p-Ị-ịk ?
- •.
;-XÍíd
- i i l - l ĩ -■
.
■
Á y
V
*
i,.
.
ị f .if iỊf
- V ' V •í r - : *
■»
ĨỊ, ỵ ^ ; K . * Ạ '--f 'ĩ'- &
• '.ì* ^
-
- ’> à "
T R í ứ f :ĩfe!:SI;©5aÌ-í i ặ ĩ W / :ỉ Mi-?
2"
.
8t
■
í
- ị- : •
■■
>v
:.
•■*■ i —r~ -
•
, ^ r'íí
-
‘ r. ; • .
■ ' S:;-
.Ị"?-'’ ;'ĨV,
y § ;l
'
:;
• • . .
•
..ị .‘‘ị r
lí 7. - •• .•
• --
-
■-■■• -•
•■
-, • >
~'
'1; ị
• :
-
BỘ GIÁC)
BỘ T ư PHÁP
DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN ĐỨC BÌNH
DẤU TRANH PHÒNG, CHÔNG TỘỊ BUÔN LẬU
HOẶC VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA,
TIẾN TỆ QUA BIÊN Giới
9
m
■
Chuyên ngành : Luật hình sự, luật tô tụng hình sự
và tội pham học
M ã số
: 5.05.14
nà tiợi
I THƯ VIỆN GIÁC
vĨÉH
Lĩigl Aqĩ I
LUÂN ÁN TIẾN S ĩ LUÂT HOC
Ngưòi hướng dẫn khoa học: 1. TS. uỏng Chu Lưu
2. TS. Trần Đình Nhã
HÀ NỘI - 2000
LỜI CAM ĐOAN
T ôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các sô liệu, kết
quả nêu trong luận ủn là trung thực và chưa
từng được ai công b ố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NHỮNG T ừ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. ANQG
: An ninh quốc gia
2. BLHS
: Bộ luật hình sự
3. CHND
: Cộng hòa nhân dân
4. Nxb
: Nhà xuất bản
5. XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
M ở đầu
1
Chương 1: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐlỂU KIỆN CỦA
6
TỘI BUÔN LẬU HOẶC VẬN CHƯYEN t r á i p h é p
HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI
1. 1.
Thực trạng tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
6
hóa, tiền tệ qua biên giới
1.2.
Nguyên nhân, điều kiện của tội buôn lậu hoặc vận chuyển
28
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
1.3.
Dự báo tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép
44
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong những năm tới
Chương 2: TỘI BUÔN LẬU HOẶC VẬN CHUYÊN
trái
59
PHÉP HÀNG HÓA, TIỂN TỆ QUA BIÊN GIỚI
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM
2 . 1.
Khái quát lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt
59
Nam về tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới trước khi có Bộ luật hình sự
2 .2 .
Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
63
tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới
2 . 2.1
Khái niệm tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
63
hóa, tiền tệ qua biên giới
9 9 9
Các dấu hiếu pháp lý hình sự đặc trưng của tội buôn lậu
72
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
trong Bộ luật hình sự hiện hành
2.3.
Đường lối xử lý hình sự tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
90
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
107
TỘI BUÔN LẬU HOẶC VẬN CHUYỂN t r á i p h é p
HÀNG HÓA, TIỂN TỆ QUA BIÊN GIÓI
Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về
107
phòng, chông tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
Tăng cường cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh phòng,
111
chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ qua biên giới
Các biện pháp về xây dựng và thi hành pháp luật
111
Tăng cường hoạt động của các cơ quan quản lý và các cơ
125
quan bảo vệ pháp luật
Một số biện pháp khác trong đấu tranh phòng, chống tội
148
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới
Các biện pháp về tổ chức, cán bộ
148
Các biện pháp về kinh tế - xã hội
152
Các biện pháp về cơ chế quản lý.
154
Tăng cường họp tác quốc tế
157
Kết luận
163
Danh mục tài liệu tham khảo
168
Phụ lục
173
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội VI của Đảng, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế
thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới.
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã và đang
đem lại sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội đã có nhiều khởi sắc với những biến đổi quan trọng.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt
tích cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực,
trong đó có tình hình buôn lậu. Buôn lậu được xác định là một trong các
loại tội phạm nguy hiểm, không chỉ làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước,
mà còn thực sự đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế, xã hội, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước,
gây ra những hậu quả nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thậm chí buôn lậu còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo
nước ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo,
phá hoại công cuộc đổi mới của đất nưóc.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết,
chỉ thị quan trọng về công tác đấu tranh chống buôn lậu. Các cấp, các ngành
đểu tích cực tham gia đấu tranh, bài trừ tệ nạn buôn lậu. Đấu tranh chống
buôn lậu đã trở thành vấn đề mang tính thời sự. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4,
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan chức năng, phát huy vai trò của nhân dân để tiến
hành có hiệu quả những biện pháp chống buôn lậu trên các tuyến biên giới,
vùng biển, và thị trường nội địa. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi
buôn lậu, gian lận thương mại và tiếp tay, bao che cho bọn buôn lậu". Trong
kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, nhiều đại biểu Quốc hội cũng đã khẳng
1
định, buôn lậu ở nước ta phải được coi là "quốc nạn" là kẻ thù "nội xâm", là
một trong những nguy cơ, thách thức cản trở quá trình đổi mới của đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu
hoặc vận chuyến trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở Việt Nam hiện
nay mang tính cấp thiết không những về lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội buôn
lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới hiện nay và
sắp tới ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, một số tác giả đã có các công trình, bài viết
nghiên cứu về buôn lậu như: TS Lê Thanh Bình có cuốn sách Chống buôn
lậu và gian lận thương mại (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); Đề tài
KX 04-14: Tội phạm ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của
Tổng cục Cảnh sát nhân dân, Bộ Nội vụ cũng đã đề cập đến tội buôn lậu
(Nxb Công an nhân dân, 1994); Tổng cục Hải quan cho in cuốn sách Chống
buôn lậu qua biên giới (Tổng cục Hải quan, Hà Nội, 1996); một số bài viết
của các tác giả về đề tài chống buôn lậu cũng được đăng trên báo Pháp luật,
Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Viện Kiểm sát nhân dân...
