT; do gặp sự cố đột xuất
không thể xử lý được hoặc do các trường hợp bất khả kháng. Mặt thứ hai là
TNGT (sự kiện) đã gây ra cái gì hay nói cách khác hậu quả của sự kiện đó.
Về măt này hậu quả của TNGT có thể là: thiệt hai về tính mang, thiêt hai về
sức khỏe, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài sản (có thể một hoặc hai
hoặc ba, có thể là tất cả các loại thiệt hại này trong một TNGT).
Theo quy định tại Điều 609 BLDS, thì TNBTTH chỉ phát sinh trong
trường hợp người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ
thể khác mà gây thiệt hại. Tuy nhiên, cần phân biệt là không phải mọi trường
hợp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của pháp
nhân hoặc các chủ thể khác trong khi tham gia giao thông đều gọi là TNGT.
Chỉ gọi là TNGT nếu hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông
đường bộ là do lỗi cố ý, nhưng thiệt hại do hành vi vi phạm này gây ra trong
quá trình tham gia giao thông là do lỗi vô ý. Trong trường hợp thiệt hại do
16
hành vi vi phạm này gây ra trong quá trình tham gia giao thông là do lỗi cố
ý, thì không thể gọi là TNGT mà tùy lừng trường hợp có tên gọi tưưng ứng.
Ví dụ 1: A có mâu thuẫn với B. Biết B đang trên đường đi từ nơi làm
việc về nhà, A đã dùng xe ôtô phóng nhanh cố ý đâm vào B với mục đích
giết B. Hậu quả là B bị chết. Trong trường hợp này không thể gọi là TNGT
mà đây là một vụ án giết người.
Ví dụ 2: c biết D vừa mua một chiếc xe máy Dream II. Do c ghét D
vì hay khoe khoang, nên đã có ý định phá hỏng chiếc xe máy Dream II của D.
Biết D đi làm thường hay dựng xe máy bên vệ đường giao thông, c đã lấy
xe ôtô leo lên vệ đường đâm vào chiếc xe máy Dream II của D làm cho
chiếc xe máy đó hư hỏng nặng. Trong trường hợp này cũng không thể gọi là
TNGT mà đây là một vụ án cố ý làm hủy hoại tài sản.
Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm TNGTĐB theo
nghĩa rộng như sau:
TNGTĐB là một sự kiện do hành vi của con người vi phạm các quy
định về an toàn giao thông đường bộ, do sự cô đột xuất hoặc do cấc trường
hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thông của con
người gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người
hoặc thiệt hại về tài sản.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu của
luận án là làm rõ chế định TNBTTH trong các vụ TNGTĐB; vì vậy, nếu khái
niệm TNGTĐB theo nghĩa rộng như chúng tôi đã đưa ra trên đây thì không
phải trong mọi trường hợp (trong mọi vụ TNGTĐB) đều phát sinh TNBTTH.
Theo quy định tại Điều 627 BLDS, thì phương tiện GTVT cơ giới là
nguồn nguy hiểm cao độ và chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không phải BTTH, nếu thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra trong trường
hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy
17
định khác. Như vậy, trong các trường hợp này nếu có TNGTĐB xảy ra gây
thiệt hại thì cũng không làm phát sinh TNBTTH.
Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm TNGTĐB theo
nghĩa hẹp của nó (khái niệm TNGTĐB trong đó có phát sinh TNBTTH xảy
ra) như sau:
TNGTĐB làm phát sinh TNETTH là một sự kiện do hành vi của con
người vi phạm một cách cố ý hoặc vô ý các quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây ra trong quá trình tham gia giao thông của con người, gây
thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, vê' tinh thần của con người hoặc gây
thiệt hại về tài sản.
Trong luận án này, TNGTĐB được hiểu theo khái niệm với nghĩa
hẹp này.
1.1.2.
Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
1.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: "Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật. Vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ"
(Điều 22); "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành... Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân" (Điều 58); "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, danh dự và nhân phẩm" (Điều 71).
Các quyền nêu trên đồng thời là khách thể bảo vệ của nhiều ngành
luật khác nhau. Mọi hành vi trái pháp luật, đều bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Nhà nước quy định những hình thức trách nhiệm pháp lý buộc
những người có hành vi vi phạm pháp luật khấc phục hạu quả do hành vi
trái pháp luât của họ gây ra và phải BTTH (nếu có).
trườ n g
» h ỉ-UĂT
hà noi
THƯVIẼN GỉẪo VltỉỊ
>
S Ố -Đ K
yị g 6
1
18
Nhiệm vụ của Luật dân sự là bảo vệ các quyền và lợi ích nói trên
dưới góc độ đặc thù của ngành luật này. Điều 1 BLDS Việt Nam quy định:
"Bộ luật dân sự có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
vật chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội".
Nhà nước sử cỉụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm hại bởi những hành vi
trái pháp luật. Luật dân sự các nước phân chia TNDS đều dựa vào mối quan
hệ với hợp đồng - một hình thức phổ biến, đặc trưng và chủ yếu của giao
dịch dân sự. Trách nhiệm phải BTTH do các hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại đến lính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền khác của công dân, tài sản, uy
tín, danh dự của các tổ chức (thường được coi là quyền tuyệt đối của các chủ
thể) không phát sinh từ một hợp đồng được gọi là TNBTTH ngoài hợp đồng.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người
khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự về BTTH. Điều 609 BLDS
Việt Nam quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân
hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Như vậy, theo
quy định trên, người có hành vi gây thiệt hại phải có TNBTTH.
Trong giáo trình luật dân sự của các trường đại học luật, cũng như
các sách báo pháp lý khác khi đề cập đến vấn đề TNBTTH ngoài hợp đồng
chưa đưa ra khái niệm chính thức về TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo giáo
trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, một trong những căn cứ
làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật đồng thời cũng là căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng được quy
19
định trong Chương V, Phần thứ ba BLDS. Như vậy, theo quan điểm này thì
sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh nghĩa vụ dân
sự, có nghĩa là phát sinh "việc mà theo quy định của pháp luật, thì một hoặc
nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc
không được làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác
(gọi là người có quyền)" (Điều 285 BLDS). Đồng thời cũng theo quan điểm
này, thì sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật làm phát sinh
TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo chúng tôi, nếu cho rằng "Gây thiệt hại do
hành vi trái pháp luật" là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, đồng thời
cũng là căn cứ làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng, thì vô hình chung
đã cho rằng nghĩa vụ dân sự và TNBTTH là hai phạm trù độc lập với nhau
không có mối quan hệ với nhau, v ề vấn đề này hiện nay còn có các ý kiến
khác nhau. Chúng tôi cho rằng, dù muốn hay không thì khi nghiên cứu
khoa học về một vấn đề trước hết phải nghiên cứu các chế định của pháp
luật về vấn đề đó cũng như thực tiễn áp dụng các chế định đó như thế nào,
đổ từ đó có những kết luận của mình về vấn đề đó.
Theo quy định của BLDS thì "gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật" là một trong các căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 13) và
cũng là một trong các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự (Điều 286). Khi đã
phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì "người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện
nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết,
không trái pháp luật, đạo đức xã hội" (Điều 288). Nếu "người có nghĩa vụ mà
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu TNDS đối
với người có quyền" (khoản 1 Điều 308). Theo tinh thần quy định tại Mục 3
Chương I Phần thứ ba của BLDS, thì TNDS bao gồm: TNBTTH; trách nhiệm
do không thực hiện nghĩa vụ giao vật; trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc; trách nhiệm
20
do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự; trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng, nghĩa vụ dân sự
và TNBTTH là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng với
nhau theo cặp phạm trù: "Nguyên nhân - kết quả". Cũng là một trong các căn
cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự, nhưng các căn cứ, như: hợp đồng dân sự; hành vi
dân sự đơn phương; chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền, thì sự phân biệt giữa
nghĩa vụ dân sự và TNDS, trong đó có trách nhiệm bồi thường là rõ ràng. Giữa
chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có "khoảng cách", vi phạm
nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu TNDS. Đối với căn cứ "gây thiệt hại do hành vi
trái pháp luật", thì khi làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì đồng thời làm phát
sinh trách nhiệm dân sự (TNBTTH). Nếu xét về mặt lý luận cũng như căn cứ
vào các quy định tại các điều 13, 286, 308 và 310 BLDS thì chúng ta phải
phân tích như trên. Tuy nhiên, việc phân biệt này chỉ là tương đối mà thôi.