Tuy nhiên, các tác giả nói trên chỉ đề cập đến một số khía cạnh của
công tác đấu tranh chống buôn lậu, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống, toàn diện, đánh giá hết tình hình, nguyên nhân và điều kiện
của tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
cũng như các giải pháp phòng ngừa và ngăn chặn loại tội phạm này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
luận án
* Mục đích
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống
thực trạng buôn lậu, thực tiễn đấu tranh phòng chống tội buôn lậu hoặc vận
2
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và để đề ra các giải pháp
hữu hiệu cho cuộc đấu tranh, hạn chế và từng bước đẩy lùi tệ nạn buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án đã đưa ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ thực trạng và nguyên nhân của tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong luật hình sự Việt
Nam; thực tiễn áp dụng Điều 97 của BLHS trong đấu tranh phòng chống tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
- Đề xuất các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giói ở Việt Nam hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới, các giải pháp đấu tranh phòng chống tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận án được làm sáng tỏ ở hai khía cạnh: Khía cạnh tội phạm học
và pháp lý hình sự. Đó chính là giới hạn nghiên cứu của luận án; về thời
gian, luận án lấy mốc thời gian từ năm 1990 cho đến nay.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật,
về phát triển nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN ở nước ta; những thành tựu của các khoa học: triết học, tội
3
phạm học, luật hình sự... Luận án được trình bày dựa trên cơ sở nghiên cứu
các Chi thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước, các
văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về chống buôn lậu, các tổng kết công
tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu; các văn bản, quyết định hình sự về tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ
thông, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, dự báo để chọn lọc tri thức
khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn ở trong và ngoài nước.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề đấu tranh phòng,
chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới. Trên cơ sở đó, tác giả luận án đã kiến nghị các giải pháp hữu hiệu cho
cuộc đấu tranh này. Trong luận án này, lần đầu tiên:
1. Đánh giá cụ thể thực trạng và diễn biến tình hình tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở Việt Nam từ
1990 đến nay; phân tích một cách có hệ thống những nguyên nhân, điều
kiện và dự báo tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới trong thời gian tới ở Việt Nam.
2. Trình bày lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, có đối
chiếu, so sánh tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới với tội buôn lậu trong luật hình sự ở một số nước trên thế giới. Từ đó
đề xuất vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp hình sự của các nước này.
3. Đề ra được một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm phòng
ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ỏ' Việt Nam.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những kết luận và kiến nghị của luận án có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng đối với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở nước ta. Việc đề xuất
hệ thống đồng bộ các biện pháp phòng chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có tác dụng làm đổi mới toàn diện
chế độ quản lý nhà nước theo định hướng ngày càng tạo thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại, phục vụ yêu cầu phát triển và bảo vệ sản xuất
trong nước, đồng thời bảo đảm các yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Vì vậy,
luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, đào tạo về khoa học pháp lý nói chung cũng như trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách chống buôn lậu thuộc các ngành Công
an, Hải quan, Biên phòng, Thương mại nói riêng. Luận án có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng chuyên trách chống buôn lậu.
7. Bô cục của luận án
Luận án gồm 167 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, luận án có 3 chương, 9 mục.
5
Chưong 1
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỂU KIỆN
CỦA TỘI BUÔN LẬU HOẶC VẬN CHUYỂN t r á i p h é p
HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI
1.1.
THỰC TRẠNG TỘI BUÔN LẬU HOẶC VẬN CHUYÊN t r á i
PHÉP HÀNG HÓA, TIỂN TỆ QUA BIÊN GIỚI
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, công cuộc đổi
mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã giành được
nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Công cuộc đổi mới đã đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về
kinh tế - xã hội, tạo thế và lực để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng đã nảy sinh
không ít những vấn đề tiêu cực trong đời sống xã hội, trong đó có tình hình
tội phạm nói chung, tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ qua biên giới nói riêng\ Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị
quyết và chủ trương, biện pháp tích cực nhằm tăng cường cuộc đấu tranh
chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới và đã thu được một số kết quả bước đầu. Nhưng kết quả đạt được còn
hạn chế, tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới có chiều hướng gia tăng với những diễn biến phức tạp, nghiêm
trọng trong cả nước. Một số Bộ, ngành, địa phương buông lỏng quản lý đối
với hoạt động xuất, nhập khẩu, cá biệt có nơi cơ quan quản lý nhà nước, cơ
quan chức năng đã "làm ngơ" hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn lậu hoạt
động. Nhiều công ty kinh doanh xuất, nhập khẩu, trong đó có cả của Công
an, Quân đội, đơn vị kinh tê Đảng, đoàn thể do xuất phát từ lợi ích cục bộ,
địa phương đã trực tiếp tham gia buôn lậu hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn
lậu sử dụng làm bình phong, núp bóng. Đã có tình trạng bọn buôn lậu trong
6
nước và nước ngoài móc nối với các phần tử thoái hóa, biến chất trong các
lực lưọng chống buôn lậu để lũng đoạn và vô hiệu hóa hoạt động của các cơ
quan này, trong khi đó lãnh đạo cấp trên lại thiếu kiểm tra, giám sát cấp
dưới. Hơn nữa, do nhiều trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm nên
vẫn còn hiện tượng cán bộ làm công tác chống buôn lậu "bảo kê" cho hoạt
động buôn lậu. Ngoài ra, không ít các cá nhân và tổ chức kinh tế không có
chức năng kinh doanh xuất, nhập khẩu cũng bằng mọi cách buôn lậu nhằm
mục đích kiếm lời. Tình hình trên đã gây ra những hậu quả nguy hại về kinh
tế - xã hội, cản trở quá trình phát triển lành mạnh của nền kinh tế đất nước.