Thực tiễn chứng minh rằng gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật, thì có
trách nhiệm phải bồi thường. Dường như Chươrig V Phần thứ ba của BLDS
cũng quy định theo hướng này. Có thể thấy rằng về phương diện lý luận, có
sự mâu thuẫn giữa các quy định trong Chương 1 và Chương V Phần thứ ba của
BLDS. Tuy nhiên, sự phân tích, kết luận trên chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận.
Hiểu chung nhất về khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng chúng ta cần
xuất phát từ các quy định của BLDS cũng như thực tiễn cuộc sống. Với mong
muốn đó, chúng tôi đưa ra khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng như sau:
TNBTTH ngoài hợp đồng là một loại TNDS bao gồm TNBTTH về
vật chất và TNBTTH về tinh thần được phát sinh khi người nào do lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại.
21
1.1.2.2.
Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
Kết quả nghiên cứu cho thấy về các căn cứ làm phát sinh TNBTTH
ngoài hợp đồng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo pháp luật dân sự của
nước Cộng hòa Pháp, để xem xét TNBTTH của một người có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại thì phải căn cứ vào ba điều kiện: có thiệt hại; xuất
hiện một sự kiện; mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện. Người
gây thiệt hại phải BTTH, nếu có đầy đủ cả ba điều kiện này.
Theo Luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì để
làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng phải có đủ bốn điều kiện: phải có
hành vi vi phạm pháp luật; phải có lỗi của người có hành vi vi phạm pháp
luật; phải có thiệt hại xảy ra, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Bộ Dân ]uât Bắc Kỳ năm 1931 quy định về sự tổn hại trái vụ hay là
những "dân sự phạm" cùng "bán dân sự phạm" (theo tác giả thực chất là
TNBTTH ngoài hợp đồng) chỉ quy định "Người nào gây ra thiệt hại đến ai
bởi lỗi của mình thì người đó buộc phải đền sự thiệt hại ấy" (Điều 712 Dân luật Bắc Kỳ- 1931). Theo quan điểm này chỉ cần xác định ba điều
kiện: thiệt hại, lỗi và quan hệ nhân quả. ở đây, hành vi chỉ quy định là gây
thiệt hại, không quy định bắt buộc là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi
trái pháp luật.
Trong sách "Dân luật tu trị" - xuất bản tại Sài Gòn 1961 - tác giả
Phan Văn Thiết đã đưa ra năm điều kiện phát sinh trách nhiệm về sự làm
thiệt hại cho người khác (Dân luật tu trị dựa trên nền tảng của dân luật Nam
Kỳ 1931). Năm điều kiện đó là: lỗi, sự thiệt hại, sự liên quan giữa thiệt hại
và lỗi, sự bắt chịu trách nhiệm, xác định lỗi của người bị thiệt hại. Ba điều
kiện đầu cũng giống như luật của chúng ta hiện nay, tuy nhiên ở mức độ
hiểu sơ sài hơn. Điều kiện thứ tư nói rằng nếu tự do làm mới phải chịu trách
22
nhiệm, còn nếu là ngẫu nhiên hay bất khả kháng thì không phát sinh trách
nhiệm. Điều kiện thứ năm nói rằng chỉ có trách nhiệm bồi thường nếu
người bị thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi nhẹ.
Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 chỉ xác định có ba điều kiện: sự tồn tại,
lỗi, tương quan nhân quả.
Lại có quan điểm cho rằng đã gây thiệt hại thì phải bồi thường. Yếu
tố hành vi trái pháp luật không được đề cập đến.
Theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì căn cứ làm phát sinh
TNDS nói chung cũng như TNBTTH ngoài hợp đồng nói riêng bao gồm
BTTH ngoài hợp đồng và sẽ được phân tích sâu trong Chương II của luận
án. Bốn điều kiện (bốn yếu tố): có hành vi trái pháp luật; có thiệt hại xảy ra;
có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra. Bốn điều kiện (bốn yếu tố) này chính là cơ sở pháp lý
của trách nhiệm.
Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ, đó là trong những trường hợp
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì người chủ sở hữu phương
tiện hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường dù rằng họ không có lỗi, trừ các trường hợp do pháp
luật quy định (Điều 627 BLDS).
Phân tích "khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng"
trong giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì TNBTTH
ngoài hợp đồng trong Chương V Phần thứ ba BLDS phát sinh chủ yếu do
hành vi vi phạm đến các quyền tuyệt đối của các chủ thể khác, có nghĩa là
TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại.