I Từ năm 1990 trở lại đây, hoạt động buôn lậu trên các tuyến đều có
xu hướng gia tăng. Nghiên cứu tình hình các vụ buôn lậu bị phát hiện, xử lý
từ 1990 cho đến 1998, chúng ta có bảng 1.1 và được thể hiện bằng biểu đồ
1.2. Qua bảng 1.1 cho thấy, số vụ buôn lậu bị phát hiện năm 1998 tăng gấp
8,3 lần so với năm 1990 và tăng 1,8 lần so với năm 1997. v ề bức tranh toàn
cảnh của tình hình buôn lậu ở nước ta, điều dễ thấy là hàng lậu từ Trung
Quốc qua các con đường tiểu ngạch vào các tỉnh phía Bắc, từ Campuchia
theo các sông ngòi, kênh rạch, theo người đi bộ qua các cánh đồng, rừng
giáp biên vào các tỉnh phía Tây Nam, rồi theo xe lửa, tàu thủy, ô tô, xe máy
đổ về các thành phố, thị xã. Tuy không nghiêm trọng bằng ở biên giới phía
Bãc và Tây Nam, hàng lậu từ Thái Lan qua Lào vẫn tiếp tục đổ về các cửa
khẩu biên giới miền Trung, Tây Bắc; hàng lậu từ Trung Quốc, Nhật Bản,
Hồng Kông, Singapore... theo các con tàu viễn dương mà chủ yếu là tàu,
thuyền Việt Nam đổ về các tụ điểm trên suốt chiều dài bờ biển ngày càng
nhiều. Các loại hàng lậu rất đa dạng nhưng chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng
như ô tô, xe máy, tivi, tủ lạnh, quạt điện, xe đạp, rượu bia, thuốc lá, vải vóc,
quần áo, thực phẩm, mỹ phẩm, vật liệu xây dựng vốn là những hàng có
chênh lệch giá cao, thậm chí cả những hàng hóa nước ta thừa khả năng sản
xuất mà vẫn cứ bỏ ngoại tệ để nhập lậu về như bát đĩa, đũa ăn, tăm tre...
Hàng xuất lậu thường là đồng, niken, nhôm, gỗ quý, động vật quý hiếm,
7
gạo... Hàng lậu có mặt khắp nơi, từ thành phô đến thị xã, từ miền núi đến
đồng bằng, bị chặn ở nơi này thì phát triển ỏ’ nơi khác với nhiều thủ đoạn,
mánh khóe tinh vi cùng với lực lượng tham gia đông đảo, thậm chí có nơi
nhiều người lớn và trẻ em bỏ sản xuất, bỏ học tham gia buôn lậu hoặc làm
"cửu vạn" vận chuyển hàng thuê cho bọn buôn lậu.
Bọn buôn lậu dùng mọi thủ đoạn để lừa dối, móc ngoặc với những
cán bộ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan nhà nước, trong các lực lượng
chống buôn lậu. Chúng lợi dụng các kẽ hở của cơ chế, chính sách; lợi dụng
sự yếu kém về kỹ thuật nghiệp vụ, thiếu hiểu biết của người kiểm soát về
máy móc và cấu trúc của tàu thuyền, ô tô, máy bay; lợi dụng hàng hóa cổng
kềnh; lợi dụng thời tiết, dồn ép vế tâm lý của sự dồn tắc về giao thông khi
kiểm tra phương tiện. Chúng gia công thêm những bộ phận để gắn hàng lậu
trong các máy móc, trong lốp xe và trong các phương tiện khác. Bọn buôn
lậu vì lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích quốc gia, tiết lộ bí mật quốc gia trong
lĩnh vực thương mại, phá hoại tài nguyên đất nưóc, sẵn sàng du nhập những
loại hàng cũ kỹ làm ô nhiễm môi trường, nhập về nhũng máy móc lạc hậu
đã tân trang của nước ngoài gây tác hại lâu dài cho đất nước. Không ít cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước làm hợp đổng lao động giả để cho tư thương
ra nước ngoài buôn bán hoặc bán hộ chiếu để lợi dụng tiêu chuẩn hành lý
miễn thuế. Tất cả các thủ đoạn đó thực chất là các dạng buôn lậu tinh vi,
không dễ phát hiện, gây khó khăn và mất nhiều công sức cho các cơ quan
chức năng.