Xác định căn cứ phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng như vậy theo
chúng tôi là chưa đú/Theo quy định tại Điều 13 BLDS thì căn cứ xác lập
quyền và nghĩa vụ dân sự bao gồm: Giao dịch dân sự hợp pháp; quyết định
23
của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác; sự kiện pháp lý theo
quy định của pháp luật; sáng tạo giá trị tinh thần là đối tượng thuộc quyền
sở hữu trí tuệ; chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành
vi trái pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử
dụng tài sản, được lợi tài sản không có căn cứ pháp luật; các căn cứ khác do
pháp luật quy định. Theo chúng tôi, trong các căn cứ neu trên, ngoài căn cứ
"Giao dịch dân sự hợp pháp", thì tất cả các căn cứ khác có thể sẽ làm phát
sinh nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng và nếu vi phạm sẽ làm phát sinh
TNBTTH ngoài hợp đồng.
Ngoài các quy định về TNBTTH ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm
các quy định của pháp luật gây thiệt hại tại chương V Phần thứ ba BLDS,
còn có các quy định về nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh không từ
các hành vi vi phạm pháp luật bao gồm các trường hợp:
- Người phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở
hữu được trở thành chủ sở hữu nếu là động sản, được hưởng khoản tiền
thưởng nếu là bất động sản (Điều 274);
- Người tìm thấy vật bị chôn dấu, bị chìm đắm được hưởng khoản
tiền thưởng nếu vật tìm thấy là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa; được hưởng
50% giá trị của vật, nếu vật tìm thấy không phải là cổ vật, di tích lịch sử,
văn hóa (Điều 248).
- Người nhặt được vật bị đánh rơi, bỏ quên được trở thành chủ sở
hữu nếu vật đó có giá trị nhỏ; được hưởng 50% giá trị của vật nếu vật có giá
trị lớn; được hưởng một khoản tiền thưởng nếu vật bị đánh rơi, bỏ quên là
cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa (Điều 249).
- Người bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc được thanh toán tiền
công nuôi, giữ và các chi phí khác, được hưởng một nửa số gia súc sinh ra
hoặc toàn bộ hoa lơi do gia cầm sinh ra và phải BTTH nếu cố ý làm chết gia
súc gia cầm (Điều 250 và Điều 251).
24
- Tài sản bị xử lý để Ihực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu (Điều 259);
- Tài sản bị trưng mua, bị tịch thu (Điều 261 và Điều 262).
Trong tất cả các trường hợp nêu trên giữa các chủ thể không tồn tại
nghĩa vụ trước khi xảy ra sự kiện; do vậy, có thể xem đây chính là nghĩa vụ
dân sự ngoài hợp đồng. Khi có sự vi phạm các nghĩa vụ nàv sẽ phát sinh
TNDS ngoài hợp đồng, trong đó có TNBTTH ngoài hợp đồng.
1.1.2.3.
Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Trong các hình thức của TNDS, thì có thể kết luận rằng TNBTTH (bao
gồm TNBTTH ngoài hợp đồng và TNBTTH trong hợp đồng) là hình thức
chủ yếu nhất. Tuy cùng là TNBTTH, nhưng giữa TNBTTH ngoài hợp đồng
và TNBTTH trong họp đồng có sự khác nhau cơ bản về bản chất cũng như
nội dung. Việc phân biệt hai dạng của TNBTTH cũng như việc xác định
mối quan hệ giữa chúng là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Đối với TNBTTH trong hợp đồng, thì khi hợp đồng được giao kết,
các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết thỏa thuận trong hợp
đồng. Việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ là sự vi phạm hợp đồng. Sự vi phạm này dẫn đến không đáp ứng yêu cầu
của bên kia, gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại phi vật chất. Trách nhiệm
bồi thường do vi phạm hợp đồng là TNDS phát sinh trong trường hợp một
bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều
khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia và
phải bồi thường. Các bến có thỏa thuận trước trong hợp đồng về các biện
pháp cưỡng chế, mức bồi thường, mức phạt hoặc các biện pháp bảo đảm
thực hiện việc BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra, có nghĩa là TNBTTH này
cũng đã được thỏa thuận trong hợp đồng.
Đối với TNBTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi trái
pháp luật và gây thiệt hại, có nghĩa là phát sinh dưới sự tác động trực tiếp