Tổng giá trị, số lượng chủng loại hàng buôn lậu gia tăng liên tục
hàng năm. Trong ba năm 1990, ỉ 991, 1992, lực lượng Cảnh sát kinh tế
trong cả nước đã phát hiện 5.492 vụ buôn lậu, thu giữ hàng hóa buôn lậu trị
giá 274 tỷ 920 triệu đổng (gồm 817 kg vàng, 2.415.291 USD, 859 tấn bông,
722 kg chất ma túy, 18.576 bao thuốc lá ngoại...). Cùng thời gian đó, Hải
quan cả nước đã phát hiện 14.581 vụ buôn lậu, trị giá 128 tỷ đồng (gồm
8
2,3 tấn cần sa, 33 kg thuốc phiện, 5 kg uranium, 5.066 cổ vật). Như vậy,
theo thống kê của Tổng cục Hải quan và của Cục Cảnh sát kinh tế, Bộ Công
an, trong ba năm 1990, 1991, 1992, giá trị hàng buôn lậu mà lực lượng
Cảnh sát kinh tế và Hải quan thu giữ là 402 tỷ 920 triệu đồng.
Trong năm 1993 và sáu tháng đầu năm 1994, Cảnh sát kinh tế đã
phát hiện và xử lý 12.687 vụ. Năm 1994, lực lượng điều tra chống buôn lậu
của Hải quan đã phát hiện 5.296 vụ buôn lậu với số lượng hàng hóa trị giá
260 tỷ đổng; riêng Hải quan Lạng Sơn, Hải Phòng đã thu giữ hàng buôn lậu
trị giá 130 tỷ đổng. Trong năm 1995, lực lượng Cảnh sát kinh tế phát hiện
4.611 vụ buôn lậu với 3.723 đối tượng; Hải quan phát hiện và bắt giữ
11.413 vụ buôn lậu và gian lận thương mại, trị giá 189 tỷ đồng. Năm 1996,
Hải quan bắt giữ 12.500 vụ, trị giá 370 tỷ đồng (tăng gấp hai lần năm
1995). Năm 1997, Hải quan bắt giữ 16.700 vụ (trong đó 7.250 vụ gian lận
thương mại), trị giá 530 tỷ đồng (chưa kể trị giá hàng hóa vụ Tân Trường
Sanh), tăng 33% về số vụ và 43,5% về giá trị hàng hóa so với năm 1996.
Trong số hàng buôn lậu bị thu giữ có 54 kg thuốc nổ, 98 kg thuốc phiện,
6.636 kg cần sa, 820 gram hêrôin, 11.827 ống thuốc gây nghiện, 375 cổ vật,
3.300 văn hóa phẩm độc hại. Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 1998 của Tòa án nhân dân tối cao, trong 9 tháng của năm 1998, lực
lượng chống buôn lậu cả nước đã phát hiện 30.956 vụ buôn lậu, gian lận
thương mại với tổng giá trị hàng phạm pháp trên 430 tỷ đồng, hàng nghìn
xe máy, trên 8 triệu bao thuốc lá ngoại; 23,15 kg vàng, 2,2 triệu USD, 6.195
m3 gỗ, trên 5 tấn động vật hoang dã... Ngoài ra, cơ quan an ninh điều tra, Bộ
Công an cũng đã khám phá một số đường dây buôn lậu ngoại tệ, vàng, đồng
hồ Nhật, hàng điện tử từ Campuchia qua Việt Nam sang Trung Quốc và
ngược lại, trị giá hàng trăm tỷ đồng. Lực lượng quản lý thị trường đã kiếm
tra và xử lý 49.962 vu buôn lậu và lưu thông trái phép hàng nhập khẩu, tổng
số tiền xử phạt hành chính và bán hàng tịch thu lên tới 118"tỷ đồng. Nhiều
9
mặt hàng nhập lậu bị quản lý thị trường phát hiện như 8.500 chai rượu
ngoại, 15.000 chiếc tivi và đầu video, 3,5 triệu bao thuốc lá ngoại, 716
chiếc xe máy, 176 kg thuốc nổ...
Hoạt động của bọn buôn lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt và trắng
trợn hơn trước. Số vụ móc nối, liên kết hoạt động giữa bọn buôn lậu trong
nước với các tổ chức buôn lậu quốc tế ngày càng tăng. Tinh hình buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trên từng tuyến
như sau:
Tuyến biên giói:
Trên tuyến biên giới Việt - Trung, số vụ buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới vẫn diễn ra thường xuyên, liên tục và
tăng nhiều so với trước năm 1996 (trước đó chưa nối đường sắt hai nước). Mặt
hàng nhập lậu chủ yếu là hàng có thuế suất cao, hàng không khuyên khích
nhập khẩu như hàng điện tử, vải vóc, quần áo may sẵn, đồ điện dân dụng,
xe đạp, đồ dùng gia đình... Đáng chú ý ở tuyến biên giới này là tình trạng
nhập lâu chất nổ, các chất gây nghiên, tài liêu, sách báo với nội dung xấu.
Hiện nay, trọng điểm của buôn lậu trên tuyến biên giới phía Bắc là
Quảng Ninh và Lạng Sơn. Chỉ riêng năm 1996, tại cửa khẩu Móng Cái, Hải
quan đã phát hiện 310 vụ buôn lậu với trị giá hàng lậu 2,2 tỷ đồng; năm
1997 phát hiện 500 vụ, trị giá hàng lậu 5 tỷ đồng. Hàng hóa thường được
"cửu vạn" vận chuyển vượt qua biên giới theo các đường mòn hai bên cánh
gà cửa khẩu bằng phương thức xé lẻ, thu gom nhiều lần, sau đó dùng hóa
đơn buôn chuyến, hóa đơn mua hàng để lưu thông hàng hóa nhằm trốn thuế
nhập khẩu, bọn buôn lậu còn dùng các loại xe đặc chủng như xe đông lạnh,
xe thư báo... để chở hàng lậu vào thời điểm 2 - 3 giờ sáng, lợi dụng những
đêm tối trời, thời tiết xấu để vận chuyển hàng lậu.
Trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào, tình hình nổi lên là buôn lậu
thuốc phiện, hêrôin từ Lào qua biên giới vào Việt Nam, nhập lậu thuốc lá
10
ngoại, chủ yếu diễn ra ở cửa khẩu Lao Báo, Quảng Trị; xuất lậu gạo, pháo
nổ, xăng, dầu, kim loại màu... Trên tuyến này hình thành các tổ chức buôn
lậu xuyên quốc gia; bọn buôn lậu người Lào tập kết hàng từ Thái Lan về
Bán Đen, chọ' Krôn của Lào rồi dùng nhiều thuyền máy chở hàng hóa dọc
sông Sêpôn (biên giới Lào - Việt), khi thấy vắng lực lượng Hải quan là họ lao
thuyền sang bờ sông phía Việt Nam. Đến bờ sông, hàng trăm dân địa phương
được chứng thuê mướn chia nhau xé lẻ, gùi cắt rừng vào nội địa (tránh các
trạm kiểm soát), tập kết dọc theo đường 9 cho các lực lượng xe thồ (xe
Minsk, xe đò, xe đạp) chở về Đông Hà. Ngoài ra, một lượng hàng lậu lớn
cũng tuồn vào Việt Nam theo các lối mòn biên giới ở hai bên cánh gà cửa
khẩu Lao Bảo. Chỉ tính trong năm 1997, tại cửa khẩu Lao Bảo, Hải quan đã
phát hiện 290 vụ buôn lậu với trị giá hàng lậu gần 3,5 tỷ đổng; trong 3
tháng đầu năm 1998, phát hiện 370 vụ, với trị giá hàng lậu hơn 4,2 tỷ đồng.
Trên tuyến biên giới Tây Nam, bọn buôn lậu chủ yếu buôn bán trái
phép qua biên giới xe máy, gỗ, thuốc lá ngoại, rượu ngoại, hàng điện tử, đồ
xa xỉ phẩm. Địa bàn buôn lậu chủ yếu là các tỉnh Long An, Tây Ninh, An
Giang, Bình Phước, khu tiếp giáp giữa xã Thông Bình (Đồng Tháp) với xã
Thạnh Hưng (Long An)... Ngoài ra, chúng còn lập ra nhiều kho "di động"
làm bằng các thuyền lớn phủ bạt, neo sẵn tại các điểm đối diện với Thước
Nước, Sở Thượng, Hồng Ngự, Tân Hổng, Tân Châu, Hồ Lương, Hồ Gai...
Bọn buôn lậu thường dùng thủ đoạn xé lẻ hàng, dùng ghe tam bản mũi bè
hai đáy và ghe cà dom mũi đứng hai mui có tốc độ cao để chở hàng vào
Việt Nam; hoặc thuê cửu vạn dùng xe máy chở hàng qua các đường tắt,
đường mòn biên giới. Đáng lưu ý, tình hình buôn lậu qua biên giới xảy ra
rất nshiêm trọng ở huyện Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; đặc biệt ở xã Mỹ Đức
có 6.480 nhân khẩu nhưng có tói 60% dân sống bằng nghề buôn lậu.
Có những vụ buôn lậu lớn trị giá hàng chục, hàng trăm tỷ đổng bị
phát hiện ở tuyến biên giới này. Ví dụ: vụ án buôn lậu qua biên giới trị giá
11
hàng trăm tỷ đổng bị phát hiện và xét xử trong năm 1998 tại Long An.
Trong vụ án này, một số cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến huyện đã móc nối, "bật
đèn xanh" cho bọn đầu nậu hợp pháp hóa 171 vụ nhập lậu nhiều hàng hóa
từ nước ngoài vào nội địa trái với chủ trương của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, trục lợi bất chính mang tính cục bộ, địa phương trên 3,48 tỷ
đồng, làm thất thu thuế tới 67 tỷ đồng, gây thiệt hại nhiều mặt về chính trị,
kinh tế - xã hội, làm thoái hóa một bộ phận cán bộ thuộc lực lượng chống
buôn lậu [10, 9].
Tuyến biển:
Trong khi trên đất liền và tuyến hàng không, hoạt động buôn lậu có
thời kỳ tăng, có thời điểm giảm song hoạt động trên tuyến biển liên tục diễn
ra, ngày càng có tổ chức chặt chẽ hơn và với những thủ đoạn tinh vi, táo tợn
hơn, phản ứng rất linh hoạt và quyết liệt trước sự kiểm tra, kiểm soát của
các cơ quan nhà nước.
Mặt hàng xuất lậu chủ yếu vẫn là kim loại, quặng kim loại và gỗ.
Mặt hàng nhập lậu chủ yếu là các mặt hàng cấm nhập khẩu, những
mặt hàng tạm ngừng nhập khẩu và những mặt hàng Nhà nước điều tiết nhập
khẩu bằng thuế suất cao.
Các cơ quan chức năng đã phát hiện một số đường dây buôn lậu lớn
liên kết trong nước và nước ngoài, được tổ chức rất chặt chẽ, có sự chỉ huy
thống nhất từ trung tâm, được trang bị và lợi dụng các phương tiện kỹ thuật
hiện đại của Nhà nước để thông tin liên lạc bí mật, nhanh chóng và chính
xác, triệt để tận dụng năng lực vận tải biển của Nhà nước, chủ yếu là các
tàu loại vừa và nhỏ của các ngành và các tỉnh, thành phố có tàu viễn dương
và chạy ven biển.
Những đối tượng nằm ở nước ngoài thì thu gom và tổ chức chuyển
hàng về nước. Những tên buôn lậu nằm ở trong nước thì tìm mọi cách mua
quota, giấy phép của các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu hoặc
12
tìm cách quay nhiều vòng một giấy phép nhập khẩu, phổ biến là móc nối
với một sô cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước và đoàn thể để tạo ra
những hình thức hợp pháp đưa hàng về; thuê tàu (chủ yếu là những tàu từ
nước ngoài về không có hàng hoặc chỉ có ít hàng nhập) để đưa được hàng
nhập lậu về nước; tìm cách hợp thức hóa giấy tờ vận chuyển hàng lậu; tổ
chức tàng trữ, tiêu thụ hàng; chuyển lậu ngoại tệ, vàng hoặc tìm cách xuất
lậu một số hàng ra cho các đối tượng nằm ở nước ngoài để thanh toán số
hàng đã nhập lậu. Làm được các việc trên, bọn buôn lậu phải móc nối, lợi
dựng một số viên chức nhà nước trong Công an, Hải quan, Thuế vụ, Quản
lý thị trường...
Đối phó với sự tăng cường kiểm tra, kiểm soát của ta ở cảng, thời
gian gần đây, hàng nhập lậu thường sang mạn ngay ngoài biển. Mỗi khi có
"tàu mẹ" ở nước ngoài về thì hàng chục "tàu con" đến đúng tọa độ và nơi
"tàu mẹ" dừng. Sau khi sang mạn, các tàu thuyền nhỏ này đưa hàng vào đất
liền, đổ hàng lậu vào những nơi không có sự kiểm tra, kiểm soát hoặc tuy
có song rất sơ hở.
Đối với lực lượng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước ở ngoài biển,
chúng công khai hối lộ khi bị phát hiện. Trường hợp không mua chuộc hoặc
tẩu tán được thì chúng vứt hàng xuống biển để phi tang (một thuyền chở
500 chiếc tivi bị bắt giữ sau khi nhận hàng ở tàu mẹ đã quẳng tất cả số hàng
này xuống biển). Có trường hợp chúng dùng vũ lực chống lại như vụ ngày
28-3-1993, khi Hải quan Kiên Giang đang áp tải một tàu chở hàng lậu về
bãi Thơm, bọn buôn lậu đã đánh chết một nhân viên Hải quan, vứt xác
xuống biển và đánh bị thương một đồng chí khác.
Tinh hình buôn lậu trên từng vùng biển của nước ta diễn ra với quy
mô, tính chất phức tạp khác nhau.
Buôn lậu từ vùng biển giáp Trung Quốc ngày càng tăng về số lượng,
quy mô hoạt động. Bọn buôn lậu thường sử dụng các loại tàu nhỏ có sức
13
chở từ 50 tấn đến 400 tấn, có tốc độ nhanh để vận chuyển hàng từ các cảng
Trung Quốc (Kỳ Xá, Xà Coọc, Phòng Thành ...) đi vào các cảng sông lớn ở
Thái Bình, Nam Định, men theo bờ các tỉnh miền Trung, miền Nam. Bọn
buôn lậu hình thành tổ chức, có đầu nậu đứng ra tổ chức đóng góp vốn, tổ
chức giao nhận hàng và ăn chia theo cổ phần đóng góp. Với đầy đủ phương
tiện thông tin liên lạc tiên tiến, khi có sự cố, bọn đầu nâu có thể huy động
đông đảo cửu vạn đến ứng cứu nhằm giành lại hàng và tẩu tán hàng bị cơ
quan chức năng thu giữ.
ờ bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình với chiều
dài bò' biển 430 km, tình hình buôn lậu trên tuyến biển diễn ra rất phức tạp.
Từ cảng Cửa Lò, Nghệ An, hàng lậu như hàng điện tử, xe đạp, quạt điện,
nồi cơm điện của Nhật (chủ yếu đổ cũ), vật liệu xây đựng của Trung Quốc
được nhập lậu, bán tại địa phương hoặc chuyển tiếp đi các tỉnh khác.
Khu vực bờ biển từ Quảng Ngãi, Phíí Yên cho đến Cảng Sài Gòn,
buôn lậu cũng diễn ra sôi động, đặc biệt là vùng biển Bình Định, Quy Nhơn
nơi mà hàng lâu thường đươc thuyền viên các tàu viễn dương giấu giếm
đưa vào.
Hàng hóa xuất nhập khẩu lậu thường là các loại gỗ cây, gỗ xẻ, gạo,
than, các mặt hàng tiêu dùng. Buôn lậu trên tuyến biển này thường với số
lượng, quy mô lớn, giá trị cao. Thủ đoạn của bọn buôn lậu thường là phân
hàng từ tàu lớn đỗ ở ngoài xa sang cho các tàu, thuyền nhỏ để chuyển hàng
vào bờ; các tàu lớn thường gia cố thân các hầm, vách ngăn để giấu hàng
buôn lậu và gây khó khăn cho lực lượng Hải quan khi kiểm tra, khám xét;
lợi dụng phương thức vận chuyển hàng bằng Container để buôn lậu như xếp
lẫn hàng cũ vào hàng mới, hàng tốt vào hàng xấu, hàng có giá trị và thuế
suất cao vào hàng có giá trị và thuế suất thấp; hàng cấm hoặc hàng quản lý
bằng hạn ngạch, hàng nhập khẩu phải có giấy phép lẫn vào hàng xuất nhập
khẩu khác; làm thủ tục xin cho chuyển tiếp hàng hóa về tỉnh để làm thủ tục
Hải quan nhưng trên đường đi lợi dụng sơ hở hoặc móc ngoặc, hối lộ nhân
viên áp tải để tẩu tán hàng nhập lậu hoặc làm thủ tục chuyển tiếp hàng về
tỉnh nhưng thực tế hàng đó được giải tỏa ngay ở địa phương có cửa khẩu
nhập như ở Thừa Thiên - Huế, Cần Thơ trong vụ Tân Trường Sanh.
Tuyến hàng khỏng:
Từ năm 1990 trở lại đây, lượng hành khách và phương tiện xuất
nhập cảnh ra vào Việt Nam chủ yếu qua hai cửa khẩu: Sân bay quốc tế Nội
Bài và Tân Sơn Nhất, ngày càng tăng. Hành khách xuất nhập cảnh đa dạng
và phức tạp; phương tiện xuất nhập cảnh cũng nhiều và đa dạng hơn. Hãng
Hàng không Việt Nam đã mở thêm nhiều tuyến bay mới và nhiều hãng
hàng không trên thế giới cũng mở tuyến bay mới đến Việt Nam.
Tinh hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
đường hàng không, nhất là các loại hàng cấm như ma túy, đồ cổ, vàng, đá
quý, ngoài tệ, văn hóa phẩm, tài liệu phản động có chiều hướng gia tăng.
Việc vận chuyển trái phép các chất ma túy ra, vào Việt Nam đã xuất hiện
nhiều. Đối tượng chủ yếu là người nước ngoài, Việt kiều có quan hệ móc
nối với bọn buôn bán ma túy trong nước. Thủ đoạn xuất nhập lậu ma túy
thường được ngụy trang, cất giấu rất tinh vi như để trong đế giày, trong va li
hai đáy, ép vào khuôn tranh sơn mài... Điển hình hai vụ lớn đã bị Hải quan
phát hiện là vụ nhập lậu 18,1 kg hêrôin bị Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất
phát hiện và vụ xuất lậu 5,1 kg hêrôin bị phát hiện tại sân bay Nội Bài. Đối
với cẩc loại hàng hóa, tiền tệ khác, hai cửa khẩu tập trung nhiều vụ buôn lậu
nhất cũng là sân bay Tân Sơn Nhất và sân bay Nội Bài. Năm 1993, Hải
quan sân bay Tân Sơn Nhất thu giữ 1.928 cổ vật các loại, 2.211 kg vàng;
Hải quan sân bay Nội Bài, Hà Nội bắt 10 vụ với 119 cổ vật các loại. Năm
1994, Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất phát hiện việc khai khống 1.741.000
USD, 3.200 USD Hồng Kông và 55 lượng vàng; năm 1995, số lượng ngoại
tệ được vận chuyển trái phép qua sân bay này bị phát hiện lên đến
15
3.173.000 USD, 360.000 nhân dân tệ, 3.200.000 yên Nhật, 25.900 mác Đức
và 34.200.000 đồng Việt Nam.
Việc Iihập lậu một số loại vũ khí quân dụng cũng được thực hiện
qua tuyến hàng không. Năm 1994, Hải quan Nội Bài đã phát hiện 4 vụ, thu
2.230 súng ngắn bắn đạn hơi, trên 9.000 viên đạn. Cùng với đường bưu
điện, tuyến hàng không cũng là nơi các đối tượng bên ngoài vận chuyển văn
hóa phẩm phản động vào Việt Nam, chủ yếu do hành khách xuất nhập cảnh
mang theo giấu lẫn trong hàng hóa, hành lý, không khai báo Hải quan hoặc
gửi qua đường bưu điện. Đối tượng có cả người nước ngoài, Việt kiều và
cán bộ, học sinh Việt Nam công tác, học tập và lao động ở nước ngoài đem
về. Chỉ riêng tháng 4-1997, Hải quan Bưu điện Hà Nội đã phát hiện 11 vụ,
thu giữ 54 ấn phẩm phản động, 6 băng video, 7 đĩa CD; Hải quan sân bay Nội
Bài phát hiện 8 vụ, thu giữ 18 băng video, 10 tạp chí có nội dung đồi trụy.
Việc xuất lậu cổ vật thường do các đối tượng là khách du lịch,
thương nhân thuộc quốc tịch Mỹ, Pháp, Đức, Đài Loan, Hổng Kông... thực
hiện với các thủ đoạn cất giấu, đé lẫn hàng trong tư trang, trong hàng gốm
sứ, hàng giả cổ, tranh sơn mài, đồ mây tre... Một bộ phận không nhỏ hành
khách xuất nhập cảnh lợi dụng chế độ miễn thuế khi nhập cảnh đã mang
theo những hàng hóa gọn, nhẹ nhưng giá trị lớn hoặc ra vào nhiều lần, hoặc
nhờ người khác mua hộ, mang và khai hộ nhằm mục đích buôn bán kiếm
lời. Lợi dụng tiêu chuẩn hành lý miễn thuế, bọn buôn lậu thu gom tò khai
hành lý của khách nhập cảnh, tổ chức nhập hàng theo các tờ khai này để
hưởng tiêu chuẩn miễn thuế. Chúng còn lợi dụng chế độ quà biếu, gửi hàng
có giá trị lớn, gửi nhiều lần, nhiều địa chỉ qua đường bưu điện để buôn bán
kiếm lời.
Trong khi tình hình các vụ buôn lậu bị phát hiện khá nhiều, nhưng
theo thống kê ở báng 1.1, số vụ án buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới được Tòa án nhân dân các cấp xét xử lại không
16
lớn. Theo thống kê của Tòa án nhân dân, chúng tôi lập bảng 1.3 và biểu
diễn động thái tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới dưới dạng biểu đồ 1.4. Nghiên cứu bảng 1.3 và so sánh
vói báng 1.1 cho thấy, số vụ buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới bị xét xử về hình sự còn chiếm tỉ lệ quá thấp so với
tổng số vụ vi phạm: Trong 9 năm (từ 1990 đến 1998), Tòa án nhân dân các
cấp mới xét xử 712 vụ buôn lậu so với 102.256 vụ buôn lậu bị phát hiện,
chiếm 0,69%, trong khi đó xử lý hành chính chiếm 99,31% số vụ bị phát
hiện. Chính việc xử lý loại tội buôn lậu trên bằng biện pháp hình sự theo
quy định của pháp luật còn quá thấp nên đã không đẩy lùi được tệ nạn buôn
lậu vốn đang gây tác hại về nhiều mật đối với đất nước ta. Nguyên nhân chủ
yếu là các cơ quan có trách nhiệm chỉ quan tâm đến xử lý hành chính (phạt
tiền, tịch thu hàng hóa tại chỗ) vừa nhanh, vừa có tiền nộp vào ngân sách
địa phương, người phát hiện được trích thưởng kịp thời, chưa nói đến các
nguyên nhân tiêu cực khác. Mặt khác, động thái của tình hình buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới vào những năm
gần đây có sự mâu thuẫn về mặt logic với động thái tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Có thể luận chứng nhận
xét này như sau:
- Động thái tình hình buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới được xác định trong từng năm năm:
+ Năm 1995 tăng 308% so với năm 1990.
+ Năm 1996 tăng 312,5% so với năm 1991.
+ Năm 1997 tăng 231,9% so với năm 1992.
+ Năm 1998 tăng 424% so với năm 1993.
- Động thái tình hình tội buôn lậu hoặc vân chuyển trá phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới được xác định tr<Ị)ng' từfíg rì&MÝMVi:3 '
l-i-mrxnÍKí n Ẩn Vlr-M
+ Năm 1995 tăng 425% so với năm 1990.
+ Năm 1996 tăng 342,8% so với năm 1991.
4- Năm 1997 tăng 230% so với năm 1992.
+
Năm 1998 tăng 142% so với năm 1993.
Điều dễ nhận thấy là số vụ buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền
tệ qua biên giới được phát hiện năm 1998tăng 424% so vớinăm
1993, trong khi đó tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phéphàng hóa, tiền tệ
qua biên giới năm 1998 chỉ tăng 142% so với năm 1993.
Cơ cấu và tính chất của tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cũng có một số vấn đề đáng lưu ý.
Cơ cấu của tình hình tội phạm nói chung là tỷ lệ và mối tương quan
của các loại tội phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trong một
khoảng thời gian nhất định và ở một lãnh thổ, địa bàn nhất định. Các chỉ số
về cơ cấu của tình hình tội phạm chỉ rõ đặc điểm lượng - chất của tính nguy
hiểm cho xã hội của tình hình tội phạm, chỉ rõ các đặc điểm của nó. Cơ cấu
của tình hình tôi pham còn chỉ rõ đinh hướng chính cần phải tãp trung của
công tác đấu tranh với tình hình tội phạm.
Theo chúng tôi, những chỉ số cơ bản về cơ cấu của tình hình tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là:
- Mối tương quan và tỷ lệ của tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới so với các loại tội phạm khác.
- Mối tương quan và tỷ lệ của tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong nhóm những tội nghiêm trọng và
phổ biến nhất.
- Tỷ lệ của hình thức tái phạm, chuyên nghiệp, có tổ chức trong tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
- Tỷ lệ của tình hình người chưa thành niên phạm tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
18
- Đặc điểm địa lý của tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, tức là sự phân chia của tình hình tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới theo các
vùng và điểm dân cư.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cho thấy mức tương quan và tỷ trọng
của tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
so với các loại tội phạm khác chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình.
Trong năm 1997, Tòa án các cấp đã xét xử sơ thẩm 48.664 vụ án hình sự
các loại với 76.495 bị cáo, trong đó có 92 vụ buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới với 193 bị cáo (tỷ lệ rất thấp, chiếm
0,0012% số vụ; 0,002% số bị cáo); năm 1998, Tòa án các cấp xét xử 48.291
vụ án hình sự với 74.482 bị cáo, trong đó có 67 vụ buôn lậu với 204 bị cáo
(chiếm 0,003% số vụ; 0,0027% số bị cáo).
Để xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tộ qua biên giới với các loại tội phạm được phân
chia theo các chương trong Phần các tội phạm của BLHS, chúng tôi lập
bảng 1.5. Từ bảng này cho thấy:
- So sánh với các tội xâm phạm ANQG:
+ Năm 1991, tỷ lệ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới là 3% số vụ và 4,7% số bị cáo.
+ Năm 1992, tỷ lệ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới là 3,5% số vụ và 8,4% số bị cáo.
+ Năm 1993, tỷ lệ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới là 3,3% số vụ và 6% số bị cáo.
+ Năm 1994, tỷ lệ tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới là 8,1% số vụ và 12,8% số bị cáo.
19